MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NHÀ
NƯỚC TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC........................................3
1.1. Tính tất yếu của sự ra đời kiểm toán nhà nước................................................3
1.2. Những vấn đề lý luận chung về kiểm tốn nhà nước.......................................4
1.2.1. Tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nước..........................................5
1.2.2. Quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan kiểm toán nhà nước.........................5
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ VAI TRỊ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
KIỂM TỐN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC CỦA VIỆT NAM.................................................................................7
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm tốn nhà nước tại Việt Nam...........7
2.2. Vai trị của kiểm tốn nhà nước.......................................................................8
2.3. Chức năng của kiểm toán nhà nước.................................................................8
2.4. Tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước......................................................10
2.5. Đánh giá hoạt động cua kiểm tốn nhà nước trong q trình triển khai thực
hiện ở Việt Nam..................................................................................................12
2.6. Nguyên nhân của một số hạn chế trong q trình hoạt động của kiểm tốn nhà
nước tại Việt Nam:..............................................................................................14
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO VAI TRỊ VÀ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TỐN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ
THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA VIỆT NAM...........................................16
3.1. Nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí và chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán
nhà nước trong hệ thống quản lý nhà nước của Việt Nam....................................16
3.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý...............................................................................17
3.3. Nâng cao năng lực và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên nhà nước.....18
3.4. Đa dạng hóa các loại hình kiểm tốn theo quy định của Luật Kiểm tốn nhà
nước....................................................................................................................19
3.5. Minh bạch và cơng khai kết quả kiểm toán để tăng cường hội nhập kinh tế với
thế giới................................................................................................................20
3.6. Đảm bảo và tơn trọng tối đa tính độc lập của kiểm toán nhà nước.................20
KẾT LUẬN...............................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................22
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND : Hội đồng nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: Vị trí của kiểm toán nhà nước trong bộ máy quản lý của Việt Nam
( theo Nghị định 93/2003/NĐ-CP)
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu bộ máy kiểm toán nhà nước theo Luật kiểm toán nhà nước
2006
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua gần 15 năm hoạt động, kiểm toán nhà nước Việt Nam đã khẳng định được
vị trí, vai trị của mình trong cơ cấu bộ máy nhà nước, khẳng định được sự cần thiết
và tính tất yếu khách quan của kiểm tra kiểm sốt hoạt động quản lý kinh tế tài chính
nhà nước, đặc biệt là việc thu – chi ngân sách nhà nước. Những kết quả kiểm toán
trung thực khách quan của kiểm toán nhà nước báo cáo lên Quốc hội, Chính phủ
khơng chỉ cho phép đánh giá thực trạng ngân sách nhà nước mà cịn cung cấp thơng
tin làm căn cứ cho việc hoạch định các chính sách, các giải pháp quản lý, khắc phục
những yếu kém trong quản lý nhà nước.
Trong những năm qua, chất lượng kiểm toán nhà nước đã dần được nâng cao
trên cơ sở nguồn lự hiện có của kiểm tốn nhà nước. Tổ chức bộ máy của kiểm tốn
nhà nước đã hồn thiện hơn, nhất là từ khi thực hiện luật kiểm toán nhà nước 2006,
đảm bảo tính độc lập cao nhất trong hoạt động kiểm tốn nhà nước với tư các ngoại
kiểm vơi Chính phủ. Tuy nhiên một thực tế là hoạt động của kiểm toán nhà nước đã
bộc lộ nhiều mặt hạn chế, chưa phù hợp với vai trò và chức năng được quy định
trong Luật kiểm toán nhà nước số 37/2006 của Quốc hội.
Kiểm tốn nhà nước là một cơng cụ quản lý nhà nước rất đắc lực, thơng tin do
kiểm tốn nhà nước cung cấp là tư liệu hết sức quan trọng để đưa những quyết định
quản lý đúng đắn. Nhưng do một số hạn chế về hệ thống luật, về cơ sở hạ tầng,
phương tiện kỹ thuật và một số hạn chế khác mà hoạt động kiểm toán nhà nước tại
Việt Nam chưa được hiệu quả thực sự như mong muốn, và nhiều người cịn có nhận
thức sai lệch về kiểm tốn nhà nước, từ đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng
kiểm tốn.
Nhận thức được vai trị của kiểm toán nhà nước trong hệ thống quản lý nhà
nước của Việt Nam, em đã chọn đề tài: “Nâng cao vai trị và hiệu quả hoạt động
của kiểm tốn nhà nước trong hệ thống quản lý nhà nước của Việt Nam” để
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng việc triển khai nhiệm vụ của kiểm
tốn nhà nước, từ đó tìm ra ngun nhân và cuối cùng là phương hướng nâng cao vai
trò và hiệu quả hoạt động của kiểm toán nhà nước trong hệ thống quản lý nhà nước
của Việt Nam
1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nội dung nghiên cứu của đề tài là thực tiễn hoạt động của kiểm toán nhà nước,
ảnh hưởng của hệ thống văn bản pháp quy tới chất lượng kiểm toán của kiểm toán
nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm cả nghiên cứu những nguyên lý chung,
lý thuyết và cả thực tế về hoạt động kiểm toán nhà nước.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp tổng hợp, phân tích, logic, khái
qt hóa, hệ thống hóa, mơ hình hóa,...
5. Nội dung và kết cấu của đề tài
Ngoài Lời mở đầu, danh mục sơ đồ bảng biểu, danh mục các chữ viết tắt đề tài
được kết cấu thành 3 chương:
CHƯƠNG I: Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán nhà nước tron hệ
thống quản lý nhà nước.
CHƯƠNG II: Đánh giá vai trò và hiệu quả hoạt động của kiểm toán nhà
nước trong hệ thống quản lý nhà nước của Việt Nam.
CHƯƠNG III: Phương hướng nâng cao vai trò va hiệu quả hoạt động của
kiểm toán nhà nước trong hệ thống quản lý nhà nước tại Việt Nam.
Trong q trình hồn thiện đề tài em đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo tận
tình của GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, vì kiến thức cịn ít nên đề án khơng tráng
khỏi những sai sót, em mong nhận được sự đóng góp của các thầy cơ để đề án hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TỐN
NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Tính tất yếu của sự ra đời kiểm toán nhà nước
Đối với mỗi quốc gia do nguồn lực về kinh tế tài chính dành cho sự phát triển
đất nước đều là hữu hạn, việc sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản cơng quỹ là
một trong những địi hỏi thiết yếu cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài chính nhà
nước và hiệu năng các quyết địn của các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước. Trong
điều kiện các nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật càng địi hỏi mỗi nhà
nước cần phải có một cơ quan được pháp luật bảo đảm tính độc lập để đạt được mục
tiêu kinh tế , đặc biệt là việc sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn cơng quỹ, tăng
cường sự quản lý tài chính, ngăn ngừa tham nhũng , lãng phí cơng quỹ nhà nước.
Các cơ quan kiểm toán nhà nước ngày càng trở nên cần thiết hơn khi nhà nước đã và
đang mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực kinh tế xã hội vì vậy địi hỏi hoạt
động của nhà nước phải tn theo những quy định của khn khổ tài chính nhất định.
Trong bối cảnh hội nhập, vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế - tài chính của một quốc
gia là vấn đề sống còn bên cạnh đảm bảo an ninh quốc phịng và sự tồn vẹn lãnh thổ.
Để đảm bảo được điều đó địi hỏi phải kiện tồn hệ thống giám sát kinh tế tài chính ở
mức độ cao coi đó là một trong những biện pháp khơng thể thiếu để giúp nền kinh tế
khơng lâm vào tình trạng mất ổn định, và đặc biệt là khủng hoảng tài chính. Trong
tuyên bố Lima cũng nêu rất rõ nguy cơ của một nền kinh tế dễ lâm vào khủng hoảng
và lãng phí các nguồn lực khi khơng có một cơ quan kiểm tra tài chính độc lập làm
nhiệm vụ kiểm tra và pháp hiện các bất ổn của nền kinh tế , góp phần minh bạch hóa
nền tài chính của một quốc gia.
Hoạt động kiểm toán xuất phát từ yêu cầu sử dụng hợp lệ và hợp lý các nguồn
tài chính của Nhà nước. Bởi vậy, mục tiêu cụ thể của cơng tác này là sử dụng xác
thực và có hiệu quả nguồn kinh phí cơng, phấn đấu đạt được sự quản lý kinh tế chặt
chẽ, tính hợp lệ của cơng tác quản lý hành chính và việc thơng tin cho các cơ quan
nhà nước cũng như công luận thông qua việc công bố các báo cáo khách quan về sự
ổn định và phát triển của nền tài chính quốc gia.
Kiểm tốn hiện diện như một cơng cụ khơng thể thiếu được đối với bất kỳ một
mơ hình kinh tế nào, một hình thái xã hội nào và khơng hề bị chi phối bởi kiến trúc
thượng tầng. Vì vậy cần thiết phải thành lập cơ quan kiểm toán nhà nước để đáp ứng
3
u cầu của cơng tác kiểm tra tài chính nhà nước, cụ thể là ngân sách nhà nước. Việc
sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản công quỹ là một trong những đòi hỏi thiết
yếu đầu tiên cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài chính nhà nước và hiệu năng các
quyết định của các cơ quan có thẩm quyền.
Việc ra đời kiểm toán nhà nước của mỗi quốc gia là một tất yếu khách quan đáp
ứng sự phát triển của đất nước, đáp ứng được nhu cầu trong quản lý nguồn tài chính
cơng mà các cơ quan nhà nước, các đơn vị hành chinh sự nghiệp và chung nhất là
những đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước để hoạt động. Cơ quan kiểm toán nhà
nước là một cơng cụ để kiểm tra, kiểm sốt và đánh giá hiệu quả của việc sử dụng
ngân sách và hiệu năng của quản lý.
Thực tế trên thế hoạt động kiểm tra tài chính đã hình thành từ rất sớm, kiểm
tốn ra đời từ thời La Mã, thế kỷ thứ III trước Cơng ngun. Tuy nhiên, hoạt động
kiểm tốn chỉ phát triển mạnh mẽ và mang tính phổ biến trong khoảng vài trăm năm
trở lại đây. Ở Đức, từ năm 1714, Vua Phổ là Friedrich Wilhelm I đã ra Sắc lệnh thành
lập Phòng Thẩm kế tối cao (hay Thẩm kế viện dưới thời Đế chế Đức). Ở Pháp, từ
năm 1807, dưới thời Hoàng đế Napoleon I, Toà Thẩm kế (Cour des comptes) đã được
thành lập.
Cơ quan Kiểm toán nhà nước ở mỗi quốc gia có những tên gọi khác nhau. Ví
dụ: Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp, Cơ quan Tổng Kế toán Hoa Kỳ, Cục Kiểm toán
Liên bang Nga, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và
Kiểm soát Ấn Độ; Uỷ ban Kiểm toán Nhật Bản…
1.2. Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán nhà nước
Ngày nay, việc xác định địa vị pháp lý và các chức năng cơ bản của cơ quan
kiểm toán tối cao của một quốc gia thường đối chiếu tới ‘’Tuyên bố Lima về những
chuẩn mực của kiểm tra tài chính’’. Tun bố này được thơng qua tại Đại hội lần thứ
IX của Tổ chức INTOSAI tháng 10 năm 1997. Không chỉ soạn thảo ra những định
hướng chung, Tuyên bố Lima cịn tuyển chọn và hệ thống hố những ngun tắc cơ
bản của kiểm tra tài chính cơng đã được các quốc gia ứng dụng và cơng nhận. Tuy
khơng có sự ràng buộc về mặt pháp lý trong phạm vi của từng quốc gia, nhưng có thể
thấy Tuyên bố Lima có ảnh hưởng rõ rệt đối với sự phát triển của cơ quan kiểm toán
tối cao ở mỗi quốc gia. Các chuẩn mực do Tuyên bố Lima đưa ra được xem là những
định hướng chủ đạo trong việc tổ chức một cơ quan kiểm tra tài chính hiệu quả.
4
1.2.1. Tính độc lập của cơ quan kiểm tốn nhà nước
Tính độc lập của cơ quan kiểm tốn nhà nước là tiền đề cơ bản trong việc kiểm
tra tài chính cơng. Các cơ quan kiểm tốn tối cao chỉ có thể hoạt động một cách
khách quan và thật sự hiệu quả khi có vị trí độc lập với cơ quan bị kiểm tra và không
phải chịu những tác động từ bên ngồi. Tính độc lập của cơ quan này cần phải được
đảm bảo về mặt pháp lý, được ghi nhận bằng Hiến pháp và pháp luật.
Tính độc lập của hoạt động kiểm tra tài chính được thể hiện thơng qua việc xác
nhận địa vị pháp lý của cơ quan này trong hệ thống tài chính nhà nước, quy chế bổ
nhiệm và bãi miễn các thành viên, sự độc lập về tài chính.
1.2.2. Quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan kiểm toán nhà nước
Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính cơng tối cao, kiểm tốn nhà nước phải
thực hiện 4 nhiệm vụ quan trọng:
Một là, kiểm toán nhà nước phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội về những vấn
đề có liên quan trong q trình ra các quyết định của Quốc hội, khơng chỉ vì Quốc
hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp, mà còn với tư cách là cơ quan ban hành
Luật ngân sách nhà nước và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
Hai là, kiểm tốn nhà nước phải báo cáo, tư vấn và giải toả trách nhiệm cho
Chính phủ, cụ thể là cho các cấp quản lý hành chính Nhà nước, các Bộ, ban, ngành
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, cũng như về tác động tài chính của những
biện pháp đề ra.
Ba là, kiểm tốn nhà nước thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe đối với
bộ máy hành chính Nhà nước nhằm chống lại việc sử dụng phung phí và lạm dụng
các phương tiện tài chính của Nhà nước.
Bốn là, kiểm tốn nhà nước cần thông báo công khai trước công luận về việc sử
dụng các phương tiện tài chính Nhà nước của Chính phủ và Quốc hội.
Bốn nhiệm vụ trên là biểu thị thước đo giá trị thành công của một cơ quan kiểm
toán nhà nước với tư cách là cơ quan cơng quyền có chức năng kiểm tra tài chính
cơng tối cao của Nhà nước.
Để cơ quan kiểm toán nhà nước có thể đảm nhiệm được những chức năng,
nhiệm vụ của mình trong một Nhà nước pháp quyền thì địi hỏi 3 tiền đề cơ bản, đó
là:
Thứ nhất, tính độc lập của cơ quan kiểm toán nhà nước với các cơ quan quyền
lực khác của Nhà nước phải được đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật:
5
- Đảm bảo tính độc lập về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động.
- Đảm bảo quyền chủ động của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc xây
dựng chương trình kế hoạch kiểm tốn, mục tiêu của mỗi cuộc kiểm toán và nội dung
kiểm toán.
- Đảm bảo quyền được cơng khai kết quả kiểm tốn trước cơng luận.
Thứ hai, nguyên tắc kiểm toán phải được thể chế hoá đầy đủ trong luật:
- Về nguyên tắc, cơ quan kiểm tốn nhà nước phải có thẩm quyền kiểm tốn tất
cả các chức năng Nhà nước có tác động đến ngân sách, khơng phụ thuộc vào việc
những chức năng đó được thực hiện dưới bất cứ hình thức pháp lý nào. Nếu lĩnh vực
nào đó ( như bí mật quốc gia) mà khơng muốn kiểm tốn thì cũng phải xác định rõ
bằng luật và thông báo cho công luận biết.
- Thẩm quyền kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước phải khơng bị hạn chế
về thực chất. Điều đó có nghĩa là, bao gồm cả việc kiểm tra tính hợp pháp, tính tuân
thủ, tính kinh tế và tính tiết kiệm của các hoạt động kinh tế nhà nước.
Thứ ba, phải có một cá nhân hoặc cơ quan độc lập để cơ quan kiểm tốn nhà
nước có thể khiếu kiện khi tính độc lập và thẩm quyền kiểm tốn của mình bị xâm
phạm:
- Khi tính độc lập của mình bị xâm phạm thì con đường pháp lý mở ra đối với
cơ quan kiểm tốn nhà nước là kiện lên Tồ án nhân dân tối cao.
- Đối với kiểm tra tài chính, khi có vướng mắc về thẩm quyền kiểm tốn thì sẽ
được giải quyết thơng qua các Tồ hành chính.
Ngay trong 178 nước có cơ quan kiểm tốn nhà nước là thành viên của
INTOSAI, việc đáp ứng những tiền đề này rất khác nhau và chắc chắn, hiệu lực của
chúng cũng rất khác nhau.
6
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC CỦA VIỆT NAM
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước tại Việt Nam
Kiểm toán nhà nước của Việt Nam chính thức ra đời từ Nghị định 70-CP ngày
11-7-1994 về việc thanh lập cơ quan kiểm tốn nhà nước. Theo nghị định này thì
kiểm tốn nhà nước “giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác
nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của
các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn
thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp”.
Cũng theo Nghị định này thì kiểm tốn nhà nước có một số nhiệm vụ và quyền
hạn như sau:
1- Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tốn hàng năm trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó. Định kỳ báo
cáo thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tốn lên Thủ tướng Chính phủ.
2- Cung cấp kết quả kiểm tốn cho Chính phủ và cho các cơ quan Nhà nước
khác theo quy định của Chính phủ.
3- Xác nhận, đánh giá và nhận định các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết
toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung đã
đánh giá, nhận xét, xác nhận.
4- Thông qua hoạt động kiểm tốn góp ý kiến với các đơn vị được kiểm tốn
sửa chữa những sai sót, vi phạm để chấn chỉnh cơng tác quản lý tài chính, kế tốn của
đơn vị; kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý những vi phạm chế độ kế tốn, tài
chính của Nhà nước; đề xuất với Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi, cải tiến cơ chế
quản lý tài chính, kế toán cần thiết.
5- Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm toán Nhà nước chỉ tuân theo pháp luật và
phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ đã được Nhà nước quy định; được yêu cầu đơn
vị được kiểm toán và các đơn vị có liên quan cung cấp thơng tin, tài liệu cần thiết để
thực hiện nhiệm vụ kiểm tốn.
Trong trường hợp đồn Kiểm tốn hoặc Kiểm tốn viên có ý kiến khác nhau thì
Kiểm tốn Nhà nước xem xét và có ý kiến kết luận cuối cùng.
7
6- Quản lý các hồ sơ, tài liệu đã được kiểm tốn theo quy định của Nhà nước;
giữ bí mất tài liệu, số liệu kế toán và sự hoạt động của đơn vị được kiểm toán.
7- Quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất của hệ thống tổ chức Kiểm
toán Nhà nước theo quy định của Chính phủ.
Kiểm tốn nhà nước lúc mới thành lập chỉ có 4 kiểm tốn chun ngành, đó là:
Kiểm tốn ngân sách Nhà nước, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản và các chương
trình, dự án vay, nợ, viện trợ Chính phủ, kiểm tốn doanh nghiệp Nhà nước, kiểm
tốn chương trình đặc biệt (an ninh, quốc phịng, dự trữ quốc gia...), và 1 văn phịng
kiểm tốn nhà nước.
Ta có thể thấy ngay được bất cập và hạn chế của Nghị định này, Chính phủ vừa
là đơn vị chủ quản, vừa là khách thể kiểm toán của kiểm toán nhà nước, điều đó
khơng đảm bảo tính độc lập khách quan trong hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà
nước.
Và phải đến tận năm 2005, bằng sự ra đời của Luật kiểm toán nhà nước số
37/2005/QH11 ngày 14/06/2005 Kiểm toán nhà nước đã khẳng định vai trị và vị trí
của mình là một trong những công cụ quản lý nhà nước đắc lực và hiệu quả. Luật quy
định rất rõ rang rằng: “Kiểm tốn Nhà nước là cơ quan chun mơn về lĩnh vực kiểm
tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”.
2.2. Vai trị của kiểm tốn nhà nước
Một là, kiểm tốn nhà nước góp phần nâng cao tính kinh tế, hiệu quả của quản
lý và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước. Đây là một trong những vai trị trực tiếp
và quan trọng nhất của kiểm toán nhà nước. Kiểm tốn góp phần nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính. Đây là một trong những vai trò trực tiếp và
quan trọng nhất của kiểm tốn nhà nước.
Hai là, kiểm tốn nhàn nước góp phần nâng cao việc chấp hành và hoàn thiện
pháp luật về quản lý kinh tế, tài chính của nhà nước.
2.3. Chức năng của kiểm tốn nhà nước
Kiểm tốn Nhà nước có chức năng kiểm tốn báo cáo tài chính, kiểm tốn tuân
thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và
tài sản nhà nước. Trong đó:
8
Kiểm tốn báo cáo tài chính là loại hình kiểm tốn để kiểm tra, đánh giá, xác
nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính của những đơn vị sử dụng tài
chính nhà nước làm kinh phí hoạt động. Một trong những vấn đề rất lớn hiện nay
trong quản lý nhà nước là tệ nạn tham nhũng, thất thốt tài sản cơng. Những người
năm giữ những vị trí cao của một đơn vị thương lợi dụng chức vụ để trục lợi, lấy tiền
của nhà nước, tiền thuế của nhân dân để làm tài sản tư. Kiểm toán báo cáo tài chính
sẽ xác minh tính đúng đắn của báo cáo quyết toán của đơn vị được kiểm toán, kiểm
tra xem đơn vị có sử dụng ngân sách được cấp đúng mục đích hay khơng, tài sản của
đơn vị có bị thất thốt hay khơng.
Kiểm tốn tn thủ là loại hình kiểm tốn để kiểm tra, đánh giá và xác nhận
việc tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện.
Mỗi một đơn vị hoạt động đều phải chấp hành một nội quy, quy chế mà loại hình
hoạt động của đơn vị sẽ phải tuân theo. Kiểm toán tuân thủ sẽ kiểm toán việc chấp
hành và thực hiện nội quy quy chế đó đến mức nào, lỏng lẻo hay chặt chẽ, từ đó có
thê có kiến nghị và để xuất thay đổi cho phù hợp với thực tế.
Kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm tốn để kiểm tra, đánh giá tính kinh tế,
hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Kiểm toán hoạt động sẽ được sử dụng trong trường hợp muốn đánh giá hiệu lực của
thông tin và hệ thống quản trị nội bộ, hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý của
đơn vị được kiểm toán. Kết quả kiểm tốn sẽ được dùng để đánh giá đơn vị đó hoạt
động có hiệu quả hay khơng, hệ thống kiểm sốt nội bộ và quản trị nội bộ của đơn vị
hoạt động hiệu quả đến đâu…
9
2.4. Tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước
Trước khi Luật kiểm tốn nhà nước ra đời thì kiểm tốn nhà nước là cơ quan
thuộc Chính phủ:
QUỐC HỘI
CHÍNH PHỦ
TANDTC
Bộ, CQ ngang Bộ
VKSNDTC
CQ thuộc Chính Phủ
+ Kiểm tốn nhà nước
Sơ đồ 2.1: Vị trí của kiểm tốn nhà nước trong bộ máy quản lý của Việt Nam
(theo Nghị định 93/2003/NĐ-CP)
Theo đó, cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước thực hiện
nhiệm vụ được giao gồm: 4 tổ chức kiểm toán nhà nước chuyên ngành (Kiểm toán
Ngân sách Nhà nước; Kiểm toán Đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình, dự án,
vay nợ, viện trợ Chính phủ; Kiểm tốn Doanh nghiệp Nhà nước; Kiểm tốn Chương
trình đặc biệt: an ninh, quốc phịng, dự trữ quốc gia)...; Văn phịng Kiểm tốn Nhà
nước; Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán bộ; Phòng Thanh tra và kiểm tra nội bộ
và 4 tổ chức kiểm toán nhà nước khu vực (kiểm tốn nhà nước khu vực phía Bắc, khu
vực miền Trung, khu vực phía Nam và kiểm tốn nhà nước khu vực miền Tây Nam
Bộ).
Đứng đầu KTNN là Tổng Kiểm toán Nhà nước, giúp Tổng Kiểm toán Nhà
nước phụ trách từng lĩnh vực cơng tác của kiểm tốn nhà nước có các Phó Tổng
Kiểm tốn Nhà nước. Tổng Kiểm tốn Nhà nước và các Phó Tổng Kiểm tốn Nhà
nước do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Đứng đầu các Kiểm toán
chuyên ngành và kiểm toán nhà nước khu vực là Kiểm toán trưởng (Vụ trưởng); giúp
việc Kiểm tốn trưởng có các Phó Kiểm tốn trưởng. Kiểm tốn trưởng và Phó Kiểm
tốn trưởng do Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm.
10
Kinh phí hoạt động của hệ thống kiểm tốn nhà nước do ngân sách nhà nước
cấp. Biên chế của hệ thống kiểm toán nhà nước thuộc biên chế quản lý Nhà nước.
Tổng Kiểm tốn Nhà nước xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt biên
chế và kinh phí hoạt động của hệ thống kiểm tốn.
Từ khi có Luật kiểm toán nhà nước năm 2006, địa vị pháp lý của kiểm toán nhà
nước đã được nâng lên một cách rõ rệt, kiểm tốn nhà nước lúc này khơng thuộc
Chính phủ, cũng không thuộc Quốc hội mà chỉ hoạt động tuân theo pháp luật. Điều
này là cơ sở tiền đề cho tính độc lập khách quan trong cơng tác kiểm toán của kiểm
toán nhà nước. Cơ cấu của kiểm toán nhà nước lúc này như sau:
TỔNG
KIỂM TỐN NHÀ NƯỚC
PHĨ TỔNG
KIỂM TỐN NHÀ NƯỚC
Bộ máy điều
hành
Các đơn vị sự
nghiệp
Kiểm tốn nhà
nước chuyên ngành
Kiểm toán nhà nước
khu vực
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu bộ máy kiểm toán nhà nước theo Luật kiểm toán nhà nước 2006
Trong đó:
Các đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành gồm có:
- Văn phịng kiểm tốn nhà nước;
- Vụ Tổ chức cán bộ;
- Vụ Tổng hợp;
- Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán;
- Vụ Pháp chế;
- Vụ Quan hệ quốc tế.
Các đơn vị kiểm toán chuyên ngành được đánh số từ I -> VII;
Các đơn vị kiểm tốn khu vực gồm có:
- Kiểm tốn Nhà nước khu vực I (trụ sở đặt tại Thành phố Hà Nội);
11
- Kiểm toán Nhà nước khu vực II (trụ sở đặt tại Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ
An);
- Kiểm toán Nhà nước khu vực III (trụ sở đặt tại Thành phố Đà Nẵng);
- Kiểm toán Nhà nước khu vực IV (trụ sở đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh);
- Kiểm tốn Nhà nước khu vực V (trụ sở đặt tại Thành phố Cần Thơ);
Các đơn vị sự nghiệp gồm có:
- Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ;
- Trung tâm Tin học;
- Tạp chí Kiểm tốn.
Bên cạnh đó để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước kể
từ khi Luật kiểm tốn nhà nước được thơng qua, lãnh đạo kiểm toán nhà nước đã ban
hành hàng loạt các văn bản chỉ đạo nhằm không ngừng đưa hoạt động của ngành đi
vào nề nếp, thơng qua đó góp phần nâng cao chất lượng kiểm tốn (như: Quyết định
số 556/QĐ-KTNN ngày 11/7/2007 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn
KTNN; Quyết định số 2/2007/QĐ-KTNN ngày 26/6/2007 ban hành Hệ thống Mẫu
biểu Hồ sơ kiểm toán; Quyết định số 3/2007/QĐ-KTNN ngày 26/7/2007 ban hành
Quy chế công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị của
KTNN; Công văn số 574/KTNN-TH ngày 23/7/2007 về tăng cường kiểm soát chất
lượng các cuộc kiểm toán).
2.5. Đánh giá hoạt động cua kiểm toán nhà nước trong quá trình triển khai
thực hiện ở Việt Nam
Qua hơn 10 năm thành lập và phát triển, từ chỗ khi mới thành lập, vị trí của
kiểm tốn nhà nước trong bộ máy nhà nước chưa được xác định rõ, chức năng mới
dừng lại ở việc xác định tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo
cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước đơn vi hành chính sự nghiệp, đơn vị kinh tế
nhà nước và các đoàn thê quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân
sách nhà nước cấp. Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ được nâng lên theo quy
định của Nghị đinh 93/2003/NĐ – CP ngày 13/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ,
kiểm tốn nhà nước được xác đinh là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng kiểm
tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo ngân sách các cấp và báo cáo tổng
quyết toán ngân sách nhà nước, báo cáo quyết toán , báo cáo tài chính của các cơ
quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước; kiểm toán tuân thủ và kiểm
toán hoạt động. Tại kỳ họp thứ VII, Quốc hội khóa 11 đã thơng qua Luật kiểm toán
12
nhà nước và bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/2006, theo đó kiểm tốn nhà nước là cơ
quan chun mơn về kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện chức năng “kiểm toán báo cáo tài chính,
kiểm tốn tn thủ, kiểm tốn hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước”. Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn và
hoạt động chỉ tuân theo pháp luật thì mới nâng cao vai trị của Quốc hội và HĐND
trong việc quyết định và giám sát ngân sách nhà nước, ngăn ngừa tham nhũng, lãng
phí thất thốt tài sản cơng. Nếu kiểm tốn nhà nước thuộc Chính phủ sẽ có những bất
lợi: Chính phủ sẽ giao kiểm tốn nhà nước thuộc Chính phủ thẩm định báo cáo quyết
tốn của Chính phủ, điều đó khó đảm bảo tính độc lập khách quan của hoạt động
kiểm toán.
Từ khi thành lập đến nay, vị trí của kiểm tốn nhà nước đã không ngừng được
nâng cao, chức năng và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước từng bước được mở rộng,
giúp Quốc hội kiểm tra kiểm soát chặt chẽ hơn việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà
nước, tài sản nhà nước. Quy định về vị trí, chức năng của kiểm tốn nhà nước theo
quy định của Luật kiểm toán nhà nước vừa qua là phù hợp với tiến trình ra đời và
phát triền của kiểm tốn nhà nước theo thơng lệ quốc tế.
Từ chỗ ban đầu chỉ có 4 đơn vị kiểm tốn chun ngành và văn phịng kiểm
tốn nhà nước, đến nay cơ cấu tổ chức của kiểm toán nhà nước đã có 21 đơn vị thuộc
và trực thuộc theo Nghị quyết 916/NQ – UBTVQH11 ngày 15/9/2005 trong đó có 06
đơn vị thực hiện chức năng tham mưu, 07 đơn vị kiểm toán chuyên ngành, 05 đơn vị
kiểm toán khu vực và 03 đơn vị sự nghiệp.
Tuy nhiên qua quá trình hoạt động của mình, kiểm tốn nhà nước cũng đã bộc
lộ những mặt hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình:
Thứ nhất, Luật kiểm tốn nhà nước có hiệu lực tuy nhiên việc cụ thể hóa Luật
cịn chậm, trên thực tế Quốc hội còn can thiệp vào việc xây dựng kế hoạch kiểm toán
hàng năm cua kiểm toán nhà nước, chưa ban hành kịp thời các Nghị quyết nhằm cụ
thể hóa Luật, chưa đưa ra các quy định cụ thể về hình thức và phương pháp cơng khai
kết quả kiểm tốn làm giảm vai trị và tác dụng của kiểm toán nhà nước.
Thứ hai, việc thành lập và triển khai hoạt động các bộ phận tham mưu cũng như
các kiểm toán chuyên ngành, kiểm toán khu vực còn chậm, chưa theo kịp với yêu cầu
của thực tiễn làm giảm phạm vi ảnh hưởng của hoạt động kiểm tốn, nhiều nơi cịn
chưa biết về tổ chức bộ máy cũng như hoạt động của kiểm toán nhà nước do đó làm
giảm việc phịng ngừa trong quản lý kinh tế tài chính của nhà nước. Việc phân chia
13
lĩnh vực kiểm tốn chưa mang tính chun mơn hóa cao, cịn chồng chéo gây khó
khăn cho cơng tác lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán.
Thứ ba, khá nhiều kế hoạch kiểm tốn cịn tổng qt, chất lượng chưa cao và
cịn mang tính hình thức, chưa đáp ứng được địi hỏi ngày càng cao về chất lượng
kiểm tốn của kiểm tốn nhà nước.
Thứ tư, quy mơ hoạt động kiểm tốn của kiểm tốn nhà nước cịn rất hạn chế so
với yêu cầu phải được kiểm toán hàng năm đối với các cơ quan đơn vị quản lý, sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước là rất lớn, nhất là lĩnh vực kiểm tốn ngân
sách do đó phầnnào dh tới chất lượng hoạt động của kiểm toán nhà nước nói chung
và chất lượng kiểm tốn nói riêng.
Thứ năm, báo cáo kiểm tốn cịn một số hạn chế so với yêu cầu và mục tiêu
kiểm toán đã đề ra. Về nội dung báo cáo: các báo cáo kiểm toán chưa đưa ra được ý
kiến đánh giá rõ ràng và tồn diện về tính trung thực, hợp lý của các số liệu quyết
toán của đơn vị được kiểm toán; Nhiều báo cáo kiểm tốn viết cịn mang tính liệt kê,
mơ tả công việc của đơn vị phải làm hoặc mô tả số báo cáo của đơn vị; một số báo
cáo còn đưa ra những kết luật thiếu bằng chứng thuyết phục…; Chưa thực sự phát
huy được vài trị là cơng cụ mạnh của Nhà nước trong kiểm tra, giám sát các nguồn
lực tài chính nhà nước và trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Về trình
bày báo cáo: Nhiều báo cáo kiểm tốn trình bày dài dịng, liệt kê quá trình và kết quả
thực hiện nhiệm vụ tài chính, ngân sách của đơn vị, khơng có ý kiến đánh giá nhận
xét của đồn kiểm tốn.
2.6. Ngun nhân của một số hạn chế trong quá trình hoạt động của kiểm tốn
nhà nước tại Việt Nam:
Có nhiều ngun nhân ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả hoạt động của kiểm
toán nhà nước cả về khách quan và chủ quan. Từ thực trạng phân tích, theo ý kiến
của em thì có thể khái quát 1 số nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, khuôn khổ pháp luật cho hoạt động kiểm toán đã được bổ sung đáng
kể từ khi Luật kiểm tốn có hiệu lực ngày 01/01/2006 nhưng vẫn chưa đầy đủ và
đồng bộ. Địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước và cơ chế bổ nhiệm Tổng kiểm toán
nhà nước chưa được quy định trong Hiến pháp như hầu hết các nước trên thế giới. Hệ
thống các chuẩn mực kiểm tốn nhà nước, các quy trình kiểm tốn cụ thể, hệ thống
hồ sơ mẫu biểu kiểm toán và hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán đang trong quá
14
trình sửa đổi, bổ sung và hồn thiện để phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò và
địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước theo quy định của Luật kiểm tốn nhà nước.
Do chưa có quy định trong hoạt động nên hiện có tình trạng khơng tương thích
giữa Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ với Luật kiểm toán nhà nước
về bầu Tổng kiểm toán nhà nước. Một số quy định ở các đạo luật khác liên quan đến
hoạt động kiểm toán nhà nước cũng cịn những quy định khơng tương thích với quy
định của Luật kiểm toán nhà nước nhưng chưa được sửa đổi kịp thời.
Thứ hai, nhân lực và vật lực phục vụ cho cơng việc của kiểm tốn nhà nước cịn
thiếu thốn, cơ sở hạ tầng và tài chính cịn chưa độc lập, đôi khi vẫn phải nhờ sự giúp
đỡ của đơn vị được kiểm toán về phương tiện đi lại và về chỗ nghỉ trong q trình
kiểm tốn. Thực tế bản thân kiểm toán nhà nước chưa thể tự trang trải tồn bộ kinh
phí hoạt động. Do đó trong tương lai, theo xu hướng phát triển của quốc tế, kiểm tốn
nhà nước phải có sự độc lập hồn tồn về tài chính, từ đó tạo tiền đề về tính độc lập
khách quan trong hoạt động kiểm toán. Về nhân lực, kiểm tốn nhà nước chỉ có thể
kiểm tốn một số nội dung của báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước, hàng năm chỉ
mới tiến hành kiểm toán được khoảng trên 30% ngân sách nhà nước tỉnh, thành phố.
15
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO VAI TRÒ VÀ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TRONG
HỆ THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA VIỆT NAM
Sau hơn 10 năm hoạt động thực tiễn, những kết quả mà kiểm toán nhà nước đã
đạt được không chỉ khẳng định sự nỗ lực, trưởng thành của cơ quan kiểm tốn nhà
nước mà cịn góp phần tích cực vào việc giúp Quốc hội thực hiện chức năng kiểm
sốt và giám sát q trình quản lý, điều hành, sử dụng ngân sách nhà nước và công
quỹ quốc gia. Song, vấn đề bức xúc hiện nay là làm thế nào để cơ quan kiểm toán nhà
nước hoạt động có chất lượng và hiệu quả, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phục
vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với xu hướng tồn
cầu hố và hội nhập quốc tế? Đã đến lúc cần phải xây dựng chiến lược phát triển
kiểm tốn nhà nước trên cơ sở hồn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
nó theo một số hướng như sau:
3.1. Nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí và chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán
nhà nước trong hệ thống quản lý nhà nước của Việt Nam
Kết quả của kiểm toán nhà nước sẽ có tác dụng lớn tới chất lượng quản lý điều
hành của Chính phủ. Tổ chức hoạt động kiểm tốn nhà nước hiệu quả sẽ tăng cường
minh bạch tài chính, làm lành mạnh nền tài chính quốc gia. Để thực hiện điều này địi
hỏi phải có sự phối hợp tốt của cơ quan được kiểm toán cũng như các tổ chức cá
nhân có liên quan trong việc cung cấp tài liệu phục vụ cuộc kiểm tốn. Vì vậy việc
nâng cao và thống nhất về nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội về vị
trí, vai trị và chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước đóng vai trị hết sức quan
trọng. Cần nhận thức đầy đủ, tồn diện về vị trí, vai trị của kiểm toán nhà nước,
trước hết là các tổ chức cơ quan và đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy nhà
nước.
Mục tiêu của mọi cuộc kiểm toán của kiểm toán nhà nước khơng phải là tìm
kiếm sai phạm và kiến nghị xử lý, mà trước hết và quan trọng nhất là đánh giá, xác
nhận độ tin cậy của các thông tin tài chính, báo cáo quyết tốn ngân sách nhà nước,
đánh giá hiệu quả hoạt động của các công cụ kiểm tra kiểm sốt của nhà nước nói
chung và của hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngành, các cơ quan nói riêng.
16
Các đơn vị được kiểm toán cần hiểu rõ về sự khác biệt giữa chức năng của kiểm
toán nhà nước và Thanh tra Chính phủ, sự khác biệt về cách thức, phương pháp
nghiệp vụ chuyên môn sử dụng của kiểm tốn nhà nước so với Thanh tra, điều đó sẽ
tránh được sự can thiệp không đúng luật đối với hoạt đơng chun mơn của kiểm
tốn viên.
3.2. Hồn thiện cơ sở pháp lý
Trong tình hình hiện nay, cịn q nhiều cơ quan thanh tra, kiểm tra lĩnh vực tài
chính Nhà nước, dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo, gây khó khăn, phiền hà
cho đối tượng thanh tra, kiểm tra. Vì vậy, cần xác định rõ đối tượng, phạm vi hoạt
động, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm toán nhà nước; đồng thời, phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của kiểm toán nhà nước với các cơ quan thanh tra,
kiểm tra lĩnh vực tài chính Nhà nước; cần có sự phối kết hợp chặt chẽ trong hoạt
động của các cơ quan này, đảm bảo tính đồng bộ thực sự có hiệu lực trong quản lý
kinh tế-tài chính của đất nước. Đồng thời, cần sớm có kế hoạch xây dựng Luật tổ
chức kiểm toán nhà nước nhằm đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả với các cơ
quan chức năng theo các văn bản luật hiện hành, ví dụ Luật ngân sách nhà nước, Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật tổ chức Toà án nhân dân tối cao,...
Kiểm toán nhà nước Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức
ASOSAI và Tổ chức INTOSAI nên ngồi những chức năng, nhiệm vụ hiện có cần bổ
sung cho phù hợp với thông lệ quốc tế: kiểm tốn nhà nước thực hiện kiểm tốn báo
cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động, từng bớc tiến tới lấy kiểm
toán hoạt động làm trọng tâm trong mọi cơ quan, tổ chức có sử dụng kinh phí của
Nhà nước. Kiểm tốn nhà nước giúp Quốc hội thẩm tra tính trung thực và tính hiệu
quả của các dự án đầu tư XDCB, dự toán và Tổng quyết toán ngân sách nhà nước
hàng năm. Kiểm toán nhà nước được quyền độc lập trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch hoạt động kiểm toán, bao gồm cả quyền đình chỉ, gia hạn hoặc
thay đổi kế hoạch kiểm toán. Trong trường hợp cần thiết, kiểm toán nhà nước có
quyền yêu cầu cá nhân hoặc tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên ngành có liên
quan đến cuộc kiểm toán đang thực hiện theo phương thức hợp đồng dịch vụ. Kiểm
tốn nhà nước có quyền cơng bố cơng khai kết quả kiểm tốn; quyền u cầu các cơ
quan có thẩm quyền đình chỉ tạm thời hoạt động, phong toả tài khoản, yêu cầu tuyên
bố phá sản của các đơn vị được kiểm toán trong các trường hợp xét thấy cần thiết;
17
quyền chuyển hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan bảo vệ pháp luật về các vi phạm pháp
luật có dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Để hoạt động kiểm toán nhà nước được thuận lợi và có hiệu quả, trong thời
gian tới đồng thời với việc triển khai đồng bộ Luật kiểm toán nhà nước cần rà soát và
đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định pháp lý có liên quan nhằm đảm bảo tính thống
nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật:
Một là, bổ sung vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam một
số điều khoản quy định đầy đủ và toàn diện về địa vị pháp lý của kiểm tốn nhà
nước.
Hai là, hồn thiện luật kiểm tốn nhà nước và các luật có liên quan để phân
định rõ vị trí, vai trị và chức năng của kiểm toán nhà nước với các cơ quan Thanh
tra, kiểm tra, giám sát khác của nhà nước. Sửa đổi bổ sung Luật tổ chức Quốc hội,
HĐND và Luật tổ chức Chính Phủ liên quan đến kiểm tốn nhà nước nhằm khẳng
định kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính cơng cao nhất, hoạt động độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ba là, bổ sung dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật về chế tài đối với các cơ
quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật kiểm toán nhà
nước. Xử lý nghiêm khắc những đơn vị, cá nhân thực hiện khơng nghiêm chỉnh kết
luận, kiến nghị của kiểm tốn nhà nước để đảm bảo hiệu lực hoạt động của kiểm
toán.
3.3. Nâng cao năng lực và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên nhà nước
Kiểm toán viên là người trực tiếp thực hiện kiểm toán, đưa ra kết quả kiểm
toán, do đó chất lượng kiểm tốn chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi trình độ chun mơn,
nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Kiểm toán viên của kiểm tốn
nhà nước phải có trình độ, năng lực nghiệp vụ cao, phẩm chất đạo đức tốt trong đó
yếu tố đạo đức được đặc biệt chú trọng. Luật đạo đức nghề nghiệp của INTOSAI đòi
hỏi cao về mặt đạo đức đối với kiểm toán nhà nước và kiểm toán viên. Tất cả cơng
việc do cơ quan kiểm tốn nhà nước thực hiện phải có quy định về đạo đức nghề
nghiệp và phải chịu sự kiểm tra, giám sát từ bên ngồi đối với tính đúng đắn trong
hoạt động và sự tuân thủ pháp luật. Kiểm toán nhà nước cần duy trì và nâng cao trình
độ nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, đảm bảo yêu cầu chủ yếu về
trình độ chun mơn, nghiệp vụ, tính đọc lập khách quan, thận trọng và đạo đức nghề
nghiệp. Trong kiểm tốn nhà nước, do tính đa dạng của đối tượng kiểm toán với
18
nhiều loại khách thể kiểm tốn khác nhau, địi hỏi kiểm tốn viên phải đáp ứng u
cầu về trình độ chuyên môn để thực hiên tốt nhiệm vụ được giao. Vì vậy, kiểm tốn
nhà nước cần nâng cao năng lực và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên theo
hướng:
Thứ nhất, tăng cường về mặt số lượng, cơ cấu, nâng cao trình độ nghiệp vụ,
chun mơn đạo đức nghề nghiệp cho kiểm tốn viên.
Thứ hai, tiêu chuẩn hóa đội ngủ kiểm tốn viên về trình độ chun mơn, về
phẩm chất đạo đức thống nhất và đa dạng. Trong quá trình tuyển chọn cần lưu ý tới
tính hợp lý giữa cơ cấu ngành nghề, cân đối giữa cán bộ, kiểm toán viên đã có kinh
nghiệm thực tiễn cơng tác với việc thi tuyển kiểm toán viên.
Thứ ba, xây dựng chiến lược đào tạo đội ngủ cơng chức kiểm tốn về mọi mặt
và có mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cụ thể phù hợp với từng giai đoạn, trước hết là
chuyên môn nghiệp vụ, trong đó bồi dưỡng chuyên sâu theo đối tượng kiểm toán.
Quy định bắt buộc các kiểm toán viên phải tham dự các khóa bồi dưỡng, cập nhật và
nâng cao kiến thức hàng năm, và sau mỗi đợt bồi dưỡng phải tổ chức thi để kiểm tra
và đánh giá kết quả bồi dưỡng như thế nào
3.4. Đa dạng hóa các loại hình kiểm tốn theo quy định của Luật Kiểm tốn
nhà nước
Khơng chỉ dừng lại ở kiểm tốn báo cáo tài chính và kiểm tốn tn thủ mà cần
triển khai và đẩy mạnh loại hình kiểm tốn hoạt động. Qua kiểm tốn hoạt động sẽ có
điều kiện xác định tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong hoạt động thu – chi tài
chính nhà nước và những thất thốt do chi sai mục đích, sai chế độ cũng như khuất
tất trong quyết định đầu tư hoặc thực hiện chương trình, dự án. Đồng thời, cần thiết
triển khai kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ lãnh đạo và ngườ đứng đầu
cách Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối.
Thực tế cho thấy đây là một trong những biện pháp phịng chống gian lận và tham
nhũng rất có hiệu quả. Kết quả kiểm toán các hoạt động kinh tế của đơn vị trong
nhiệm kỳ của cán bộ lãnh đạo được các cấp quản lý lấy làm cơ sở để đánh giá , bố trí
và sử dụng cán bộ , thậm chí cách chức , bãi miễn hoặc truy tố trước pháp luật nếu
cán bộ đó có sai phạm.
19
3.5. Minh bạch và cơng khai kết quả kiểm tốn để tăng cường hội nhập kinh tế
với thế giới
Theo những quy tắc về minh bạch tài chính quốc gia của Quỹ tiền tệ thế giới,
mỗi quốc gia cần có một Cơ quan Kiểm toán Quốc gia hoặc một tổ chức tương
đương để kiểm tra , xác nhận tính đúng đắn , hợp pháp của một số liệu và chính sách
tài chính trước khi cơng bố. Kiểm tốn nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính độc lập
của một Quốc gia , chịu trách nhiệm đánh giá độ trung thực của báo cáo tài chính;
tính kinh tế và hiệu quả hoạt động quản lý; nếu những thơng tin kiểm tốn được công
bố công khai rộng rãi sẽ làm tăng thêm niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước, đồng thời tạo điều kiện để xã hội và người dân được quyền tham gia giám sát .
Bởi vậy cần thể chế hóa chi tiết qui định về cơng khai kết quả kiểm toán và kết quả
thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm tốn ( trừ những bí mật nhà nước quy định ).
3.6. Đảm bảo và tôn trọng tối đa tính độc lập của kiểm tốn nhà nước
Đặc biệt trong quyết định kế hoạch kiểm toán và tiến hành các hoạt động kiểm
tốn . Tính độc lập là vấn đè cốt lõi và xương sống của hoạt động kiểm tốn , được
hiểu theo cả hai khía cạnh : Kiểm tốn phải hồn thành độc lập , khách quan, vơ tư
trong khi thực hiện nhiệm vụ và phải đảm bảo sự độc lập bằng các qui định, các chế
tài để tránh mọi sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi tiến hành hoạt động nghiệp
vụ , kiểm tốn có thể tiếp cận đày đủ các baengf chưng và nguồn gốc thong tin; vô tư
và khách quan trong thu thập xem xét, đánh giá thong tin , từ đó có những kết luận ,
xác nhận tin cậy về thực trạng hoạt động kinh tế tài chính, về sự đầy đủ và chính xác
của thong tin. Hoạt động kiểm tốn và kết quả kiểm toán làm yên long những người
sử dụng thong tin kế toán, sử dụng kết luận của kiểm tốn. Đó là những kết luận có
bằng chứng được đánh giá. Hộ đồng dân tộc và các Ủy ban Quốc hội, Ban kinh tế
Ngân sách, các ban của hội đồng nhân dân hồn tồn n long và có căn cứ pháp lý
để thảo luận, đưa ra nghị quyết về những vấn đề kinh tế - tài chính . Tất nhiên các kết
luận của kiểm toán cần được đánh giá là khơng có dấu hiệu thiên vị, khơng phiến
diện thiếu căn cứ , thiếu khách quan hoặc mang tính chủ quan võ đốn… Cần có cơ
chế đảm bảo và kiểm tra tính độc lập , khách quan của từng kiểm tốn viên trong mỗi
cuộc kiểm toán.
20
KẾT LUẬN
Từ khi thành lập năm 1994, kiểm toán nhà nước đã trải qua 16 năm hoạt động
và phát triển, Luật Kiểm tốn nhà nước được Quốc hội thơng qua ngày 14/06/2005 và
bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 là một mốc son trong quá trình phát triển của
kiểm tốn Nhà nước. Trong 5 năm vừa qua, chính sự thay đổi này đã nâng cao vị thế
của cơ quan kiểm toán nhà nước lên một tầng cao mới. Từ đó hiệu quả hoạt động là
rất đáng khích lệ, góp phần làm lành mạnh hố hoạt động tài chính cơng, ngăn ngừa
những hành vi vi phạm kỷ luật tài chính, chống lãng phí, giúp nhà nước quản lý vĩ
mơ nền kinh tế một cách có hiệu quả hơn.
Cùng với quá trình hội nhập về kinh tế, thì đi kèm với đó cũng là hội nhập về
kiểm tốn, kiểm tốn nhà nước dần dần phải thay đổi để phù hợp hơn với thông lệ và
sự phát triển của quốc tế, nhưng mặt khác điều quan trọng hơn cả là sự phát triển của
kiểm toán nhà nước phải phù hợp với các giai đoạn phát triển của kinh tế trong nước.
Bênh cạnh đó kiểm tốn nhà nước là cơng cụ quản lý nhà nước của Quốc hội do đó
địa vị và vị thế của kiểm toán phải dần được nâng cao, đáp ứng được yêu cầu, chức
năng và nhiệm vụ được giao của kiểm toán nhà nước.
Trong phạm vi tương đối ngắn của đề án này, em đã cố gắng tìm hiểu, từ đó đi
đến một số kết luận và phương hướng nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động
của kiểm toán nhà nước trong hệ thống quản lý nhà nước của Việt Nam, tuy nhiên do
kiến thức còn hạn chế nên đề án cịn nhiều điều thiếu sót, em mong nhận được sự
đóng góp của thầy cố để đề án được hoàn thiện hơn.
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Nghị định 70/CP ngày 11/7/1994 về việc thành lập kiểm toán nhà nước;
Nghị định 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của kiểm toán nhà nước;
Luật kiểm toán nhà nước số 37/QH11 ngày 14/6/2005;
Tuyên bố Lima về hướng dẫn các nguyên tắc kiểm toán ngày 10/1977 tại Lima,
Pêru;
Tuyên bố Mehico về tính độc lập của các cơ quan kiểm tốn tối cao;
Tạp chí kiểm tốn;
Lý thuyết kiểm toán – GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, TS. Nguyễn Thị Phương
Hoa – NXB Tài chính Hà Nội, 2008.
22