Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.8 KB, 2 trang )
Chữa sỏi thận bằng Đông y
Sỏi đường tiết niệu nói chung, sỏi thận nói riêng là một
bệnh phổ biến ở nước ta. Các điều kiện thuận lợi cho việc
hình thành sỏi tiết niệu là uống ít nước, ứ trệ nước tiểu, nhiễm
khuẩn tiết niệu, thay đổi độ pH nước tiểu.
Những viên sỏi nhỏ có thể tự ra ngoài theo nước tiểu.
Những viên sỏi to nằm lại trong đài bể thận hoặc trong bể thận rồi phát triển to dần
chiếm hết đài bể thận, gây ra những tai biến nghiêm trọng làm hủy hoại thận và các
chức năng của cơ quan này. Bệnh có đặc điểm chung là thường có biến chứng
nhiễm khuẩn, dẫn đến suy thận mãn tính rất nguy hiểm.
Tùy theo thành phần hóa học, người ta thấy loại sỏi có calci (calci phosphat,
calci oxalat, loại hỗn hợp cả oxalat và phosphat) và sỏi không có calci như acid uric,
systin... Tùy theo vị trí của sỏi có sỏi thận (đài, bể thận), sỏi niệu quản và sỏi bàng
quang. Dù loại sỏi nào thì sự hình thành sỏi thận cũng theo 3 giai đoạn: Tạo nhân,
dính các phân tử vào thượng bì đường niệu và lắng đọng, to dần thành sỏi. Các điều
kiện thuận lợi cho việc hình thành sỏi tiết niệu là uống ít nước, ứ trệ nước tiểu, calci
niệu tăng, citrat niệu thấp, pH niệu mất bình thường và nhiễm khuẩn đường tiết niệu.
Người bị sỏi tiết niệu có một hoặc nhiều triệu chứng sau đây: Đau, tức, nặng
vùng thắt lưng, cơn đau quặn thận; đái ra máu, đái buốt, đái rắt, đái đục; có thể sốt
và nếu để lâu, có thể có các biểu hiện của ứ nước, ứ mủ ở thận, đái ít, vô niệu hoặc
suy thận cấp hay mạn tính. Chẩn đoán xác định sỏi tiết niệu chủ yếu dựa vào siêu
âm hoặc chụp Xquang.
Theo Đông y, bệnh sỏi tiết niệu được gọi là thạch lâm, nguyên nhân hoặc do
ngày thường ăn nhiều thức ăn cay nóng, hóa sinh thấp nhiệt, uất kết lâu ngày rồi
dồn xuống bàng quang làm cho khí hóa trì trệ không thông; hoặc do phòng sự quá
độ, thận âm hao tổn, âm hư hỏa động ảnh hưởng đến tác dụng khí hóa của bàng
quang, làm cho tạp chất của nước tiểu kết lại mà thành sỏi.