Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Me VNAH Bui Thi Me

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.07 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Mẹ Việt Nam anh hùng</b>


<b>Bùi Thị Mè</b>



Mẹ Bùi Thị Mè là Thứ trưởng khi chưa là đảng viên. Mẹ từ bỏ cuộc
sống tiện nghi, sang giàu để chọn lối đi này, lối đi nhiều gian khĩ chỉ bởi lịng
yêu nước nồng nàn, bất vụ lợi. Mẹ là một trong những bà mẹ anh hùng Việt


Nam ở thành phố Hồ Chí Minh.Tấm gương chiến đấu trong cuộc chiến thống nhất
đất nước cũng đúc tính hy sinh của người phụ nữ Việt Nam của mẹ đã khiến bao
người ngưỡng mộ ,cảm phục .Tôi là một trong những người ấy, đọc lại những chi
tiết về cuộc đời mẹ tôi không biết bao lần phải nghẹn ngào thương cho mẹ. Mẹ ơi!


Năm 1940, tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp ở Trường Con Gái Bản
Xứ (còn gọi là Trường Áo Tím, giờ là Trường Nguyễn Thị Minh Khai), cô nữ
sinh Bùi Thị Mè phải về quê lấy chồng, theo lệnh cha. Cuộc hôn nhân của con
gái một điền chủ ở Vĩnh Long có bằng Thành Chung, lấy con trai một tài phú
ở Bến Tre vừa du học ở Hồng Công về hứa hẹn một cuộc sống nhiều ấm êm,
nếu khơng có những người bạn cậu Hai Nhơn - chồng cô Mè (tên thật là
Nguyễn Văn Nhơn) đến thăm. Những câu chuyện của họ nói đã mở ra cho
hai vợ chồng cơ Mè một lối đi khác: đi theo cách mạng.


Công việc đầu tiên mà tổ chức phân công cho cô Mè: Tổng Thư ký
Hội Phụ nữ Việt Nam tỉnh Trà Vinh. Với vỏ bọc Hiệu trưởng Trường Long
Đức, cô giáo Mè đã làm được rất nhiều việc cho cách mạng và giúp chị em
phụ nữ vươn lên, có cuộc sống tốt hơn, xóa đi nỗi ám ảnh phận bạc của
người phụ nữ thời phong kiến mà mẹ cô là một điển hình đau xót. Năm 1955,
lại bị lộ thân phận, Ngơ Đình Diệm có lệnh đóng cửa trường và “xem xét lại lý
lịch” của hiệu trưởng, gia đình cơ Mè chuyển lên Sài Gòn sinh sống.


Năm 1960. “Hồ sơ của chị bị Ngơ Đình Diệm phê xấu vậy, sớm muộn
nó cũng bắt nên Khu ủy miền Tây đề nghị anh chị về miền Tây Nam bộ công


tác”, một tỉnh ủy viên ở Trà Vinh thông tin với cô Mè như vậy. Lúc này cơ Mè
có 6 con, 4 con trai là Sanh, Tài, Đại, Đạo và 2 con gái Hịa và Bình. Vợ
chồng cơ bàn bạc, đắn đo mãi đành đi đến quyết định: Vợ chồng cùng 4 con
trai sẽ vào bưng, Hòa (9 tuổi) và Bình (3 tuổi) cịn nhỏ q nên phải gửi lại
cho người cơ ở Sài Gịn ni giúp. Cả đêm ngồi nhìn 2 con gái ngủ mà khơng
dám khóc, mờ sáng hơm sau, 6 người trong gia đình lặng lẽ, cắn răng gạt
nước mắt ra đi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Tháng 5-1961, tại xã Trí Phải, huyện Thới Bình tỉnh Cà Mau, đại hội Mặt trận
Giải phóng dân tộc miền Tây Nam bộ và cô Bùi Thị Mè được bầu vào Ban
Thường vụ, đại diện cho giới trí thức. Ít lâu sau, Trung ương Cục miền Nam
có lệnh rút cơ Mè về cứ. Ngồi Hai Sanh đi vào R cùng cha mẹ, còn Tài, Đại,
Đạo vẫn ở lại Ban Tuyên huấn miền Tây. Tối ấy, gia đình ăn “tiệc chia tay” với
món bánh tráng cuốn tơm, cá nướng và khơng ngờ rằng, đó là bữa cơm
chung, cuối cùng của nhiều người trong gia đình.


Cuộc chiến đấu ngày càng trở nên ác liệt khi cuộc Tổng tấn cơng Tết
Mậu Thân ngày càng gần. Cơng việc ở Ban Tuyên truyền Đối ngoại của “mẹ
Năm” ( tên gọi cô Mè lúc bấy giờ) ngày một bận rộn nhưng lại ấm áp hơn, bởi
trong những thơng tin cĩ được, thỉnh thoảng “mẹ Năm” lại thấy cĩ biểu dương
đơn vị thằng Hai, khen thưởng cơ quan thằng Ba, chiến thắng ở tuyến đầu
của thằng Tư, thằng Năm.


Năm 1968. Một chiều, từ chiến trường đưa tin về: Nguyễn Huỳnh Sanh
(Bé Hai), Nguyễn Huỳnh Tài (Bé Ba) cùng hy sinh ở chiến trường T4. “Các
anh có lộn khơng, Bé Ba ở mặt trận T3 mà?... Tơi cố nói mà giọng nghẹn líu”,
cơ Năm kể, giọng vẫn nghẹn. Thì ra đơn vị Bé Ba được điều lên tăng cường
cho Mặt trận T4 và hai anh em hy sinh cách nhau không bao lâu.


Mấy đêm liền, nằm trên chiếc võng treo ở hiên lán, gió thổi từ rừng về ù


ù không làm khô nổi cánh võng ướt đẫm nước mắt cùng nỗi đau của người
mẹ. Trái tim người mẹ tan nát bầm sâu với những câu hỏi không ai trả lời
“Bây giờ con đang nằm lại ở đâu, hỡi Bé Hai, Bé Ba của mẹ?”.


Nỗi đau mất con cộng với sự lo lắng vì bặt tin của Bé Tư và Bé Năm
khiến meï Năm suy kiệt và cơn sốt rét lại ập đến. Meï phải vào Bệnh viện B2
do BS Đoàn Thúy Ba làm Giám đốc để điều trị. Cắt cơn sốt xong, meï Năm Mè
quay về cứ và bắt đầu làm việc lại để thực hiện ý nguyện của con mình.


Một tuần sau. Đi làm về thấy mấy đồng chí ở T3 lên R cứ loay hoay, lóng
ngóng ở góc nhà nhìn mẹ rồi lại im lặng bỏ đi. Linh tính báo có điều gì ghê
gớm lắm sắp xảy ra với mình, mím chặt mơi, mẹ Năm nói: “Các đồng chí có gì
cứ nói, tôi chuẩn bị tinh thần chịu đựng rồi. Tôi không chịu nổi sự im lặng
đáng sợ này và sự chờ đợi tin con”. Họ ngập ngừng, lúng búng báo tin:
Nguyễn Huỳnh Đại (Bé Tư) vừa hy sinh ở mặt trận Vĩnh Long và Bé Năm
(Nguyễn Huỳnh Đạo) bị thương ở chiến trường, được đưa về Quân y viện.
Ơm lấy ngực mình, mẹ Năm chết đứng. Đất trời tối sầm, quay cuồng, cố đi về
góc rừng và meï đổ vật người vào cái võng với những vòng nước mắt ố vàng
từ tuần trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

của ngọn đèn dầu dã chiến, “hình như” mẹ Năm thấy 4 con trai tuấn tú của
mẹ bước vào cái lán nhỏ. Bé Hai bóp tay, chân cho mẹ, Bé Ba bưng chén
cháo cười rất tươi. Miệng đắng ngắt, mẹ cầm ly nước chanh Bé Tư pha, Bé
Năm đưa cái tay vụng về lau nước mắt cho mẹ…


Tổ chức cho đưa hai con gái Hịa và Bình ra cứ để có mẹ có con, hy
vọng giúp meï Mè bớt đau thương. Tháng 6-1969, tại Tà Nốt, căn cứ R, diễn
ra đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam để bầu Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam. Đồng chí Huỳnh Tấn Phát là
Chủ tịch Chính phủ với nội các gồm 25 người, trong đó có 3 nữ: bà Nguyễn


Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Bộ Y tế - Xã hội và Thương binh có Bộ
trưởng là BS Dương Quỳnh Hoa, Thứ trưởng là bà Bùi Thị Mè. Để thực hiện
mong ước giải phóng quê hương của các con, “mẹ Năm” gạt nước mắt, lao
vào công việc. Và Mẹ đã miệt mài làm việc bằng 4 người, cho đến ngày đất
nước hịa bình.


Năm 1974, khi xem danh sách đại biểu chính thức tham dự Đại hội Phụ
nữ Việt Nam tại Hà Nội từ miền Nam gửi ra, đồng chí Phan Văn Đán (Hai
Văn) Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, phụ trách Binh vận, đã ngạc
nhiên hỏi đồng chí Nguyễn Thị Định, Hội trưởng BCH Trung ương Hội Phụ nữ
giải phóng miền Nam: “Vì sao chị Bùi Thị Mè chưa là đảng viên?”. “Cơ Mè có
hơn 10 năm là đối tượng Đảng đấy. Ngày ấy, một số người cho rằng thành
phần gia đình cơ không tốt (điền chủ) nên cần thử thách nhiều hơn. Cơ Mè
xác định dấn thân vì lý tưởng, vì u Đảng, kính Bác Hồ chứ khơng cốt vào
Đảng để tiến thân. Suốt những năm công tác, dù chưa là đảng viên nhưng cô
Năm Mè vẫn được anh chị em, đồng chí tin yêu, vậy cũng là vui” – đồng chí
Nguyễn Thị Định trả lời.


Lê Thị Thanh Tuyeàn


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×