Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA BÁO CHÍ TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ. LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Vũ Tuấn Anh

HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH
CỦA BÁO CHÍ TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ.
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà nội – 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Vũ Tuấn Anh

HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH
CỦA BÁO CHÍ TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chun ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS, TS. Nguyễn Linh Khiếu

Hà Nội - 2013

2




MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4

6. Đóng góp của luận văn

4

7. Kết cấu của luận văn


4

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về báo chí và

5

quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh của báo chí trong
đấu tranh chính trị
1.1. Lý luận chung về báo chí

5

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh của báo chí

19

trong đấu tranh chính trị.
Chương 2: Hồ Chí Minh vận dụng sức mạnh của báo chí

38

trong đấu tranh chính trị.
2.1. Sức mạnh của báo chí trong đấu tranh giải phóng dân

38

2.2. Sức mạnh của báo chí trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

54


Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy

77

tộc.

sức mạnh của báo chí trong đời sống chính trị.
3.1. Báo chí Việt Nam hiện nay.

77

3.2. Thực trạng phát huy sức mạnh của báo chí theo tư

80

tưởng Hồ Chí Minh

3


3.2.1. Trong xây dựng đất nước

80

3.2.2. Trong bảo vệ Tổ quốc

91

3.3. Một số giải pháp phát huy sức mạnh của báo chí


95

trong đời sống chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với báo chí

95

3.3.2. Xây dựng đội ngũ làm báo

99

Kết luận

105

Danh mục tài liệu tham khảo

107

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thế kỷ XX, nhân dân thế giới biết đến Hồ Chí Minh là một nhà văn
hóa kiệt xuất, một vị anh hùng giải phóng dân tộc. Ở Việt Nam, Người là một nhà
tư tưởng lỗi lạc, một nhà chính trị thiên tài, một người cha kính u của tồn thể
dân tộc và Người cũng là một nhà báo vĩ đại. Người đã để lại cho đời di sản vô giá
về các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, qn sự, ngoại giao… Tuy nhiên, phải

kể đến một lĩnh vực đã góp phần to lớn làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam
cũng như góp phần làm rạng danh Người trên thế giới - đó chính là báo chí. Trong
suốt cuộc đời của mình, ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Người đã
lấy báo chí làm vũ khí đấu tranh, Người làm chủ bút nhiều tờ báo quan trọng: Le
Paria, Thanh niên, Việt Nam độc lập,… và là người chỉ đạo trực tiếp những tờ báo
lớn của Đảng như: Cờ giải phóng, Sự thật, Nhân dân… Người là nhà báo với ý
nghĩa chân chính nhất của nghề báo, khơng chú ý đến tên tuổi và sự nghiệp riêng
mà chỉ quan tâm tới đích thiêng liêng là đem ngịi bút phục vụ cách mạng. Người
tập trung toàn bộ trang viết vào một đề tài “về nội dung viết mà các cơ chú gọi là
“đề tài” thì tất cả các bài báo Bác viết chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế
quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Duyên nợ của Bác đối với báo chí là như vậy”. Trong suốt gần 50 năm làm báo,
Bác đã sử dụng báo chí làm vũ khí chiến đấu trên mặt trận tư tưởng; làm công cụ
vạch trần tội ác của kẻ thù, giác ngộ nhân dân cả nước, tập hợp lực lượng, kêu gọi
toàn quốc kháng chiến mang lại tự do cho dân tộc…. Như vậy, báo chí đã thể hiện
sức mạnh to lớn trong đời sống chính trị.
Tìm hiểu cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, ta thấy, Người ln
coi báo chí là vũ khí tư tưởng mang sức mạnh to lớn, do đó, để thành cơng, các nhà
cách mạng cần phải nắm vững và vận dụng sức mạnh của báo chí một cách hiệu
5


quả nhất vào các hoạt động trong đời sống chính trị. Cho đến nay, mặc dù đời sống
đất nước đã có nhiều thay đổi, nhưng những tư tưởng bất hủ về sức mạnh báo chí
của Người vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là những tri thức quý báu đối với lớp lớp thế
hệ nhà báo hiện tại và tương lai học tập và noi theo.
Chính vì thế mà tác giả đã lựa chọn: “Hồ Chí Minh với việc phát huy sức
mạnh của báo chí trong đời sống chính trị”; làm đề tài luận văn thạc sĩ Chính trị
học, chuyên ngành Hồ Chí Minh học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Có thể nhận thấy rằng chưa bao giờ báo chí - truyền thơng nước ta đạt trình độ
phát triển tồn diện như hiện nay, trên các bình diện số lượng, loại hình cơng nghệ kỹ thuật và đội ngũ nhà báo. Và cũng chưa bao giờ vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm,
vị thế xã hội của báo chí được nhìn nhận một cách sáng rõ như hiện nay. Báo chí đã
và đang đóng vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ chế độ chính trị; xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều tác phẩm đã được xuất
bản, nhiều tài liệu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí. Tuy nhiên, vẫn
chưa có tài liệu nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng Hồ Chí
Minh về sức mạnh của báo chí trong đời sống chính trị. Dĩ nhiên, ở đây xin nêu
một số tài liệu đã được công bố thời gian qua xung quanh đề tài nghiên cứu: Báo
chí truyền thông hiện đại(từ hàn lâm đến đời thường) của tác giả Nguyễn Văn
Dững, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2011; Hồ Chí Minh về Báo chí của
tác giả Tạ Ngọc Tấn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2004; C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin với Báo chí của tác giả Hà Minh Đức, Nhà xuất bản chính trị quốc gia,
2010; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Báo chí xuất bản của Nhà xuất bản chính trị quốc
gia, 2010; Sự nghiệp Báo chí và văn học của Hồ Chí Minh của tác giả Hà Minh
Đức, Nhà xuất bản giáo dục, 2008; Báo chí với cuộc đấu tranh chống tiêu cực của
Hội Nhà báo Việt Nam, 2003; Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của Nhà
6


báo của Hội Nhà báo Việt Nam, 1998; Vai trò của Báo chí trong định hướng dư
luận xã hội, luận án tiến sĩ của Đỗ Chí Nghĩa(2010); Sự lãnh đạo của Đảng đối với
Báo chí trong thời kỳ đổi mới, luận án tiến sĩ của Nguyễn Vũ Tiến(2003); Báo chí
Thanh Hóa với việc tuyên truyền cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Việt Ba(2010); bài viết của
Nguyễn Đức Bình: Vai trị của báo chí trong cơng tác tư tưởng, trên tạp chí Báo
chí và tuyên truyền, số 1/1995; bài viết của Đỗ Quý Doãn: Hoạt động báo chí, xuất
bản và cơng tác quản lý Nhà nước về báo chí, xuất bản hiện nay, trên tạp chí Cộng
sản, số 788, tháng 6/2008; bài viết của Nguyễn Văn Dững: Vai trị của Báo chí đối

với dư luận xã hội, trên tạp chí Lí luận chính trị, số: 6/2010; bài viết của Nguyễn
Thành Nam: Đối tượng tác động của Báo chí , trên tạp chí Xã hội học, số 4/2004;
bài viết của Tạ Ngọc Tấn: 70 năm Đảng lãnh đạo báo chí với những vấn đề nóng
hổi tính thời sự, trên tạp chí Cộng sản, số 12, tháng 6/2000….
* Đánh giá chung: Các cơng trình nghiên cứu, các bài báo khoa học đã đề cập
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về Báo chí nhưng chưa có tác phẩm nào đi sâu nghiên
cứu cụ thể để kiến giải sức mạnh của Báo chí trong đời sống chính trị theo tư tưởng
Hồ Chí Minh và vận dụng sức mạnh đó vào sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ lí luận chung về sức mạnh của báo
chí, tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của báo chí, luận văn làm rõ thực trạng vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của báo chí trong đời sống chính trị và đề
xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy sức mạnh của báo chí theo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
* Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ lí luận chung về sức mạnh của báo chí; tư tưởng Hồ Chí Minh về sức
mạnh của báo chí trong đời sống chính trị.

7


- Phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của báo
chí hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy sức mạnh của báo chí theo
tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của báo chí
trong đời sống chính trị và sự vận dụng tư tưởng đó hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh
của báo chí trong thời gian từ năm 1919 (khi Hồ Chí Minh bắt đầu viết bài báo đầu

tiên) đến năm 1969 (khi Người viết bài báo cuối cùng) và thực trạng vận dụng tư
tưởng đó hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lí luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về sức mạnh của Báo chí.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Cụ thể là các phương pháp: phân tích và tổng hợp, lơ gic
và lịch sử, qui nạp và diễn dịch, trừu tượng và cụ thể và các phương pháp thống kê,
tổng kết, so sánh..
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của báo chí.
- Góp phần chỉ rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh
của báo chí hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy sức mạnh chính trị của báo
chí theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, 7 tiết, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.
8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁO CHÍ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA
HỒ CHÍ MINH VỀ SỨC MẠNH CỦA BÁO CHÍ
TRONG ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ
1.1. Lí luận chung về báo chí
1.1.1. Các quan niệm về báo chí
Truyền thơng nói chung và báo chí nói riêng đã và đang giữ vị trí thiết yếu
trong đời sống xã hội. Mặc dù báo chí được ra đời từ rất sớm, nhưng đến nay trên
thế giới, việc đưa ra một quan niệm về báo chí vẫn cịn là điều đang được bàn cãi

rất nhiều.
Theo từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì báo chí xuất phát từ hai từ
“báo” là thơng báo và “chí” là giấy. Như vậy, nói một cách khái qt thì báo chí là
những xuất bản phẩm định kỳ như Nhật báo hay Tạp chí. Với quan niệm như thế
thì quá chung chung, và chưa đầy đủ. Chung chung vì khơng thấy rõ được báo chí
làm cơng việc gì, vai trị của nó ra sao; cịn chưa đầy đủ ở chỗ chỉ mới đề cập đến
báo chí là những ấn phẩm bằng giấy, thế nhưng thực tế chúng ta có nhiều các dạng
khác như báo thanh, báo hình, báo mạng điện tử... Như vậy quan niệm này vẫn còn
nhiều hạn chế.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, lịch sử xã hội lồi người cho đến nay có hai giai
cấp và theo đó có hai hệ tư tưởng đối lập nhau là tư sản và vơ sản. Chính vì thế mà
quan niệm về báo chí của hai hệ tư tưởng này cũng đối lập nhau. Thậm chí ngay cả
trong hệ tư tưởng tư sản cũng có nhiều quan niệm khác nhau về báo chí. Tuy nhiên,
để xem xét chỉ lấy một quan niệm nổi trội nhất của giai cấp tư sản cho rằng: Báo
chí là phương tiện thơng tin – thông tin sự kiện, khách quan, độc lập và không phụ
thuộc vào chính trị, khơng can thiệp vào cuộc đấu tranh giai cấp; báo chí độc lập
với chính trị, giám sát các hoạt động hành pháp, lập pháp và tư pháp. Với quan
niệm này, báo chí nghiễm nhiên được coi như là quyền lực thứ tư, giám sát ba
9


quyền lực cao nhất vừa nêu. Trên lý thuyết là như vậy, tuy nhiên thực tế lại không
hẳn như thế bởi các thế lực chính trị bằng mọi cách chi phối báo chí – truyền thơng
như một cơng cụ hữu hiệu nhằm giành và giữ quyền lực chính trị. Sức mạnh quyền
lực chính trị và đồng tiền là hai cơng cụ chủ yếu chi phối sức mạnh của báo chí và
truyền thơng.
Cịn theo quan điểm của giai cấp vơ sản, báo chí là cơng cụ tun truyền, là
phương tiện đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng – văn hố; báo chí là một bộ
phận khơng thể tách rời trong bộ máy tổ chức của Đảng Cộng sản; là cơ quan ngôn
luận của tổ chức Đảng.

Ở Việt Nam, căn cứ vào vai trị, chức năng của Báo chí được quy định trong
Luật Báo chí sửa đổi bổ sung năm 1999. Có thể thấy quan điểm về Báo chí ở nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu
đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân.
Khi tiếp cận báo chí từ quan điểm hệ thống, báo chí được nhìn nhận trong sự
cấu thành bởi nhiều yếu tố, các yếu tố này được liên kết với nhau thông qua các
quan hệ ràng buộc và chi phối lẫn nhau trong các điều kiện cụ thể, trong không
gian và thời gian xác định... Ở đây, báo chí chịu sự chi phối của nhiều loại quan hệ
dọc - ngang, quan hệ bình đẳng và phụ thuộc. Một mặt báo chí được coi như một
tiểu hệ thống có quan hệ với các tiểu hệ thống khác; mặt khác là trong mối quan hệ
tổng thể với quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế, văn hố, luật pháp...
Trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị Mỹ, nhà nước là tổ chức quyền lực
trung tâm. Quyền lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh: hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Ba quyền lực này độc lập với nhau, kiềm chế và giám sát lẫn nhau
tạo nên sự cân bằng tương đối về quyền lực, do vậy có thể hạn chế tối đa việc lạm
dụng quyền lực. Tổ chức quyền lực chính trị Mỹ theo mơ hình cộng hịa tổng
thống. Tổng thống có quyền lực bao trùm, là nguyên thủ quốc gia, đứng đầu bộ
10


máy hành pháp, là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Trong hệ thống quyền lực
chính trị Mỹ, báo chí được coi như quyền lực thứ tư, có thể giám sát quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Hầu hết báo chí Mỹ là báo chí tư nhân, do tư nhân lập
ra, thậm chí xuất bản báo khơng cần xin giấy phép ngay, nhưng bắt buộc trước hết
phải có mã số thuế để đóng thuế.
Trong khi đó ở Anh lại theo mơ hình nhà nước qn chủ đại nghị, nhà vua và
thượng viện được coi trọng nhưng quyền lực thực tế lại thuộc về hạ viện và chính
phủ. Hạ viện do nhân dân trực tiếp bầu ra, có quyền lập pháp và phê chuẩn tất cả
các đạo luật, hiệp định ký kết với nước ngồi; có quyền phủ quyết thượng viện, có

quyền thành lập chính phủ và giải tán chính phủ thơng qua bỏ phiếu khơng tín
nhiệm chính phủ.
Ở Pháp, hệ thống tổ chức quyền lực lại theo mô hình cộng hồ lưỡng tính,
tổng thống là ngun thủ quốc gia có quyền lực cao nhất, đứng đầu cơ quan hành
pháp, có quyền bổ nhiệm thủ tướng, các bộ trưởng và quốc vụ khanh. Chính phủ
chịu trách nhiệm trước tổng thống và quốc hội, có thể bị quốc hội bỏ phiếu khơng
tín nhiệm hoặc bị tổng thống giải tán
Ở Trung Quốc, hệ thống tổ chức quyền lực chính trị theo mơ hình một đảng
nổi trội, Tổng Bí thư Đảng cộng sản kiêm Chủ tịch nước và là nguyên thủ quốc gia.
Trung Quốc khơng cho phép báo chí tư nhân hoạt động và khơng có luật Báo chí.
Ở Việt Nam, tổ chức quyền lực chính trị theo mơ hình một đảng duy nhất.
Đảng Cộng sản có quyền tuyệt đối, lãnh đạo trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động
của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việt Nam có luật Báo chí và báo chí là
tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Vì mỗi nước trên thế giới có mơ hình tổ chức quyền lực chính trị khác nhau,
do đó quan điểm, chính sách và phương thức khai thác, sử dụng báo chí cũng khác
nhau. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có những điểm chung để có thể đi đến khái quát
chung nhất về khái niệm báo chí: Là phương tiện thông tin đại chúng, là hoạt động
11


thông tin - giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn nhất, là công cụ và phương thức
kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả
nhất trong mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và các
nhóm lợi ích, với các nước trong khu vực và quốc tế..
1.1.2. Vai trò chức năng của báo chí
Thời kỳ Mác - Ăngghen, hai ơng đề cao chức năng truyền bá tư tưởng và cổ
vũ hành động. Mác đã triệt để lợi dụng tự do báo chí tư sản nửa cuối thế kỷ XIX để
truyền bá hệ tư tưởng mới - tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học do ông sáng lập.
Mác và Ăngghen đã sử dụng báo chí một cách tích cực và hiệu quả vào việc giác

ngộ giai cấp công nhân, lãnh đạo và đưa cuộc đấu tranh tự phát thành đấu tranh tự
giác, từ đấu tranh kinh tế lên đấu tranh chính trị và từ đấu tranh chính trị lên đấu
tranh tư tưởng.
Đầu thế kỷ XX, từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, nhất là yêu cầu xây dựng tổ
chức đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo phong trào đấu tranh chính trị toàn Nga,
Lênin đã kế thừa hai chức năng báo chí do Mác nêu ra đồng thời bổ sung thêm
chức năng tổ chức và nhấn mạnh tính tập thể của các chức năng của báo chí vơ sản.
Trong bài “Tổ chức đảng và sách báo đảng”, Lênin viết: Báo chí không những
chỉ là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể
nữa. Lênin đặc biệt nhấn mạnh vai trị của báo chí khi ơng nói, muốn có một phong
trào đáng gọi là phong trào chính trị tồn Nga thì phải có một tổ chức chính trị tồn
Nga; nhưng muốn có một tổ chức chính trị (hay chính đảng) tồn Nga trước hết
phải có một tờ báo chính trị tồn Nga. Do đó ông thành lập, lãnh đạo tờ Tia lửa và
sử dụng nó vào việc thành lập Đảng Cộng sản Nga, lãnh đạo phong trào công nhân
Nga tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng tư sản tháng Hai và cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917.
Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1917 đến 1991, các nhà lí luận báo
chí Xơ Viết khái qt thành ba nhóm chức năng cơ bản của báo chí: nhóm chức
12


năng tư tưởng, nhóm chức năng khai sáng - giải trí, nhóm chức năng tổ chức - quản
lý xã hội(theo Prokhorop E.P, Dẫn luận báo chí, NXB Đại học, Matxcova, 1988).
Đến năm 1998, cũng giáo trình này, tác giả đã bổ sung thêm chức năng kinh tế quảng cáo.
Nhìn chung, trong thời kỳ tồn tại hai hệ thống xã hội đối lập: chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa xã hội. Hai hệ thống xã hội này có quan niệm về chức năng xã hội của
báo chí có sự khác biệt cơ bản. Các nước tư bản chủ nghĩa tuyệt đối hố chức năng
thơng tin - giao tiếp của báo chí trong khi các nước xã hội chủ nghĩa lại tuyệt đối
hoá chức năng tư tưởng – tuyên truyền. Tuy nhiên trên thực tế, không ai thông tin giao tiếp mà khơng nhằm mục đích nào đó, cái đích ấy chính là tuyên truyền. Mặt
khác, nếu báo chí tuyên truyền mà không dựa trên cơ sở nền tảng thông tin sự kiện

thì tun truyền sẽ khó đạt được hiệu quả, thậm chí phản tác dụng. Như vậy, cách
hiểu, cách dùng khái niệm tuyên truyền giữa các nước tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Theo Friedman(biên tập viên chuyên mục ngoại giao và kinh tế của tạp chí
New York Times), thế giới đang chuyển từ “trịn” sang ”phẳng” mà một trong
mười tác nhân chính là do sự phát triển của công nghệ thông tin - kỷ nguyên số, sự
chi phối của thông tin - giao tiếp trong thời đại tồn cầu hố. Trong bối cảnh đó,
chức năng xã hội của báo chí được tiếp cận đa chiều và thực tế hơn theo hướng
tăng dần những tương đồng về quan niệm chức năng của báo chí giữa các nước
nhưng sẽ khó có thể xố hết những khác biệt bởi thế giới quan, quan điểm chính trị,
hệ giá trị văn hoá và những điều kiện cụ thể của sự phát triển kinh tế xã hội có sự
khác biệt giữa các nước, các khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, tiếp cận dưới góc
độ quan điểm hệ thống có thể khái qt báo chí có những chức năng cơ bản sau:
1.1.2.1. Chức năng thông tin - giao tiếp
Báo chí bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi thông tin và giao tiếp của con người và
xã hội. Con người ln ln muốn biết những gì đã và đang xảy ra xung quanh
13


mình, từ gần gũi đến xa xơi, từ nơng đến sâu. Đó là nhu cầu thực tế bảo đảm cho sự
tồn tại và phát triển. Con người càng văn minh, xã hội càng phát triển thì nhu cầu
thơng tin giao tiếp càng cao. Mặt khác, khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin giao
tiếp của con người và xã hội là một trong những chỉ báo cơ bản và quan trọng nhất
đánh giá trình độ phát triển. Trong quá trình đáp ứng nhu cầu ấy, báo chí – truyền
thơng có khả năng cải thiện diện mạo văn hoá của con người và xã hội; đồng thời
góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội.
Để đáp ứng thoả mãn nhu cầu thông tin - giao tiếp của con người vì sự tiến bộ
và phát triển bền vững của xã hội, nhiều nước đã ban hành luật và tạo lập hành lang
pháp lý bảo đảm quyền được thông tin, quyền được biết của công dân.
Thông tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của báo chí. Báo

chí ra đời và phát triển trước hết là thoả mãn nhu cầu thông tin ngày càng cao của
con người và xã hội. Thơng tin là nhu cầu sống cịn, là nhu cầu phát triển của con
người và xã hội, đồng thời, là động lực kích thích sự phát triển. Điều đó giải thích
tại sao trong q trình đổi mới ở nước ta, báo chí truyền thơng phát triển từng ngày.
Số lượng, chất lượng và tính chất các sản phẩm báo chí phản ánh trình độ diện mạo
kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn và tính chất thể chế chính trị.
Như vậy, trong xã hội hiện đại, thơng tin trên các loại hình báo chí đã khơng
chỉ trở thành sức mạnh ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị mà cịn đi sâu vào đời
thường, đi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống cá nhân và cộng đồng.
1.1.2.2. Chức năng tư tưởng
Chức năng tư tưởng của báo chí là khả năng báo chí tham gia vào q trình
tun tuyền, quảng bá hệ tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng này có thể lan truyền rộng
rãi và chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần của người dân. Chức năng tư tưởng thể
hiện sự gắn bó nhất quán, máu thịt của báo chí với một hệ tư tưởng nào đó, thể hiện
xuyên suốt trong tác phẩm và sản phẩm báo chí, cũng như trong hoạt động nghề
nghiệp của nhà báo nói chung. Mỗi nền báo chí, mỗi cơ quan báo chí đều có
14


khuynh hướng tư tưởng chủ đạo - khuynh hướng tư tưởng chiếm ưu thế của mình,
phụng sự cho hệ tư tưởng của một giai cấp nhất định. Do đó, báo chí dù tun bố
cơng khai hay khơng, dưới mọi hình thức, về cơ bản thực chất và chủ yếu là cổ vũ,
truyền bá, đấu tranh bảo vệ cho một hệ tư tưởng nhất định.
Tư tưởng là hệ thống quan điểm, suy nghĩ của con người đối với hiện thực
khách quan, về cuộc sống xã hội nói chung. Tư tưởng gắn liền với một giai cấp,
một chính đảng chính trị, thể hiện một cách tự giác về lợi ích của giai cấp mình gọi
là hệ tư tưởng giai cấp mà tổ chức đỉnh cao của nó là chính đảng.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng có vai trò đặc biệt
quan trọng, là một trong ba yếu tố cấu thành hoạt động cơ bản nhất của đảng. Đối
với hoạt động báo chí, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, chức năng tư tưởng là

chức năng thể hiện tính mục đích, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động báo chí.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khố X về cơng
tác tư tưởng, lí luận và báo chí trước yêu cầu mới đã xác định mục tiêu cho hoạt
động báo chí nước ta trong tình hình hiện nay là: “Báo chí phải góp phần tích cực
vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng; củng cố, tăng cường
sự thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng, sự đồng thuận về chính trị và tinh
thần trong nhân dân, giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ và
phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, của đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao ý chí phấn
đấu thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, hội
nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Công tác tư tưởng, lí luận báo chí phải góp phần tích cực thực hiện có hiệu quả
cuộc vận động xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh, phấn đấu để từ nay đến Đại hội XI của Đảng,
15


ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, khắc phục một bước quan
trọng tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Công tác tư tưởng, lí luận phải vượt qua tình trạng lạc hậu, yếu kém, cơng tác
báo chí phải khắc phục được những khuyết điểm, yếu kém kéo dài; đổi mới nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần củng cố tư tưởng, phát triển trình độ
lí luận chính trị, tri thức của tồn Đảng và hệ thống chính trị, khẳng định vai trị
tiên phong của Đảng
Cơng tác tư tưởng, lí luận, báo chí phải đóng vai trị quan trọng trong việc bảo
vệ và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường
lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng xã

hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc, những tinh
hoa văn hố thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là
diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư tưởng, tính
chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động Báo chí.”
Như vậy, báo chí thực hiện chức năng tư tưởng phải bằng và thông qua các sự
kiện, vấn đề thời sự đã và đang diễn ra; thông qua việc giải thích, giải đáp và bình
luận kịp thời về những vấn đề thời sự trong và ngoài nước, về những vấn đề kinh
tế, văn hoá, xã hội, dân sinh sát sườn và nóng hổi của cuộc sống người dân chứ
khơng chỉ tun truyền chính trị sng. Điều đó có nghĩa là công tác tư tưởng trong
điều kiện kinh tế thị trường, tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu,
rộng... càng trở nên khó khăn hơn và là cuộc đấu tranh gay go phức tạp hơn.
1.1.2.3. Chức năng khai sáng, giải trí
Khai sáng là làm cho con người được mở mang kiến thức, trí tuệ, có thể gắn
liền hay gần gũi với khái niệm văn hoá, khai sáng văn hố. Trong văn hố, có nhiều
16


yếu tố cấu thành nhưng hai yếu tố có vai trị trung tâm là khoa học cơng nghệ và
giáo dục - đào tạo. Một xã hội có phát triển hay không, phần lớn được đánh giá qua
hai yếu tố này. Khoa học cơng nghệ nói lên năng lực sáng tạo giá trị mới của con
người và cộng đồng; còn chất lượng giáo dục - đào tạo được thể hiện chủ yếu ở
việc nâng cao trình độ dân trí, hình thành bản lĩnh, ý chí của cộng đồng cũng như
kiến thức, kỹ năng sống lao động làm ra của cải vật chất và tinh thần đáp ứng nhu
cầu xã hội.
Các giá trị văn hố có thể được giao lưu truyền tải qua nhiều kênh khác nhau
như trường học, các tổ chức trong thể chế xã hội, trong cộng đồng. Thế nhưng
trong xã hội hiện đại, các giá trị văn hoá, giao lưu và truyền tải qua báo chí - truyền
thơng là con đường, phương thức nhanh nhất, hiệu quả nhất. Với các đặc trưng vốn

có của mình, báo chí - truyền thơng là những kênh truyền thơng có sức tác động
nhanh chóng và kịp thời nhất; tác động đến đơng người nhất; trên phạm vi rộng
nhất; với các phương thức, phương tiện đa dạng và phong phú nhất; ảnh hưởng
thường xuyên và liên tục nhất.
* Trên phương diện văn hóa, báo chí thể hiện chức năng thơng qua một số
phương thức cơ bản sau đây:
Một là, báo chí tham gia bảo tồn hệ thống các giá trị văn hố thơng qua giáo
dục truyền thống. Hệ thống giá trị văn hoá truyền thống cần được chọn lọc, phân
loại để xác định nội dung và phương thức giáo dục cho các thế hệ người Việt, nhất
là thế hệ trẻ, thông qua nhà trường, tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị, qua các
phương tiện thơng tin đại chúng trong đó có báo chí.
Hai là, cổ vũ, khích lệ năng lực sáng tạo giá trị mới; đồng thời truyền bá và
nhân rộng nhân tố mới, giá trị mới, động viên tính tích cực xã hội của con người.
Phát hiện, bảo vệ, ủng hộ, truyền bá, nhân rộng cái mới, năng lực sáng tạo giá trị
mới của cá nhân và cộng đồng là trách nhiệm xã hội của nhà báo.

17


Ba là, phê phán các thói hư, tật xấu, các biểu hiện bảo thủ, trì trệ, đấu tranh
chống các hiện tượng phi văn hoá... là phương thức quan trọng của Báo chí trong
q trình tham gia phát triển văn hố giáo dục.
Bốn là, giao lưu văn hoá với các dân tộc, các cộng đồng trên thế giới. Đó là
q trình tiếp biến văn hố qua các loại hình báo chí – truyền thơng.
Như vậy, báo chí góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hoá của dân tộc cũng như giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hoá của
các dân tộc trên thế giới phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Số lượng và chất
lượng các sản phẩm báo chí cũng là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát
triển một cộng đồng, một đất nước. Đồng thời, mức độ và khuynh hướng tiếp nhận
sản phẩm truyền thơng cịn là tiêu chí đánh giá trình độ, diện mạo văn hoá của mỗi

con người. Giao tiếp qua báo chí và truyền thơng đại chúng có vai trị rất quan
trọng trong việc khẳng định và nhân rộng các giá trị văn hóa dân tộc, giữ gìn và lưu
truyền các giá trị văn hoá ấy.
* Trên phương diện giáo dục, báo chí có thể và cần tác động, can thiệp vào
giáo dục theo những nội dung và cách thức phù hợp nhằm góp phần nâng cao dân
trí, phát triển nguồn lực cho sự nghiệp phát triển đất nước. Báo chí khơng những
can thiệp mà cịn là trường học hồn tồn tự nguyện, tự do lựa chọn với phương
thức phù hợp nhất cho mỗi người, mỗi nhóm cơng chúng thơng qua việc cung cấp
các ấn phẩm truyền thơng có chất lượng văn hố tốt. Tính tự giác, khả năng lựa
chọn rộng rãi, cơ chế tiếp nhận linh hoạt, gần gũi thực tế cuộc sống, sinh động, sức
thuyết phục cao... là những ưu thế của báo chí trong việc tham gia vào sự nghiệp
giáo dục đào tạo, do đó hiệu quả thu được sẽ cao hơn, cả trên diện rộng và chiều
sâu.
Nói đến chức năng giáo dục của báo chí là nhấn mạnh giáo dục chính trị tư
tưởng, trách nhiệm cơng dân; giáo dục cung cấp kiến thức, hiểu biết về pháp luật và
ý thức chấp hành pháp luật; trao đổi, chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm sống, kinh
18


nghiệm kinh doanh... cho mỗi cá nhân, nhóm xã hội và cho cộng đồng. Mặt khác,
báo chí cũng là kênh có nhiều ưu thế trong việc phổ biến các thành tựu khoa học công nghệ, hướng dẫn cách thức áp dụng, triển khai và chuyển giao cơng nghệ.
* Báo chí cịn là kênh tạo cơ hội cho đơng đảo nhân dân tham gia giải trí, tức
là tạo điều kiện, tổ chức và hướng dẫn công chúng sử dụng thời gian rỗi một cách
hữu ích để cân bằng trạng thái tâm lý và tái sản xuất sức lao động. Truyền hình có
ưu thế về tổ chức các trị chơi cho mọi tầng lớp dân cư có thể tham gia; phát thanh
lại có ưu thế về lời nói, tiếng động, âm thanh, đặc biệt là các chương trình ca nhạc,
kể chuyện; báo in lại thiên về tiểu phẩm, đố vui, biếm hoạ... Tuy nhiên, các loại
hình báo chí của nước ta hiện nay chưa chú ý đúng mức các chương trình trị chơi
giải trí nói riêng đến các dịch vụ xã hội nói chung trong khi điều kiện kinh tế thị
trường với tốc độ và cường độ lao động cao, nhu cầu giải trí của nhân dân ngày

càng lớn, nhóm đối tượng nào cũng có nhu cầu giải trí trên báo chí và mỗi nhóm có
nhu cầu giải trí khác nhau. Vì vậy, vấn đề có nắm được và thoả mãn được những
nhu cầu đó của cơng chúng hay khơng là hết sức quan trọng.
1.1.2.4. Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội
Chức năng quản lý xã hội của báo chí trước hết là bảo đảm dịng thơng tin hai
chiều từ chủ thể và khách thể quản lý, bảo đảm cho các quyết định quản lý được
thông suốt và thực thi trong thực tế. Chiều thứ nhất, báo chí tuyên truyền các chủ
trương, chính sách và quyết định của các nhà quản lý, lãnh đạo, và biến các quyết
tâm đó thành quyết tâm của tồn dân. Chiều thứ hai là thơng tin đúng đắn, khách
quan nhất có thể về những gì đang diễn ra trước và sau chủ trương lãnh đạo, quyết
định quản lý đã ban hành. Muốn có quyết sách, chủ trương đúng, người lãnh đạo
phải nắm được tình hình, bản chất các vấn đề đang diễn ra chứ khơng phải tình
hình đã được nhào nặn chủ quan. Một trong những kênh thông tin quan trọng và
khách quan nhất, kịp thời và phong phú nhất là báo chí. Báo chí khơng chỉ là cơ

19


quan ngôn luận của của Đảng và Nhà nước mà cịn là tiếng nói, diễn đàn, là tai mắt
của nhân dân.
Giám sát có thể hiểu là theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều
quy định khơng. Điều đó có nghĩa là giám sát bao gồm hai quá trình: theo dõi và
kiểm tra. Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động
được thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong điều kiện có thể, theo
mục tiêu chương trình đã đề ra. Giám sát phải được tiến hành bởi lực lượng độc
lập, có chun mơn, có hiểu biết... mới bảo đảm tính khách quan và hiệu quả. Đáp
ứng những u cầu đó trong đời sống xã hội, báo chí có chức năng quan trọng là
giám sát xã hội: Đó không chỉ là giám sát thực thi quyền lực, mà giám sát đời sống
xã hội theo chuẩn mực nhất định.
Phản biện xã hội trong quá trình thực hiện quyết sách là khẳng định những mặt

tích cực, chỉ ra những mặt hạn chế, khiếm khuyết và những nguy cơ. Thực hiện
chức năng phản biện xã hội là báo chí góp phần khơi dậy, tập hợp nguồn lực trí tuệ
và cảm xúc của tồn dân, trước hết là đội ngũ trí thức, nhất là các chuyên gia về các
lĩnh vực khác nhau, góp ý cho các quyết sách lớn của Nhà nước trong quá trình xây
dựng và thực hiện nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Giám sát, phản biện xã hội thơng qua báo chí
là thể hiện sinh động nhất của việc phát huy dân chủ xã hội. Dân chủ theo Hồ Chí
Minh: “dân chủ có nghĩa là để cho người dân được mở mồm ra nói” (Theo Tuổi trẻ
online, 12/2/2006).
Tóm lại, xã hội càng phát triển thì quyền lực của nhân dân càng được tăng
cường, đặc biệt là quyền giám sát các cơ quan công quyền của nhân dân nhằm hạn
chế lạm dụng quyền lực. Thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội tức là
báo chí thể hiện tính độc lập tương đối của mình. Tính độc lập khơng có nghĩa là
báo chí độc lập tách rời chính trị, báo chí vẫn là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, là
diễn đàn của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng khi thực hiện chức năng
20


giám sát, phản biện xã hội, báo chí khơng theo đuôi một cách thụ động, không dễ
tin vào kết quả thanh tra, kiểm tra của cơ quan chức trách mà cần coi trọng kết quả
điều tra, khai thác độc lập của mình từ tai mắt của nhân dân và chịu trách nhiệm
trước pháp luật và dư luận xã hội về các kết quả ấy. Đảng và Nhà nước cũng cần
những chứng cứ độc lập ấy để phản biện chính sách, để đấu tranh chống tiêu cực,
tham nhũng, làm lành mạnh hố các quan hệ kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng và
củng cố lòng tin của nhân dân vào bộ máy công quyền và chế độ xã hội.
1.1.2.5. Chức năng kinh tế - dịch vụ
Trong nền kinh tế kế hoạch hố tập trung, quan liêu, bao cấp thì sản phẩm báo
chí khơng được coi là sản phẩm hàng hoá mà đơn thuần chỉ được coi là sản phẩm
tuyên truyền. Cho nên báo chí khơng có chức năng dịch vụ xã hội, không được
quảng cáo. Ngày nay, hoạt động trong nền kinh tế thị trường, trong bối cảnh toàn

cầu hố, nên hình thành các quan niệm đúng về sản phẩm báo chí phải là sản phẩm
hàng hố. Tức là cũng có giá trị, giá trị sử dụng, chịu sự chi phối của quy luật cung,
cầu của thị trường. Nhưng đó là loại sản phẩm hàng hố đặc biệt được thể hiện trên
nhiều khía cạnh từ tổ chức sản xuất, định giá, công chúng cho đến thị trường và
cách thức tiêu thụ...
Trong chức năng kinh tế - dịch vụ, quảng cáo là vấn đề có ý nghĩa quan trọng,
nguồn thu từ quảng cáo khơng cịn là phụ thu để cải thiện đời sống có tính chất tình
thế như trước đây nữa, mà là một trong những nguồn thu chính, cơ bản và lâu dài.
Nguồn thu này khơng chỉ góp phần quyết định trong khoản chi cho đổi mới và hiện
đại hố cơng nghệ làm báo, tăng nguồn thu nhập và sức cạnh tranh cho tồ soạn...
mà cịn nộp thuế cho nhà nước(theo lãnh đạo Vụ Báo chí – xuất bản, Ban Tuyên
giáo TW, năm 2010 doanh thu của các cơ quan Báo chí Việt Nam đạt trên 10 000
tỷ đồng). Ở các nước phát triển, một cơ quan Báo chí được coi là phát triển cân đối
nếu nguồn thu từ quảng cáo chiếm 50%, thậm chí 70%.

21


Ở nước ta, báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh, doanh thu năm 2009 đạt gần
800 tỷ đồng, trong đó chủ yếu từ quảng cáo, tờ báo này nộp thuế cho nhà nước hơn
cả nhiều doanh nghiệp hạng trung. Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long năm
2010 cũng đạt doanh thu hơn 700 tỷ đồng, chủ yếu thu từ quảng cáo và nộp thuế
cho nhà nước hơn trăm tỷ. Chưa kể các Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền
hình thành phố Hồ Chí Minh có doanh thu hàng năm hàng ngàn tỷ đồng. Tuy
nhiên, đây cũng là chức năng đặc biệt vì trong quá trình thực hiện cần có đội ngũ
cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp, những quy trình, cách thức đặc thù. Thơng điệp
quảng cáo cũng là thông tin kinh tế, nhưng là dạng thông tin đặc thù - xét về nội
dung, hình thức, phương thức tồn tại, phương thức tác động...
Trong kinh tế báo, nhất là báo in, tồ soạn có các nguồn thu chủ yếu như: thu
từ bán sản phẩm báo chí; thu từ quảng cáo, dịch vụ, nguồn tài trợ, từ các đơn đặt

hàng... Nhờ quảng cáo, vừa giảm giá bán báo dưới giá thành nhờ đó người đọc
được hưởng lợi, tăng được tích luỹ để đầu tư cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng
ấn phẩm báo chí. Nhờ quảng cáo, báo chí đồng thời làm cầu nối và đối tác gần gũi
giữa doanh nghiệp với công chúng xã hội - khách hàng. Nhờ có nguồn thu từ quảng
cáo, dịch vụ, tồ soạn có điều kiện tổ chức hoạt động xã hội, nhất là hoạt động
khuyến học và từ thiện. Thực hiện quảng cáo - dịch vụ tốt là phương án tối ưu tăng
chỉ số phát hành, mở rộng diện quan tâm của công chúng và quan hệ công chúng,
nhờ vậy mà cơng chúng xã hội và nhà nước đều có lợi từ nhiều mặt.
Xã hội càng phát triển, các dịch vụ xã hội trên các loại hình báo chí càng đa
dạng, phong phú và có vai trị quan trọng trong đời sống nhân dân. Các loại hình
dịch vụ ngày càng phát triển như: tư vấn sức khoẻ, kỹ năng sống, việc làm, thị
trường lao động... Đối với các loại hình báo điện tử, ngoài nguồn thu từ quảng cáo,
dịch vụ gia tăng là một trong những hướng phát triển chính, cơ bản và hiệu quả
nhất.

22


Nói tóm lại, báo chí là những kênh giao tiếp đại chúng với tần suất giao tiếp
cao nhất, phạm vi tác động rộng rãi nhất, tác động đến đông người nhất, thường
xuyên, liên tục, phong phú và đa dạng nhất; cho nên chức năng xã hội của báo chí
cũng rất đa dạng. Vì vậy, việc phân định rạch rịi các chức năng khơng phải đơn
giản, nó tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất các loại hình báo chí cụ thể; tuỳ thuộc
vào mục đích phân định chức năng phụ vụ cho nghiên cứu, học tập hay nhận thức
nghề nghiệp; tuỳ thuộc vào tính chất mỗi sự kiện xảy ra trong từng thời điểm cụ thể
mà chức năng nào được coi là nổi trội hoặc được chú trọng hơn. Nói chung, xã hội
càng phát triển, con người càng văn minh, tiến trình dân chủ hố đời sống xã hội
càng được mở rộng thì chức năng của báo chí càng đa dạng, phong phú. Mặt khác,
báo chí càng phát huy vai trị, sức mạnh của mình bao nhiêu càng đảm bảo cho sự
phát triển xã hội bền vững bấy nhiêu trong thời kỳ hội nhập và tồn cầu hố.

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh của báo chí trong đấu
tranh chính trị
Trải suốt chiều dài lịch sử từ khi Hồ Chí Minh viết bài báo đầu tiên năm 1919
đến bài báo cuối cùng năm 1969, chúng ta có thể khái quát được những quan điểm
của Người về vai trò vị trí, chức năng nhiệm vụ và tính chiến đấu của báo chí cách
mạng. Từ đó thể hiện rõ sức mạnh to lớn của báo chí trong đấu tranh chính trị.
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị vị trí, chức năng nhiệm vụ
của báo chí cách mạng
1.2.1.1. Vai trị vị trí của báo chí cách mạng
Phát biểu tại phiên họp thứ 22 Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản năm 1924,
Nguyễn Ái Quốc nói: “Báo chí cộng sản chủ nghĩa có nhiệm vụ làm cho các chiến
sĩ của chúng ta hiểu rõ vấn đề thuộc địa, làm thức tỉnh sự đồng tình hưởng ứng của
quần chúng lao động ở các nước thuộc địa, tranh thủ họ tham gia sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản” [16,195]. Nhận thức một cách sâu sắc vai trò to lớn của báo chí
cách mạng, Người khơng chỉ trực tiếp viết báo, dùng báo chí làm diễn đàn tố cáo và
23


tiến cơng địch, tun truyền cho cách mạng mà cịn tự mình tổ chức ra các tờ báo
cách mạng. Le Paria (Người cùng khổ) là tờ báo cách mạng đầu tiên do Người sáng
lập. Trong tờ truyền đơn cổ động mua báo Le Paria năm 1924 Người viết: “Tờ báo
này là tờ báo của bạn, giúp bạn thoát khỏi cảnh nô lệ và sẽ phát hành rộng rãi trong
tất cả các thuộc địa, nhằm dắt dẫn mọi người bị bóc lột thuộc mọi màu da đoàn kết
lại dưới lá cờ đỏ búa liềm để trong một phong trào cách mạng quốc tế rộng lớn quét
sạch mọi kẻ bóc lột mà chúng ta là những người cùng khổ” [16,461]. Hai năm sau,
ngày 21/6/1925, Người sáng lập và trực tiếp chỉ đạo xuất bản báo Thanh niên, cơ
quan của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chính thức đặt nền móng cho báo
chí cách mạng Việt Nam. Báo tuyên truyền đường lối cách mạng chuẩn bị về tư
tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo quan điểm báo chí và tiếp tục sự nghiệp báo chí của Người, Đảng ta

ngay sau khi thành lập và trong các thời kỳ cách mạng tiếp theo đã cho xuất bản
nhiều tờ báo và tạp chí ở Trung ương và địa phương, coi đó là những cơng cụ quan
trọng hàng đầu trên mặt trận tư tưởng nhằm động viên và cổ vũ quần chúng đứng
lên làm cách mạng, giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược và xây dựng
đất nước sau này.
Không phải ngẫu nhiên mà tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nghị quyết đầu tiên đã có quy định: “Ban Trung ương có thể xuất bản một tạp chí
lý luận và ba tờ báo tuyên truyền”. Cũng không phải ngẫu nhiên mà sau này, trong
thời kỳ kháng chiến, Bác Hồ đã coi báo chí là một mặt trận và cán bộ báo chí là
chiến sĩ trên mặt trận ấy. Năm 1941, trong xã luận báo Việt Nam độc lập, Bác viết:
Tây cốt làm cho ta ngu hèn. Báo Việt Nam độc lập “cốt làm cho dân ta biết, biết
các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình
đẳng tự do” [18,625].
Tóm lại, vai trị và vị trí của báo chí cách mạng trước khi cách mạng thành
cơng là hết sức to lớn, và sau khi cách mạng đã thành cơng thì lại càng có ý nghĩa
24


to lớn hơn. Đó là điều mà tất cả chúng ta có thể nhận thức được qua hoạt động báo
chí và qua những lời dặn của Người về báo chí cách mạng.
1.2.1.2. Chức năng nhiệm vụ của báo chí cách mạng
Chức năng và nhiệm vụ của báo chí là hai khái niệm khác nhau, tuy nhiên chỉ
tách bạch rõ ràng khi nói đến những nhiệm vụ cụ thể. Cịn nếu nói nhiệm vụ chung
bao qt thì giữa chức năng và nhiệm vụ khơng có sự khác nhau. Theo cách nói của
Lê nin, ta hiểu báo đảng có chức năng là người tuyên truyền tập thể, người cổ động
tập thể và người tổ chức tập thể. Trong thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc
Kháng 6/1949, Bác viết như sau: “Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động,
huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung”
[20,625]. Trong bài Cần phải xem báo Đảng, đăng trên báo Nhân dân ngày
24/6/1954 Bác viết: “Tờ báo Đảng như là những lớp huấn luyện đơn giản, thiết

thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết làm về tuyên truyền,
tổ chức lãnh đạo và cơng tác. Hàng ngày nó giúp nâng cao trình độ chính trị và
năng suất cơng tác của chúng ta” [21,298]. Căn cứ vào những lời dạy của Bác, có
thể khái quát quan điểm của Người về chức năng nhiệm vụ của báo chí cách mạng
như sau:
* Tuyên truyền, cổ động
Theo cách hiểu thông thường, tuyên truyền là đem nhiều ý đến cho một người,
còn cổ động là đem một ý đến cho nhiều người. Trên báo chí, tuyên truyền thường
được thể hiện dưới các bài luận văn, các bài giảng có tính thuyết phục về đường lối,
chủ trương, chính sách của cách mạng, về tình hình thời sự, về việc vạch trần âm
mưu và thủ đoạn của kẻ thù. Cổ động thể hiện dưới những khẩu hiệu hành động,
những lời cổ vũ ngắn gọn và có sức hấp dẫn. Bác nói: “Tun truyền là đem một
việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu khơng đạt được mục
đích đó là tun truyền thất bại” [20,162].

25


×