Tải bản đầy đủ (.pdf) (220 trang)

Quyết định quản lý nhà nước của chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.4 MB, 220 trang )

MẪU BÌA LUẬN ÁN CĨ IN CHỮ NHŨ Khổ 210 x 297 mm
CAO VŨ MINH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

CAO VŨ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH PHỦ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

2016

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

CAO VŨ MINH

QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH PHỦ
Chuyên ngành

: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH.


Mã số

: 62.38.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN CỬU VIỆT

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII, tại kỳ họp thứ 6 đã thơng qua bản Hiến
pháp năm 2013 của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 2013 vẫn tiếp
tục ghi nhận ở tầm cao nhất quyết tâm của tồn Đảng, tồn dân ta về việc xây dựng thành
cơng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng thành công nhà nước pháp
quyền - một nhà nước địi hỏi ở đó tính thượng tơn pháp luật thì các cơ quan nhà nước
nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng phải “thống nhất quản lý vĩ mơ
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an ninh và đối ngoại
trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ” 1.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Nâng cao năng
lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật. Tiếp tục đổi mới và nâng cao
chất lượng công tác xây dựng pháp luật”2. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính Trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đổi mới căn bản cơ chế
xây dựng và thực hiện pháp luật”. Như vậy, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền - một
nhà nước địi hỏi sự thượng tơn pháp luật, nhất thiết phải có những bước đi vững chắc.

Một trong những bước đi vững chắc đó là phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Một
hệ thống pháp luật được xem là hồn thiện thì trước hết phải bảo đảm được tính thống
nhất trong chính hệ thống pháp luật đó. u cầu này cũng được thể hiện rất rõ ràng trong
Điều 5 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 “bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và
tính thống nhất của VBQPPL trong hệ thống pháp luật” và “bảo đảm tính minh bạch
trong quy định của VBQPPL”.
QĐQLNN chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý nhà nước, là phương
tiện không thể thiếu để các chủ thể quản lý nhà nước sử dụng nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. QĐQLNN có vai trị quan trọng trong việc hoạch định
chủ trương, đường lối cho hoạt động quản lý. Nó khơng chỉ đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ các
quy phạm pháp luật mà còn làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 133.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr. 246, 248.


2

cụ thể. Vì vậy, các chủ thể quản lý khi ban hành QĐQLNN phải đặc biệt chú ý đến chất
lượng của QĐQLNN.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay thì hoạt
động của CP được xem là một trong những vấn đề quan trọng cần được tăng cường. Điều
94 Hiến pháp năm 2013 quy định: “CP là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan
chấp hành của Quốc hội”. Như vậy, theo Hiến pháp năm 2013, CP được quy định khơng
chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội, mà còn là

cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Việc bổ sung mới này vào vị trí của CP vừa phản
ánh ngun tắc phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước, vừa tạo cho CP có
đầy đủ vị thế và thẩm quyền độc lập, chịu trách nhiệm độc lập trước đất nước, nhân dân3.
Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, CP trong phạm vi
thẩm quyền của mình sẽ thể hiện ý chí đến đối tượng quản lý thơng qua những hoạt động
quản lý nhất định. Những hoạt động ấy được thể hiện ra bên ngồi dưới một hình thức
quản lý nào đó. Trong các hình thức quản lý mà CP sử dụng thì quan trọng nhất là ban
hành các QĐQLNN.
Trong những năm qua, việc ban hành QĐQLNN của CP được thực hiện tương đối
hiệu quả, về cơ bản đáp ứng kịp thời yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được thì việc ban hành các QĐQLNN của CP còn nhiều
khuyết điểm, làm giảm hiệu quả hoạt động của cơ quan này trong việc đảm bảo thi hành
Hiến pháp và pháp luật. Hiện nay, QĐQLNN của CP vẫn tồn tại tình trạng mâu thuẫn,
chồng chéo; nội dung chất lượng quyết định còn hạn chế; kỹ thuật lập pháp còn yếu; hiệu
lực, hiệu quả cịn thấp. Điều này địi hỏi phải có sự nhận thức thống nhất về QĐQLNN
của CP như khái niệm, đặc điểm, vai trò, thẩm quyền, thủ tục xây dựng, tiêu chí đảm bảo
chất lượng… Chính vì vậy, việc tìm hiểu một cách tồn diện về thẩm quyền, hình thức,
nội dung, ý nghĩa, vai trò QĐQLNN của CP cũng như nghiên cứu về tính hợp pháp, tính
hợp lý, kiểm tra, xử lý các QĐQLNN của CP và đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật về QĐQLNN của CP là việc làm có ý nghĩa, góp phần xây dựng thành cơng
nhà nước pháp quyền.
3

Nguyễn Sinh Hùng (2014), Bình luận về Hiến pháp: Hiến pháp sửa đổi là đảm bảo chính trị - pháp lý vững chắc để
tồn Đảng, tồn dân và tồn qn ta đồng lịng vững bước tiến lên trong thời kỳ mới, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 2 + 3.


3


Chính vì những trăn trở như vậy nên tác giả đã quyết định chọn đề tài “QĐQLNN
của CP” để làm luận án Tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận về thẩm quyền ban hành QĐQLNN của CP;
- Phân tích cơ sở lý luận về thủ tục xây dựng và ban hành QĐQLNN của CP;
- Phân tích và xây dựng các tiêu chí đánh giá tính hợp pháp, tính hợp lý trong
QĐQLNN của CP, chứng minh nhu cầu và khả năng thừa nhận nguyên tắc pháp quyền
trong việc xem xét tính hợp pháp và tính hợp lý đối với QĐQLNN của CP.
- Bên cạnh đó, đề tài cũng phân tích cụ thể về cơ chế kiểm tra, xử lý các
QĐQLNN của CP không đáp ứng yêu cầu về tính hợp pháp và tính hợp lý.
Trên cơ sở đó làm rõ nhu cầu khách quan, quan điểm, phương hướng đổi mới cũng
như giải pháp nâng cao chất lượng trong việc ban hành QĐQLNN của CP. Hoàn thiện cơ
chế kiểm tra, xử lý các QĐQLNN của CP.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu, phân tích, so sánh các quan điểm khác nhau về QĐQLNN của CP.
Bên cạnh đó, làm sáng tỏ thẩm quyền ban hành QĐQLNN của CP và những vấn đề cụ
thể thuộc nội dung của luận án như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, vai trò của QĐQLNN
của CP. Đề tài đánh giá thực trạng về tính hợp pháp, tính hợp lý của QĐQLNN của CP
cũng như cơ chế kiểm tra, xử lý các QĐQLNN của CP.
- Đánh giá, kết luận về thực trạng xây dựng và ban hành QĐQLNN của CP với
những điểm tích cực và những hạn chế cần khắc phục. Tổng kết về cơ chế kiểm tra, xử lý
các QĐQLNN của CP.
Đưa ra các kiến nghị nhằm đảm bảo tính hợp pháp, tính hợp lý của QĐQLNN của
CP, cơ chế kiểm tra, xử lý các QĐQLNN của CP trên cơ sở phân tích thực trạng, nhu cầu
khách quan và quan điểm hoàn thiện.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Việc tìm hiểu về QĐQLNN của CP được tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau,

trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về thẩm quyền ban hành,
thực trạng ban hành QĐQLNN của CP để từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm


4

đảm bảo tính hợp pháp, tính hợp lý, cơ chế kiểm tra, xử lý các QĐQLNN của CP. Mặc
dù Luận án có tên gọi “QĐQLNN của CP” nhưng Luận án chỉ giới hạn phạm vi nghiên
cứu các QĐQLNN của CP Việt Nam. Luận án không tập trung nghiên cứu QĐQLNN
của CP các quốc gia khác. Việc nghiên cứu các QĐQLNN của CP các quốc gia khác
trong Luận án chỉ nhằm đối chiếu, so sánh, làm rõ những điểm tương đồng hoặc khác biệt
của QĐQLNN của CP Việt Nam so với các QĐQLNN của CP các quốc gia khác.
Bên cạnh đó, QĐQLNN của CP được đề cập đến trong đề tài chỉ bao gồm các
quyết định quản lý được thể hiện dưới dạng văn bản do CP độc lập ban hành. Tác giả
không nghiên cứu các quyết định quản lý do CP ban hành dưới dạng dấu hiệu hay bằng
miệng… Tác giả cũng không nghiên cứu các QĐQLNN do CP phối hợp ban hành với các
tổ chức Chính trị - xã hội. Ngồi ra, Luận án cũng khơng nghiên cứu các QĐQLNN do cá
nhân Thủ tướng CP, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành bởi thẩm quyền
ban hành QĐQLNN của CP được trao cho tập thể CP với hai hình thức cụ thể là nghị
quyết và nghị định.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là lý thuyết và thực tiễn về QĐQLNN của CP
gồm những vấn đề sau:
- Nghiên cứu, phân tích các quan điểm hiện tại về thẩm quyền ban hành QĐQLNN
của CP, đưa ra khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của QĐQLNN của CP; phân
biệt QĐQLNN của CP với quyết định pháp luật và các văn bản hành chính của CP.
- Nghiên cứu, phân tích các giai đoạn trong việc xây dựng và ban hành QĐQLNN
của CP. Đánh giá các thành tựu cũng như những hạn chế trong việc xây dựng và ban
hành các QĐQLNN của CP.
- Làm sáng tỏ luận điểm về tính hợp pháp, tính hợp lý của một QĐQLNN của CP.

Đồng thời làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tính hợp pháp, tính hợp lý trong việc bảo chất
lượng của QĐQLNN của CP.
- Xây dựng, củng cố quan điểm về tính hợp pháp, tính hợp lý của QĐQLNN của
CP trong điều kiện phát huy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm kiểm tra, xử lý các QĐQLNN của CP.
Những kết luận trong luận án là những ý kiến quan trọng để kiến nghị góp phần hồn
thiện cơ sở lý luận về thẩm quyền ban hành QĐQLNN của CP.


5

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Để đạt được những mục đích đề ra, trong quá trình
nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp giải thích luật được sử dụng để làm rõ ý nghĩa của các khái niệm,
thuật ngữ về QĐQLNN, QĐQLNN của CP, tính hợp pháp và tính hợp lý của QĐQLNN
của CP, kiểm tra, giám sát, xử lý QĐQLNN của CP.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt Luận án để nhận
thức từ chi tiết đến khái quát vấn đề nghiên cứu. Cụ thể, về thẩm quyền ban hành
QĐQLNN của CP, Luận án đã xem xét cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý, làm sáng tỏ các
ưu khuyết điểm của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Trên cơ sở các phương pháp
này, luận án nghiên cứu một số vụ án cụ thể để phân tích thực trạng xây dựng và ban
hành QĐQLNN của CP. Ngồi ra, việc bảo đảm tính hợp pháp, tính hợp lý trong
QĐQLNN của CP cũng được nghiên cứu cụ thể, đồng thời cũng trình bày cụ thể về vai
trò của các cơ quan nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát, xử lý QĐQLNN của CP.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa
các loại QĐQLNN của CP như quyết định mang tính chủ đạo, quyết định mang tính
quy phạm, quyết định mang tính cá biệt. Bên cạnh đó, luận án còn so sánh giữa

QĐQLNN của CP với các quyết định pháp luật khác, với các văn bản hành chính.
Phương pháp này cũng được sử dụng nhằm tìm ra điểm thống nhất và khác biệt giữa
QĐQLNN của CP của một số nước nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện việc xây dựng
và ban hành QĐQLNN của CP Việt Nam.
- Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng nhằm tìm hiểu quan điểm, ý
kiến của một số đối tượng liên quan về QĐQLNN của CP hiện nay và kỳ vọng, mong
đợi của họ về việc ban hành QĐQLNN của CP...
5. Những điểm mới và ý nghĩa khoa học của Luận án
Luận án “QĐQLNN của CP” là một cơng trình nghiên có hệ thống về QĐQLNN
do tập thể CP Việt Nam ban hành. Trong đó, điểm mới của Luận án là:
- Luận án đã làm sáng tỏ về mặt lý luận khái niệm khoa học, đặc điểm và ý nghĩa
của QĐQLNN của CP.
- Luận án đã phân tích và chỉ ra rằng các quy định của pháp luật hiện hành còn


6

những bất cập về thẩm quyền ban hành QĐQLNN của CP, các tiêu chí đánh giá về tính
hợp pháp, tính hợp lý của QĐQLNN của CP, các biện pháp giám sát, kiểm tra, xử lý
QĐQLNN của CP vi phạm tính hợp pháp và tính hợp lý.
- Luận án chỉ ra rằng việc xây dựng và ban hành QĐQLNN của CP ln có nhu
cầu rất lớn từ xã hội, từ các cơ quan, tổ chức, từ các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau.
Do đó, việc xây dựng và ban hành QĐQLNN của CP cần phải phản ánh được lợi ích của
các nhóm chủ thể này.
- Từ cách tiếp cận mới nêu trên, Luận án đã đưa ra được quan điểm khoa học về
tiêu chí xác định tính hợp pháp và tính hợp lý của một QĐQLNN của CP. Đồng thời,
Luận án cũng đề xuất thừa nhận nguyên tắc pháp quyền trong việc xem xét tính hợp
pháp và tính hợp lý đối với quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ.
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ là những quan điểm mới về cơ sở lý luận và
thực tiễn trong việc ban hành QĐQLNN thuộc thẩm quyền của tập thể CP. Ngồi ra,

Luận án cũng phân tích thực tiễn ban hành QĐQLNN của CP trong đó đề cập đến thủ tục
xây dựng QĐQLNN của CP, các tiêu chí về tính hợp pháp và tính hợp lý của một
QĐQLNN của CP cũng như cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý các QĐQLNN của CP có
khiếm khuyết. Do đó, Luận án sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị đối với sinh viên, học
viên Cao học luật và những ai quan tâm đến đề tài này. Mặt khác, với chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình cải cách hành chính hiện nay, Luận án sẽ là tài liệu
bổ ích cho những người làm cơng tác thực tế như các thẩm phán, luật sư.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài Phần mở đầu, Tổng quan nghiên cứu, Danh mục cơng trình liên quan đến
Luận án đã được công bố, Danh mục tài liệu tham khảo, Phần nội dung của Luận án bao
gồm các chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền ban hành QĐQLNN của CP.
Chương 2: Nhu cầu và thủ tục xây dựng, ban hành QĐQLNN của CP.
Chương 3: Các yêu cầu đối với QĐQLNN của CP và hậu quả không tuân thủ các
yêu cầu đối với QĐQLNN của CP.


7

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Để thực hiện chức năng, quyền hạn của mình, mỗi cơ quan nhà nước được ban
hành một loại quyết định pháp luật nhất định. Hiện nay, ở nước ngồi có một số cơng
trình nghiên cứu về QĐQLNN nói chung và QĐQLNN của CP nói riêng.
a. Về khái niệm, đặc điểm QĐQLNN của CP
Khái niệm, đặc điểm QĐQLNN được trình bày cụ thể và tương đối đa dạng trong
nhiều cơng trình nghiên cứu ngồi nước. Một số cơng trình nghiên cứu giới thiệu tổng
quát về khái niệm, đặc điểm của QĐQLNN theo pháp luật thực định của nước mình. Cụ

thể, cuốn sách Tradition and change in administrative law (Unreasonableness) của tác
giả Martina Kunnecke được Nhà xuất bản Springer xuất bản năm 2007 đã giới thiệu về
khái niệm, đặc điểm của QĐQLNN theo pháp luật của nước Anh. Cuốn sách Australian
Administrative Law: Fundamentals, Principles and Doctrines của đồng tác giả Matthew
Groves, H. P. Lee do Nhà xuất bản Cambridge xuất bản năm 2007 thì trình bày về khái
niệm, đặc điểm QĐQLNN của CP Úc. Các tác giả nhấn mạnh QĐQLNN có đặc điểm
như mang tính cưỡng chế bắt buộc, thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể ban hành.
Cuốn sách The appearance in French administrative law của Martine Lombard do Nhà
xuất bản Jean-Pierre WEISS xuất bản năm 2009 trình bày về khái niệm, đặc điểm của
QĐQLNN theo pháp luật Cộng hòa Pháp. Theo pháp luật Cộng hòa Pháp, QĐQLNN
phải là các quyết định trong lĩnh vực hành chính mang tính bắt buộc thi hành mà khơng
cần có sự thỏa thuận hay đồng ý của đối tượng thi hành. Tuy nhiên, những cuốn sách này
chỉ trình bày về khái niệm, đặc điểm QĐQLNN nói chung chứ chưa đưa ra được khái
niệm cụ thể cũng như đặc điểm riêng biệt vốn có của QĐQLNN của CP.
Cuốn sách “Luật Hiến pháp nước ngoài” của tác giả V.E.Triskin do Nhà xuất bản
Norma (Matxcova) xuất bản năm 2012 thì trình bày cụ thể về QĐQLNN mang tính quy
phạm. Trong cuốn sách này tác giả đã trình bày về tầm quan trọng trong QĐQLNN mang
tính quy phạm của CP. Tác giả dẫn chứng theo pháp luật Cộng hịa Pháp thì “những văn
bản do CP ban hành có tầm quan trọng khơng kém các đạo luật”4.
4

V.E.Triskin (2012), Luật Hiến pháp nước ngoài, Nxb. Norma, Matxcova, tr. 292, 293 (bản tiếng Nga).


8

Một số cơng trình khác thì trình bày về QĐQLNN mang tính cá biệt. Cụ thể, cuốn
sách The Introductory Japanese administrative law của Ishikawa Toshiyuki (Nhà xuất
bản Hajimete no Gyoshehou xuất bản năm 2006) cho rằng QĐQLNN phải do cơ quan
hành chính ban hành nhằm giải quyết một vụ việc cụ thể thuộc lĩnh vực luật công. Theo

pháp luật Nhật Bản, một QĐQLNN phải thỏa mãn những điều kiện như: tính quyền lực
nhà nước, mang tính pháp lý, có sự tác động trực tiếp đến đối tượng chịu sự tác động.
Nhằm cụ thể hơn về QĐQLNN, cuốn sách Introduction to Contemporary Administrative
Law của tác giả Muroi Tsutomu, do Nhà xuất bản Houritsu Bunka xuất bản năm 2005
nêu: QĐQLNN là quyết định cá biệt tác động ra bên ngồi mang tính trực tiếp và chính
xác đối với một đối tượng cụ thể xác định5. Tuy nhiên, pháp luật của Nhật Bản cũng
khơng có bất kỳ điều khoản nào đưa ra khái niệm về QĐQLNN. Do đó, khái niệm trên
chỉ mang tính học thuật.
Pháp luật Hàn Quốc cũng khơng có định nghĩa cụ thể về QĐQLNN. Tuy nhiên,
theo một số nhà nghiên cứu như Tom Ginsburg thì QĐQLNN phải được xem là một loại
quyết định cá biệt. Với cách lập luận này thì khái niệm QĐQLNN của Hàn Quốc có
những nét tương đồng với của Nhật Bản6. Tuy nhiên, các tài liệu này chỉ trình bày về
QĐQLNN nói chung chứ khơng có những phân tích cụ thể về QĐQLNN của CP.
b. Về thủ tục xây dựng và ban hành QĐQLNN của CP
Một số cơng trình nghiên cứu khẳng định khi xây dựng và ban hành QĐQLNN,
nhà làm luật phải sử dụng công cụ nghiên cứu đánh giá tác động (RIA). RIA là phương
pháp đánh giá những tác động có thể xảy ra từ sự thay đổi chính sách hoặc pháp luật,
được thực hiện trong quá trình làm luật, sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật hoặc ban
hành chính sách mới7. Nói cách khác, nó là một tập hợp các bước logic hỗ trợ cho việc
chuẩn bị các đề xuất chính sách. Nó bao gồm việc nghiên cứu sâu các hoạt động đi kèm
với q trình xây dựng, phân tích chính sách và chính thức hóa kết quả nghiên cứu thơng
qua các báo cáo độc lập8. Cụ thể có các cơng trình là: Cuốn sách Regulatory Impact
Analysis - A Tool for Policy Coherence do Nhà xuất bản OECD xuất bản năm 2009 và

5

Muroi Tsutomu (2005), Introduction to Contemporary Administrative Law, Houritsu Bunka, p. 45.
Tom Ginsburg (2000), Comparative Administrative Procedure - Evidence from Northeast Asia, Law and
Economics working papers Series, working papers No.006, September, p. 11.
7

Ulrich Karpen (2004), Implementation of Legislative Evaluation in Europe, Current Models and Trends European
Journal of Law Reform 57, p. 58.
8
Robert Baldwin (2011), et. al, Understanding Regulation, 2nd ed, Oxford: Oxford University Press, p. 327.
6


9

Bài báo Regulatory Impact Analysis of the draft law on promulgation of legal normative
documents (revised)9. Các tác giả cho rằng QĐQLNN có vai trị, tác dụng vơ cùng quan
trọng trong đời sống xã hội, thường được ban hành và sử dụng trong một thời gian khá
dài, nên khi ban hành cần tiến hành đánh giá tác động của nó thật khoa học và chính xác.
Bài viết Decision Making and Problem - Solving Strategies của tác giả John Adair
(London: Koganpage, 2010) thì nhấn mạnh: “khi xây dựng và ban hành QĐQLNN, người
ra quyết định (hoặc tham gia vào quá trình ra quyết định) phải có thơng tin đầy đủ về vấn
đề mà mình cần phải quyết định”10. Những thơng tin này bao gồm: vấn đề mà xã hội đang
đặt ra đỏi hỏi phải giải quyết là vấn đề gì? Nguyên nhân của vấn đề này là ở đâu? Ai
(nhóm đối tượng nào) là người phải chịu những tác hại đó? Mức độ phân bố tác hại đó có
đồng đều hay khơng? Xã hội cần có những giải pháp (về nguồn lực, về tổ chức, về nhân
lực, về hệ thống truyền thông...) như thế nào để giải quyết các vấn đề đó? Tuy nhiên, các
tài liệu này chỉ trình bày về việc đánh giá tác động một QĐQLNN nói chung chứ chưa
nghiên cứu cụ thể về đánh giá tác động một QĐQLNN của CP.
c. Về các yêu cầu hợp pháp và hợp lý đối với QĐQLNN của CP
Một số cơng trình nghiên cứu tập trung về tính hợp pháp của QĐQLNN. Cụ thể,
sách Administrative law (Policy) của tác giả Peter Cane do Nhà xuất bản Đại học Oxford
xuất bản năm 2011 đã phân tích một số trường hợp dẫn đến QĐQLNN do CP ban hành
khơng hợp pháp vì vi phạm các ngun tắc cần thiết khi ban hành quyết định như vi
phạm về thời hiệu, thẩm quyền ban hành. Bài viết Recent Developments in Administrative
Law (Tạp chí Immigration issues – 2010, paper 1.1) của tác giả David Phillip Jones thì đề

cập đến tính thống nhất, tính hợp pháp của QĐQLNN và cho rằng các tiêu chí này đảm
bảo cho hiệu quả của QĐQLNN. Tuy nhiên, 02 cơng trình vừa kể trên lại khơng trình bày
về cơ chế thẩm định, kiểm tra nhằm đảm bảo cho một QĐQLNN của CP khi được ban
hành đáp ứng các tiêu chí về tính hợp pháp.
Một số cơng trình lại tập trung nghiên cứu về tính hợp lý của QĐQLNN. Bài viết
Reasonableness in Administrative Law: A Comparative Reflection on Functional
Equivalence của tác giả Michal Bobek trong cuốn sách Reasonnableness and law cho
rằng tính hợp lý cần được đảm bảo trong q trình soạn thảo QĐQLNN, giải thích luật và
áp dụng luật để ban hành các QĐQLNN mang tính cá biệt. Trong bài viết, tác giả so sánh
9

/>John Adair (2010), Decision Making and Problem - Solving Strategies, London: Koganpage, p. 19.

10


10

về các chuẩn mực cho tính hợp lý theo pháp luật các nước Đức, Áo, Pháp, Czech, Anh và
đề cao tính hợp lý trong việc xem xét hiệu quả của QĐQLNN. Một bài viết khác thì cho
rằng tính hợp lý là tiêu chí hàng đầu làm cho một QĐQLNN đạt hiệu quả cao11. Điểm nổi
bật của bài viết này là tác giả khẳng định rằng thay vì liệt kê các tiêu chí để nhận diện
tính khơng hợp lý của một QĐQLNN thì ngày nay tịa án các nước thơng luật thường áp
dụng chuẩn mực cho tính hợp lý (thỏa mãn hết chuẩn mực này thì được coi là hợp lý).
Bài viết Reasonableness In Administrative Discretion: A Formal Model (Tạp chí The
Journal Jurisprudence 663, 2010) của TS. Lucatuorto thì khẳng định: để đảm bảo tính
hợp lý của QĐQLNN, cơ quan có thẩm quyền phải có sự đánh giá, cân nhắc kỹ lưỡng
giữa lợi ích cơng cộng và lợi ích của cá nhân bị ảnh hưởng bởi QĐQLNN đó12.
Một số cơng trình thì nghiên cứu cả về tính hợp pháp lẫn tính hợp lý của
QĐQLNN. Cuốn sách Reasonnableness and law của Giorgio Bongiovanni - Giovanni

Sartor - Chiara Valentini do Nhà xuất bản Springer xuất bản năm 2009 đề cập đến những
yêu cầu về tính hợp pháp lẫn tính hợp lý trong việc ban hành QĐQLNN. Đặc biệt cũng
trong cuốn sách này, bài viết A Sufficientist Approach to Reasonableness in Legal
Decision - Making and Judicial Review của GS. Giovanni Sartor đã nêu lên những tiêu
chí cụ thể về tính hợp pháp và tính hợp lý trong việc ban hành một QĐQLNN. Tác giả
phân tích các khái niệm về tính phù hợp (rationality) và tính hợp lý (reasonableness),
phân tích vai trị của các yếu tố này trong q trình ban hành QĐQLNN. Sau đó, tác giả
phân tích tính phù hợp trong q trình ban hành các QĐQLNN mang tính quy phạm. Tuy
cuốn sách Reasonnableness and law do ba tác giả Giorgio Bongiovanni - Giovanni
Sartor - Chiara Valentini làm chủ biên và trong sách cũng có nhiều bài viết của các tác
giả này nhưng sách Reasonnableness and law chưa thống nhất đưa ra một hệ thống các
tiêu chí nhằm đánh giá tính hợp lý của một QĐQLNN nói chung và QĐQLNN của CP
nói riêng.
Một số cơng trình khơng đề cập vấn đề đảm bảo tính hợp pháp, tính hợp lý của
QĐQLNN mà chỉ nêu rằng trong quá trình ban hành QĐQLNN phải đảm bảo một số tiêu
chí nhất định. Cụ thể, sách Global administrative law and EU administrative law
(Influence of European and Global Administrative Law on National Administrative Acts)
11

Matthew Lewans (2012), Deference and Reasonableness Since Dunsmuir, Tạp chí Queen’s L vol 38:1.
Lucatuorto (2010), Reasonableness In Administrative Discretion: A Formal Model, Tạp chí The Journal
Jurisprudence vol 663.
12


11

của tác giả Mattarella (Nhà xuất bản Springer xuất bản năm 2011) cho rằng nhằm đảm
bảo hiệu quả, tính khả thi của QĐQLNN thì QĐQLNN của quốc gia phải đảm bảo đến sự
phù hợp với các điều ước quốc tế (cụ thể ở đây là Luật EU). Cuốn sách The global

administrative law of science (Ethical standards for Research and Their Implementation:
Sound scientific practice) của các tác giả Matthias Ruffert và Sebasstian Steinecke (do
Nhà xuất bản Springer xuất bản năm 2011) đã đề cập đến khía cạnh đạo đức trong việc
ban hành QĐQLNN. Tác giả cho rằng sự phù hợp của QĐQLNN với đạo đức, văn hóa
dân tộc, với thuần phong mỹ tục cũng là một trong những dấu hiệu phản ánh chất lượng
của QĐQLNN, đảm bảo tính hiệu quả của QĐQLNN.
d. Về hậu quả của QĐQLNN của CP không hợp pháp và không hợp lý
Cuốn sách Administrative Law của P. Paul Graig do Nhà xuất bản Sweet and
Maxwell xuất bản năm 1999 và cuốn sách Reasonnableness and law có bài viết
Reasonableness in Administrative Law của tác giả Giacinto della Cananea đã phân tích về
việc xử lý QĐQLNN có khiếm khuyết. Cuốn sách Administrative Law khẳng định: để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cơng dân có quyền khiếu nại QĐQLNN của
CP Anh. Trong trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu
nại thì họ có quyền kháng cáo để u cầu tịa án cao cấp xem xét lại. Trong tác phẩm của
mình, tác giả Giacinto della Cananea khẳng định một QĐQLNN sẽ khơng có hiệu quả
nếu khơng có tính hợp lý đồng thời nêu lên cách thức xử lý đối với một quyết định quản
lý khơng hợp lý.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
QĐQLNN không phải là một vấn đề quá mới mẻ. QĐQLNN nói chung và
QĐQLNN của CP nói riêng đã được bàn luận trong một số cơng trình nghiên cứu của các
tác giả trong nước. Tuy nhiên, do đất nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi, tình hình
kinh tế - xã hội biến động không ngừng, các quan hệ xã hội thay đổi với tốc độ chóng mặt
nên QĐQLNN của CP vẫn chưa bao giờ là một vấn đề cũ kỹ. Việc nghiên cứu về các yêu
cầu của QĐQLNN đã được đề cập ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp trong các Hội thảo,
các cơng trình của các nhà khoa học vào những năm gần đây.
Dựa theo nội dung và mục đích nghiên cứu, có thể tổng quan tài liệu theo các
nhóm chủ yếu sau đây:


12


a. Về khái niệm, đặc điểm QĐQLNN của CP
Đầu tiên, cần kể đến luận án Phó tiến sĩ luật học Quyết định của các cơ quan quản
lý nhà nước ở địa phương của tác giả Nguyễn Cửu Việt năm 1986 (tại Viện Nhà nước và
Pháp luật Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xơ), đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về
QĐQLNN của Việt Nam. Kết quả của luận án trên được tóm lược thành những nội dung
cơ bản thể hiện trong Chương “QĐQLNN” trong giáo trình Luật hành chính Việt Nam
của khoa Luật, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1992 của PGS.TS Nguyễn Cửu
Việt. Đây là công trình có vai trị quan trọng trong việc đặt nền móng nghiên cứu về
QĐQLNN ở Việt Nam. Giáo trình này đã được tái bản nhiều lần, mới nhất là bản năm
2013 do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phát hành. Bản thân Chương
“QĐQLNN” cũng đã được chỉnh sửa, bổ sung để phù hợp với pháp luật thực định.
Liên quan đến khái niệm, đặc điểm QĐQLNN còn có 02 bài viết: Quyết định pháp
luật và QĐQLNN của TS. Vũ Trọng Hách trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12, năm
2009 và QĐHC quy phạm của cơ quan hành chính nhà nước - một số khía cạnh lý luận
và thực tiễn pháp luật của GS.TS Phạm Hồng Thái trên Tạp chí Luật học số 1, năm 2014.
Trong bài viết của mình, TS. Vũ Trọng Hách cũng đồng quan điểm với PGS.TS Nguyễn
Cửu Việt về tên gọi cũng như cách phân loại QĐQLNN13. Còn trong bài viết của mình,
GS.TS Phạm Hồng Thái phân loại các QĐHC quy phạm như quyết định quy định chi tiết
thi hành luật, pháp lệnh; quyết định chứa “quy phạm tiên phát”. Tuy nhiên, khái niệm
quyết định chứa “quy phạm tiên phát” được nêu trong bài viết của GS.TS Phạm Hồng
Thái cũng tương tự như Giáo trình Luật hành chính Việt Nam của khoa Luật, trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội năm 1992 của PGS.TS Nguyễn Cửu Việt14.
Liên quan đến vai trò của QĐQLNN có bài viết: Vai trị của QĐHC trong quản lý
hành chính nhà nước - Một số vấn đề lý luận của GS.TS Phạm Hồng Thái trên Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 12, năm 2015. Trong bài viết của mình, GS.TS Phạm Hồng
Thái đã phân tích khá cụ thể vai trị của từng loại quyết định mang tính chủ đạo, quy
phạm, cá biệt đối với hoạt động quản lý nhà nước.
Liên quan đến các hình thức QĐQLNN của CP và sự khác nhau giữa QĐQLNN
của CP với QĐQLNN của Thủ tướng CP thì có sách Chính quyền địa phương với việc

13
14

Vũ Trọng Hách (2009), Quyết định pháp luật và QĐQLNN, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12.

Phạm Hồng Thái (2014), QĐHC quy phạm của cơ quan hành chính nhà nước - một số khía cạnh lý luận và thực
tiễn pháp luật, Tạp chí Luật học số 1.


13

bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật của PGS.TS Trương Đắc Linh (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2003) và bài viết Lập pháp - lập quy: Bàn về tiêu chí phân biệt
của ThS. Nguyễn Phước Thọ trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 6, năm 2005. Trong
cuốn sách của mình, PGS.TS Trương Đắc Linh khẳng định: “Sự khác biệt giữa quyết
định và chỉ thị là ở phạm vi tác động. Một quyết định được ban hành ra có phạm vi tác
động rộng hơn so với chỉ thị”15. Trong khi đó, trong bài viết của mình, ThS. Nguyễn
Phước Thọ khẳng định: “Tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa QĐQLNN của CP với
QĐQLNN của Thủ tướng CP là tính chất của từng loại vấn đề được điều chỉnh. Tuy nhiên,
các tiêu chí phân biệt QĐQLNN của CP với QĐQLNN của Thủ tướng CP cả trên lý thuyết
và thực tiễn đều có những vấn đề khơng rõ ràng, cịn lẫn lộn và khơng bao qt hết”16.
Đi sâu vào từng vấn đề, liên quan đến QĐQLNN quy phạm thì có 03 bài viết của
PGS.TS Nguyễn Cửu Việt là Khái niệm về VBQPPL, Tạp chí nhà nước và pháp luật số
11, năm 1998; Khái niệm VBQPPL (tiếp theo) và hệ thống VBQPPL, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp số 51, năm 2005; Trở lại khái niệm VBQPPL, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4,
năm 2007. Trong 03 bài viết này, tác giả đã phê phán cách diễn nôm “khái niệm
VBQPPL” đồng thời đề xuất một số giải pháp đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp
luật. Cũng trình bày về QĐQLNN mang tính quy phạm thì có 01 bài viết: VBQPPL của
CP, Thủ tướng CP: mơ hình từ lý thuyết đến thực tiễn của PGS.TS Đinh Dũng Sỹ trên
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23, năm 2010.

b. Về thủ tục xây dựng và ban hành QĐQLNN của CP
Sách Hành chính nhà nước và cơng nghệ hành chính của Học viện Hành chính
(Nxb. Khoa học và kỹ thuật), năm 2009 trình bày về quy trình xây dựng và ban hành
QĐQLNN. Tác giả khẳng định “quy trình soạn thảo và ban hành QĐQLNN mang tính
chặt chẽ và phải đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn”17. Sách Soạn thảo và xử lý văn
bản quản lý nhà nước của GS.TSKH Nguyễn Văn Thâm (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2010) đề cập đến những khía cạnh nhất định trong việc ban hành một
QĐQLNN của CP như việc xây dựng dự thảo, lấy ý kiến, thẩm định…
Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật của trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
(Nxb. Hồng Đức, năm 2012) và Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật của trường Đại
15

Trương Đắc Linh (2003), Chính quyền địa phương với việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr. 53.
16
Nguyễn Phước Thọ (2005), Lập pháp - lập quy: Bàn về tiêu chí phân biệt, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6.
17
Học viện Hành chính (2009), Hành chính nhà nước và cơng nghệ hành chính, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, tr. 343.


14

học Luật Hà Nội (Nxb. Công an nhân dân, năm 2011) trình bày khá cụ thể về việc ban
hành một QĐQLNN mang tính quy phạm của CP như: chuẩn bị các điều kiện cần thiết
cho việc viết nội dung dự thảo văn bản; soạn thảo văn bản; tổ chức lấy ý kiến đóng góp
về dự thảo văn bản; thẩm định dự thảo văn bản; trình ký, thơng qua dự thảo văn bản,
cơng bố văn bản. Cũng trình bày về quy trình xây dựng và ban hành QĐQLNN, TS. Võ
Trí Hảo cơng bố cuốn sách Hồn thiện hoạt động xây dựng VBQPPL, Nxb. Tư Pháp
(2004). Trong cuốn sách, tác giả đề xuất việc tăng cường dân chủ trong xây dựng, ban
hành quyết định quản lý mang tính quy phạm vì như thế sẽ tăng cường được trí tuệ tập

thể, xem xét vấn đề một cách toàn diện18.
Năm 2013, TS. Nguyễn Hoàng Anh có bài viết Cơng khai QĐHC - sự bảo đảm
quyền cơng dân trong Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 19, năm 2011. Bài viết khẳng định
đảm bảo tính công khai, minh bạch là một yêu cầu quan trọng khi ban hành QĐQLNN.
Không chỉ công khai, minh bạch mà trong q trình xây dựng QĐQLNN “cịn phải chú ý
các vấn đề: Tính tốn những lợi ích cần đạt được; Các tác động về xã hội, về kinh tế, về
tài chính”19. Bài viết Đánh giá dự báo tác động kinh tế - xã hội của dự thảo VBQPPL
của ThS. Nguyễn Kim Thoa trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 2, năm 2008 đưa ra nhận
định như trên.
Liên quan trực tiếp đến QĐQLNN của CP thì có 03 cơng trình: bài viết Công tác
ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh: thực trạng và
giải pháp của TS. Phạm Tuấn Khải trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 03, năm 2006
đánh giá những ưu điểm, hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động
xây dựng và ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh.
Trong khi đó, bài viết Một số vấn đề về văn bản quy định chi tiết của TS. Võ Trí Hảo
trong Hội thảo “Về dự án Luật ban hành VBQPPL” do Ủy ban pháp luật của Quốc hội
phối hợp với Dự án phát triển lập pháp quốc gia tổ chức ngày 9 - 10/10/2014 tại Ninh
Thuận lại trình bày về các giai đoạn ban hành một quyết định quản lý quy phạm của CP.
Bài viết Thẩm quyền lập quy của CP, của Thủ tướng CP - Thực trạng và yêu cầu đổi mới
của TS. Trần Huy Liệu trong Hội thảo “Quyền lập pháp, lập quy và ủy quyền lập pháp”
do Dự án phát triển lập pháp quốc gia tại Việt Nam tổ chức tháng 03/2014 tại Hà Nội lại
18

Võ Trí Hảo (2004), Hồn thiện hoạt động xây dựng VBQPPL, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, tr. 62.
Nguyễn Kim Thoa (2008), Đánh giá dự báo tác động kinh tế - xã hội của dự thảo VBQPPL, Tạp chí Khoa học
pháp lý số 2.
19


15


kết luận “Thủ tục ban hành QĐQLNN mang tính quy phạm của CP, Thủ tướng CP chưa
hợp lý, không đảm bảo u cầu về tính kịp thời”. Do đó, tác giả đề xuất hướng sửa đổi
nhằm khắc phục những điểm bất cập vừa nêu.
c. Về các yêu cầu hợp pháp và hợp lý đối với QĐQLNN của CP
So với những nội dung khác, tính hợp pháp và tính hợp lý của QĐQLNN là vấn đề
được nghiên cứu phổ biến nhất. Cho đến nay, giáo trình Luật hành chính Việt Nam của
PGS.TS Nguyễn Cửu Việt (do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phát hành năm
2013) là công trình nghiên cứu chi tiết và cụ thể nhất về tính hợp pháp và hợp lý của
QĐQLNN. Ngồi ra, các giáo trình như: Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (Nxb. Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh năm
2010) và Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội (Nxb.
Công an nhân dân năm 2012) cũng có trình bày về nội dung này. Năm 2003, PGS.TS Vũ
Thư có bài viết Tính hợp pháp và hợp lý của văn bản pháp luật và các biện pháp xử lý
các khiếm khuyết của nó đăng trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1, năm 2003. Tác
giả đã phân tích rất cụ thể, sâu sắc về các tiêu chí đánh giá tính hợp pháp và tính hợp lý
của văn bản pháp luật.
Một số cơng trình chỉ nghiên cứu về tính hợp pháp mà khơng nghiên cứu về tính
hợp lý của QĐQLNN như: bài viết Bàn về những nghịch lý trong việc ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành luật của ThS. Cao Vũ Minh trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 2, năm 2012; bài viết Căn cứ đánh giá tính hợp pháp của QĐHC của TS. Nguyễn Văn
Quang đăng trên Tạp chí Luật học số 11, năm 2013.
Liên quan trực tiếp và mật thiết nhất với nội dung của luận án là đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ: “Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam” do
GS.TS. Phan Trung Lý - Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật làm Chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã
khẳng định “bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật là một trong những yêu cầu
tất yếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân”.
Một số cơng trình thì lại chú trọng nghiên cứu về tính hợp lý của QĐQLNN như:
cuốn sách Những cơ sở khoa học và lý luận về quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa (Nxb.

Sự Thật, Hà Nội, năm 1988) của Trường Hành chính Trung ương. Cuốn sách này đề cập
một cách gián tiếp về tính hợp lý của một QĐQLNN và cho rằng “những nhà quản lý
phải ứng dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết các vấn đề phát sinh trong cuộc


16

sống một cách hiệu quả nhất. Chính điểm này làm cho các tác động quản lý mang tính
nghệ thuật - nghệ thuật quản lý”20. ThS. Hoàng Minh Hà trong bài viết Luận bàn về tính
hợp lý của VBQPPL trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3 năm 2008 thì nhận định rằng:
“tính hợp lý là một trong những tiêu chí quan trọng làm cho một QĐQLNN mang tính
quy phạm có sức sống mãnh liệt”21.
Một số cơng trình tập trung nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính hợp pháp và tính
hợp lý của QĐQLNN. Bài viết Tính hợp pháp và tính hợp lý trong QĐQLNN của
PGS.TS Nguyễn Cảnh Hợp và ThS. Cao Vũ Minh trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
11, tháng 6, năm 2011 nêu lên sự “thắng thế” của tính hợp pháp so với tính hợp lý, đồng
thời tính hợp lý cũng tác động trở lại đối với tính hợp pháp của QĐQLNN. Trong khi đó,
bài viết Mối quan hệ giữa tính hợp pháp và tính hợp lí của QĐHC của TS. Bùi Thị Đào
trên Tạp chí Luật học số 2, năm 2008 lại bàn về tính độc lập tương đối giữa tính hợp pháp
và tính hợp lý của QĐHC. Tác giả khẳng định: “Tính hợp pháp và tính hợp lí của văn
bản pháp luật vừa có sự thống nhất, vừa có sự độc lập tương đối. Sở dĩ như vậy vì đó là
hai tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của văn bản xuất phát từ những góc độ khác nhau”22.
Một trong những cơng trình có vai trị quan trọng trong việc nghiên cứu so sánh
tính hợp pháp và tính hợp lý của QĐQLNN là cuốn sách: “Luật Hành chính nước ngồi”
do PGS.TS Nguyễn Cửu Việt làm chủ biên (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011).
Cuốn sách này đã trình bày một cách khái quát về các tiêu chí, các yêu cầu cần phải đáp
ứng khi ban hành QĐQLNN của một số nước như Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nhật Bản…
Luận án “Tính hợp pháp và tính hợp lý của QĐHC” của TS. Bùi Thị Đào (2008)
có 05 chương đã đi sâu phân tích các tiêu chí về tính hợp pháp và tính hợp lý của QĐHC.
Nhìn chung luận án này là một tài liệu có giá trị khi nghiên cứu về tính hợp pháp và tính

hợp lý của QĐHC. Tuy nhiên, đề tài chủ yếu nghiên cứu về QĐHC mang tính quy phạm
chứ ít quan tâm đến quyết định mang tính cá biệt. Đề tài hoàn thiện trong bối cảnh Quốc
hội chưa ban hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 nên các tiêu chí đánh giá về tính
hợp pháp cũng như tính hợp lý của QĐHC đã trở nên khơng cịn phù hợp với pháp luật
hiện hành. Tóm lại, luận án “Tính hợp pháp và tính hợp lý của QĐHC” của TS. Bùi Thị

20

Trường Hành chính Trung ương (1998), Những cơ sở khoa học và lý luận về quản lý nhà nước xã hội chủ nghĩa,
Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr. 24.
21
Hoàng Minh Hà (2008), Luận bàn về tính hợp lý của VBQPPL, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3.
22
Bùi Thị Đào (2008), Mối quan hệ giữa tính hợp pháp và tính hợp lí của QĐHC, Tạp chí Luật học số 2.


17

Đào vẫn chứa đựng và gợi mở một số vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu nhằm làm sâu
sắc thêm dưới góc độ khoa học pháp lý.
d. Về hậu quả của QĐQLNN của CP không hợp pháp và không hợp lý
Cuốn sách Xử lý văn bản quản lý hành chính nhà nước khiếm khuyết của PGS.TS
Nguyễn Thế Quyền (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2009) đề cập đến việc nâng
cao chất lượng hệ thống văn bản quản lý nhà nước nói chung, xử lý văn bản quản lý nhà
nước nói riêng.
Trực tiếp nghiên cứu về xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết thì cịn có các bài
viết như VBQPPL: hủy bỏ hoặc bãi bỏ trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6, năm 2005
của TS. Hoàng Thị Ngân. Xuất phát từ bài viết của TS. Hồng Thị Ngân, PGS.TS
Nguyễn Cửu Việt đã trình bày ý kiến của mình xoay quanh các biện pháp xử lý khiếm
khuyết như “hủy bỏ”, “bãi bỏ”, “sửa đổi”, “bổ sung” văn bản pháp luật trong bài viết Các

yếu tố cấu thành và tính hệ thống của thẩm quyền trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9,
năm 2005. Nhằm hồn thiện các biện pháp xử lý khiếm khuyết văn bản pháp luật,
PGS.TS Nguyễn Thế Quyền trình bày cụ thể về biện pháp “đình chỉ” văn bản trong bài
viết Hồn thiện các quy định về xây dựng pháp luật trong Tạp chí nghiên cứu lập pháp số
15, năm 2009.
Ngày 12/04/2010, CP ban hành Nghị định số 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra và xử lý
VBQPPL. Nghị định số 40/2010/NĐ-CP lại “khai sinh thêm” biện pháp “đính chính văn
bản”. Tuy nhiên, biện pháp “đính chính văn bản” được sử dụng tràn lan, ảnh hưởng đến
tính thống nhất của pháp luật. Trên cơ sở đó, ThS. Cao Vũ Minh có bài Đính chính
VBQPPL - Biện pháp xử lý khiếm khuyết hay sự lạm quyền? trên Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 12, năm 2012 nhằm nêu lên những bất cập của biện pháp “đính chính văn bản”.
Nhằm bảo đảm chất lượng của QĐQLNN, TS. Hoàng Thị Ngân có bài viết Trách
nhiệm về ban hành VBQPPL sai trái đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5, năm
2003. Đây là ý tưởng táo bạo của TS. Hồng Thị Ngân vì trong bài viết TS. Hoàng Thị
Ngân cho rằng: “Cơ quan ban hành cũng như cơ quan tham mưu, soạn thảo thẩm định
VBQPPL sai trái phải chịu trách nhiệm kỷ luật, thậm chí là trách nhiệm hình sự nếu gây
ra hậu quả nghiêm trọng”. Cùng quan điểm này, PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện có bài viết
Trách nhiệm vật chất do hoạt động lập quy trong Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 126
năm 2008 và PGS.TS Nguyễn Minh Đoan có bài viết Trách nhiệm của người xây dựng
pháp luật trong Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7, năm 2008. Trong 02 bài viết này, các


18

tác giả cho rằng cần phải có chế tài đối với cá nhân, tổ chức khi ban hành văn bản khơng
đáp ứng u cầu về tính hợp pháp, tính khả thi, đồng thời cá nhân, tổ chức ban hành văn
bản sai trái phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất hay về tinh thần cho
những đối tượng liên quan bị thiệt hại từ các văn bản đó.
1.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài “QĐQLNN của CP”

mà nghiên cứu sinh tiếp cận được, xin đưa ra đánh giá bước đầu như sau:
Trước khi Luật Ban hành VBQPPL năm 1996 có hiệu lực pháp luật thì việc ban
hành QĐQLNN được điều chỉnh bởi Thông tư số 02/BT ngày 11/01/1982 của Bộ trưởng
Tổng thư ký Hội đồng Bộ trưởng, Thông tư số 33/BT ngày 10/12/1992 của Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phịng CP hướng dẫn về hình thức văn bản và việc ban hành văn bản của
cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề QĐQLNN của CP chưa được quan tâm
nghiên cứu cụ thể.
Khi Luật Ban hành VBQPPL năm 1996 có hiệu lực đã dần dần xuất hiện một số
cơng trình nghiên cứu về QĐQLNN. Năm 2003, CP ban hành Nghị định số
135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về kiểm tra và xử lý VBQPPL. Từ đó các bài viết
phân tích về tính hợp pháp và tính hợp lý cũng như các biện pháp xử lý QĐQLNN khiếm
khuyết ngày càng được chú trọng hơn. Các cơng trình nghiên cứu đã đóng góp những
kiến thức lý luận và thực tiễn bổ ích vào việc hồn thiện pháp luật.
Sau đó, Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 ra đời tạo một môi trường thuận lợi
cho việc nghiên cứu về QĐQLNN của CP. Cũng trong giai đoạn này, có nhiều chủ
trương, định hướng của Đảng về hiệu quả QĐQLNN như Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính Trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định: “Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch”; Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Nâng cao năng lực quản lý
và điều hành của Nhà nước theo pháp luật. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng
công tác xây dựng pháp luật”. Bắt đầu từ chủ trương này (2006), giới nghiên cứu đã có
nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu liên quan đến QĐQLNN.
Các cơng trình nghiên cứu này chủ yếu chỉ dừng lại ở những cách tiếp cận khác
nhau về QĐQLNN nói chung, hầu như chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu
một cách có hệ thống, tồn diện và đầy đủ về QĐQLNN của CP. Những vấn đề về


19


QĐQLNN của CP chưa được làm rõ là: i) Thẩm quyền ban hành QĐQLNN của CP, ii)
Khái niệm, đặc điểm, phân loại QĐQLNN của CP, iii) Ý nghĩa, vai trò QĐQLNN của
CP; iv) Thủ tục xây dựng và ban hành QĐQLNN của CP; v) Tính hợp pháp và tính hợp
lý trong QĐQLNN của CP; vi) Các biện pháp xử lý QĐQLNN khiếm khuyết của CP; vii)
Hoàn thiện sự điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động ban hành QĐQLNN của CP.
Như vậy, cho đến nay, vẫn chưa có một cơng trình khoa học nào ở cấp độ tiến sĩ
nghiên cứu tồn diện về QĐQLNN của CP. Chính vì vậy, việc tiếp tục phát triển các kết
quả nghiên cứu về QĐQLNN nói chung và QĐQLNN của CP nói riêng ở góc độ lý luận,
đánh giá thực trạng của pháp luật, thực tiễn thực hiện và đề xuất những giải pháp hoàn
thiện là cần thiết và không trùng lặp với bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào đã thực hiện
trước đây. Do đó, đây là đề tài nghiên cứu đầu tiên về “QĐQLNN của CP” một cách
khá toàn diện và tổng thể về lý luận lẫn thực tiễn.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Luận án được nghiên cứu dựa trên các cơ sở lý thuyết sau:
Một là, các quan điểm của Đảng về yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam và về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
Hai là, các tư tưởng, học thuyết về nhà nước và pháp luật nói chung và về pháp
luật ban hành QĐQLNN nói riêng;
Ba là, các nguyên tắc hiến định, các lý thuyết liên quan đến pháp luật xây dựng
và ban hành QĐQLNN của CP;
Bốn là, các lý thuyết liên quan đến pháp luật kiểm tra, giám sát, xử lý khiếm
khuyết đối với các QĐQLNN của CP;
Năm là, quan điểm của các nhà lập pháp Việt Nam về xây dựng và ban hành
QĐQLNN của CP dựa trên nền tảng thủ tục xây dựng và ban hành QĐQLNN nói chung
nhưng có những điểm đặc thù nhất định.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nêu trên, tác giả đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu phổ biến và đặc thù trong lĩnh vực luật học như: phân tích,
chứng minh, biện luận, tổng hợp và đối chiếu so sánh… Các phương pháp nghiên cứu nói

trên được sử dụng kết hợp với nhau nhằm làm cho việc nghiên cứu mang tính khái qt,
tồn diện.


20

3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
3.1. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở nền tảng các nghiên cứu về hiệu quả QĐQLNN được quy định trong
pháp luật Việt Nam, tác giả xác định luận án cần phải hướng vào trình bày một số giả
thuyết khoa học sau:
Thứ nhất, QĐQLNN của CP chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý nhà
nước, là phương tiện không thể thiếu để CP sử dụng nhằm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ quản lý. Nói cách khác, QĐQLNN của CP có vai trị quan trọng trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của CP. QĐQLNN của CP không chỉ đề ra chủ trương, đường
lối, nhiệm vụ cho hoạt động quản lý; đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ các quy phạm pháp luật mà
còn làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Thứ hai, QĐQLNN của CP có sự khác biệt so với quyết định pháp luật do Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tịa án ban hành… QĐQLNN của CP theo tính pháp
lý gồm 3 loại là quyết định chủ đạo; quyết định quy phạm; quyết định cá biệt.
Thứ ba, chất lượng của QĐQLNN của CP được xem xét chủ yếu qua tính hợp
pháp và tính hợp lý. Đó là hai tiêu chuẩn đánh giá QĐQLNN ở hai góc độ khác nhau, tuy
độc lập nhưng lại có mối quan hệ mật thiết, thống nhất và bổ trợ cho nhau. Sức sống và
khả năng tồn tại của các QĐQLNN phụ thuộc rất nhiều vào tính hợp pháp và tính hợp lý
của QĐQLNN.
Thứ tư, thủ tục xây dựng, ban hành QĐQLNN của CP chưa được chú trọng trên
thực tế. Hiện nay có nhiều QĐQLNN của CP được ban hành nhưng khơng đảm bảo tính
hợp pháp lẫn tính hợp lý. Ngun nhân có thể xuất phát từ giai đoạn xây dựng dự thảo,
lấy ý kiến, thẩm định…
Thứ năm, nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra và xử lý QĐQLNN của CP là

xây dựng cơ chế phản hồi ý kiến của nhân dân về QĐQLNN của CP khơng bảo đảm các
u cầu về tính hợp pháp và tính hợp lý.
Thứ sáu, xây dựng thiết chế tài phán, cơ chế đặc biệt nhằm giám sát các QĐQLNN
của CP. Việc thiết lập một cơ quan như vậy cũng phù hợp với chủ trương của Đảng là
“xây dựng, hồn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền”23 và “xây dựng cơ chế phán quyết về
23

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.126.


21

những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp”24 đã được nêu
rõ tại Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X và trong một số văn kiện
khác của Đảng.
3.2. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, thẩm quyền ban hành QĐQLNN của CP được thể hiện như thế nào?
Đặc điểm, phân loại QĐQLNN của CP? Ý nghĩa, vai trò QĐQLNN của CP? QĐQLNN
của CP, quyết định pháp luật, các văn bản hành chính giống nhau hay khác nhau?
Thứ hai, sáng kiến ban hành QĐQLNN của CP như thế nào? Những vấn đề pháp
lý liên quan đến thủ tục xây dựng và ban hành QĐQLNN của CP?
Thứ ba, các yêu cầu về tính hợp pháp và hợp lý không chỉ đối với nội dung và
hình thức mà cịn đối với thủ tục xây dựng và ban hành một QĐQLNN của CP? Mối
quan hệ giữa tính hợp pháp và tính hợp lý của QĐQLNN của CP?
Thứ tư, việc ban hành QĐQLNN của CP trong thực tiễn như thế nào? Các yếu tố
nào tác động đến việc ban hành QĐQLNN của CP bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý?
Ngồi bảo đảm các quy định về thủ tục ban hành thì năng lực, trình độ, quan điểm, nhận
thức của người soạn thảo QĐQLNN của CP liệu có những tác động đến việc ban hành

một QĐQLNN của CP đáp ứng các yêu cầu về tính hợp pháp và tính hợp lý?
Thứ năm, các hậu quả pháp lý của QĐQLNN của CP không đảm bảo yêu cầu về
tính hợp pháp và tính hợp lý? Cơ chế kiểm tra, xử lý QĐQLNN của CP không hợp pháp
và khơng hợp lý?
Thứ sáu, hồn thiện sự điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động ban hành QĐQLNN
của CP như thế nào?

24

Đảng Cộng sản Việt Nam, (23), tr.127.


22

NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN
BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CHÍNH PHỦ
1.1. Khái qt về vị trí, tính chất pháp lý của CP
Vị trí, vai trị quan trọng của CP được khẳng định rõ trong Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của CP theo hướng
xây dựng nền hành chính thống nhất, thơng suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực,
hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý”25. Hiến pháp năm 2013 được thông qua là sự kiện
chính trị, pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của
nước ta. Với đặc điểm thể chế chính trị và mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước của Việt
Nam thì chế định CP trong Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi tích cực, hợp lý.
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: “CP là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan
chấp hành của Quốc hội”. So với Điều 109 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) thì quy định tại Điều 94 Hiến pháp năm 2013 có hai điểm tiến bộ. Thứ nhất, lần
đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta, Hiến pháp đã chính thức thừa nhận: “CP là cơ

quan thực hiện quyền hành pháp”. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001), CP chưa được quy định là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Sở dĩ như vậy vì
nước ta ln cho rằng theo ngun tắc tập quyền thì CP khơng thể “ngang hàng” với
Quốc hội. Sự bình đẳng khơng có thứ bậc giữa lập pháp và hành pháp có thể dẫn đến sự
lũng đoạn của CP đối với Quốc hội, biến Quốc hội vốn là một nhánh quyền lực gần với ý
chí của nhân dân nhất trở thành hữu danh, vơ thực. Do đó, trên kinh nghiệm của công xã
Paris, C. Mác chủ trương cơ quan đại diện phải là “một tập thể hành động, vừa lập pháp,
vừa hành pháp”. Tuy nhiên, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà
nước địi hỏi phải thừa nhận sự “chun mơn hóa” trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Với tinh thần đó, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ ràng là CP
thực hiện quyền hành pháp. Thứ hai, về vị trí tính chất pháp lý thì Điều 94 Hiến pháp
năm 2013 đã đặt CP “là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” lên trước “là cơ quan chấp hành của Quốc hội”. Điều này
25

Đảng Cộng sản Việt Nam, (2), tr. 249.


23

không đơn giản chỉ là thay đổi trật tự câu chữ mà ngụ ý sâu xa đề cao quyền hành pháp
của CP. Theo đó, CP phải là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc tìm kiếm hướng
đi cho quốc gia bằng việc soạn thảo các chiến lược phát triển, các kế hoạch, các dự án
luật và các bộ luật trình Quốc hội. Đồng thời, CP là cơ quan trực tiếp và thường xuyên
điều hành việc thực hiện các chiến lược, các kế hoạch, các đạo luật, bộ luật sau khi được
Quốc hội xem xét thông qua. CP là cơ quan nắm rõ nhất những nhu cầu của quốc gia và
đưa ra những chính sách để phúc đáp những nhu cầu đó.
Tương tự Điều 94 Hiến pháp năm 2013, Điều 1 Luật Tổ chức CP năm 2015 cũng
quy định: “CP là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.

Trước khi thông qua Luật Tổ chức CP năm 2015, có ý kiến cho rằng chỉ nên quy định
“CP là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền hành pháp” là đủ mà không cần phải ghi “CP là cơ quan chấp
hành của Quốc hội”. Tác giả cho rằng ý kiến này khá hợp lý bởi Luật Tổ chức CP năm
2015 chính là sự cụ thể hóa của Hiến pháp năm 2013 nên cần “nhấn mạnh” tính chất
“hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp” của CP. Không quy định
“CP là cơ quan chấp hành của Quốc hội” không đồng nghĩa với việc CP sẽ hồn tồn
“thốt ly” khỏi Quốc hội vì trên thực tế cơ quan hành chính cao nhất vẫn phải chấp hành
Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội 26. Mặt khác, trong ngơn ngữ Hán - Việt
từ “hành chính” đã có nghĩa là chấp hành luật rồi. Do đó, việc nhắc lại quy định “CP là
cơ quan chấp hành của Quốc hội” là khơng cần thiết vì muốn Hiến pháp có “sức sống”
trong đời sống pháp lý thì Hiến pháp phải có hiệu lực trực tiếp mà khơng cần phải giải
thích, bình luận thêm bởi các văn bản khác. Quy định “CP là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành
pháp” vừa ngắn gọn, vừa là động lực để CP làm tròn trách nhiệm trước nhà nước, trước
nhân dân bởi quyền hành pháp mạnh trước hết phải được bắt đầu từ một CP mạnh mà CP
mạnh thì phải mang bản tính quyết đốn và dám chịu trách nhiệm. Đáng tiếc là Luật Tổ
chức CP năm 2015 vẫn chưa thể hiện tư duy “đột phá” khi quy định về vị trí, tính chất
pháp lý của CP giống hệt như điều 94 Hiến pháp năm 2013.
26

Khác với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), ngay tại khoản 1, Điều 96 Hiến pháp năm 2013 đã
xác định: “CP có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”. Quy định này đã nói lên đầy đủ ý nghĩa “CP là cơ
quan chấp hành của Quốc hội”.


×