Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.34 KB, 71 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

PHAN THỊ DIỆU HƯƠNG
••

BẢO LƯU QUYỀN SỞ HỮU THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

PHAN THỊ DIỆU HƯƠNG

BẢO LƯU QUYỀN SỞ HỮU THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
••

Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. CHÂU THỊ KHÁNH VÂN



TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tác giả. Tồn bộ nội dung, số liệu
trong luận văn là trung thực và là kết quả nghiên cứu của riêng tác giả. Tất cả những
tài liệu tham khảo và kế thừa đều được tác giả trích dẫn đầy đủ.
TÁC GIẢ

Phan Thị Diệu Hương


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Cụm từ viết tắt

1

Bộ luật Dân sự

2

Bảo lưu quyền sở hữu

Ký hiệu viết tắt
BLDS

BLQSH


MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO


7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giao dịch dân sự là hoạt động tất yếu và phổ biến trong đời sống kinh tế, xã
hội. Trong các quan hệ giao dịch dân sự, để đảm bảo cho quá trình thực hiện nghĩa
vụ giữa các bên cũng như bảo vệ quyền, lợi ích của các tổ chức, cá nhân có liên
quan thì các bên trong các giao dịch thường thoả thuận với nhau để lựa chọn một
biện pháp mang tính tác động và dự phòng nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với bên có quyền trong quan hệ dân sự, đồng thời khắc phục những
hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
Nhằm đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của giao dịch mua bán tài sản hết sức
phong phú và sôi động của các chủ thể trong giai đoạn hiện nay, Bộ luật Dân sự
2015 có quy định 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong đó, Bảo lưu quyền
sở hữu là một biện pháp bảo đảm mới được bổ sung tại Bộ luật dân sự 2015, được
áp dụng đối với hợp đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên, đây không phải là quy định
mới hoàn toàn, thực chất biện pháp này đã được quy định gián tiếp trong Bộ luật
Dân sự 2005 với tư cách là một điều khoản trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần,
đến khi Bộ luật Dân sự 2015 ra đời mới chính thức quy định Bảo lưu quyền sở hữu
là một biện pháp bảo đảm cụ thể. Cách tiếp cận mới này của Bộ luật Dân sự năm
2015 phù hợp với bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của biện pháp bảo lưu
quyền sở hữu.

Việc quy định biện pháp bảo đảm “bảo lưu quyền sở hữu” đã đảm bảo tính
tương thích với hợp đồng mua bán tài sản theo hình thức mua chậm, trả dần. Đây là
quy định hết sức cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý cho các bên tham gia vào
giao dịch dân sự trong quá trình ký kết, tham gia, thực hiện hợp đồng mua bán.
Tuy nhiên, giữa một nền kinh tế đang phát triển, với xu hướng mở rộng hợp
tác, đẩy mạnh thu hút đầu tư như nước ta hiện nay, thì những quy định thiếu chặt
chẽ, nhất quán trong hệ thống pháp luật, trong đó có các quy định biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ sẽ ít nhiều gây ra nhiều rủi ro cho các chủ thể. Bên cạnh


8

những tiện ích mang lại thì biện pháp bảo lưu quyền sở hữu cũng bộc lộ ít nhiều
hạn chế, bất cập, chưa đáp được yêu cầu ngăn chặn và khắc phục tuyệt đối các rủi
ro cho các bên trong việc ký kết thực hiện giao dịch, chưa dự liệu được hết các
trường hợp có tranh chấp, đối kháng về lợi ích giữa bên bảo lưu và các chủ thể
khác. Cụ thể:
- Các quy định về bảo lưu quyền sở hữu chưa thực sự đầy đủ, chưa bao quát
hết các tình huống phát sinh trong thực tiễn;
- Một số quy định cịn chưa cụ thể, thiếu chi tiết, gây khó khăn trong công
tác áp dụng giải quyết khi phát sinh tranh chấp.
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các quy định
của pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu cùng với việc so sánh với quy định của các
nước, tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam” làm
Luận văn tốt nghiệp cho khóa cao học Luật dân sự và Tố tụng dân sự tại Trường
Đại học Kinh tế - Luật.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài “Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật
Việt Nam” nhằm làm rõ cơ sở khoa học, lý luận và thực tiễn của chế định bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và biện pháp Bảo lưu quyền sở hữu nói riêng,

luận văn tập trung giải quyết các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự nói chung và biện pháp bảo lưu quyền sở hữu nói riêng;
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng việc áp dụng bảo lưu quyền sở hữu
ở Việt Nam hiện nay, những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật;
Ba là, trên cơ sở những tồn tại, hạn chế tác giả đưa ra những đề xuất kiến
nghị cụ thể dựa trên những luận cứ khoa học nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu trong thời gian tới.


9

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu trong giao dịch dân sự.
Về phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Luật học, trên cơ
sở tiếp thu và kế thừa những kết quả đã đạt được trong các cơng trình nghiên cứu
trước đây, tác giả tập trung nghiên cứu đề tài trong phạm vi là các quy định của
pháp luật tại Việt Nam đồng thời có so sánh với Luật các nước về Bảo lưu quyền sở
hữu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tư tưởng đã
được trình bày trong các văn kiện của các kỳ Đại hội, Nghị quyết và các văn bản
quy phạm pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp
tổng hợp, phân tích, tổng kết thực tiễn, so sánh được sử dụng đồng thời với các
phương pháp quy nạp, hệ thống hóa các vấn đề cần nghiên cứu ở mức độ phù hợp
để hoàn thành mục tiêu của đề tài.
5. Tình hình nghiên cứu

Tại Việt Nam, bảo lưu quyền sở hữu là nội dung còn mới mẻ, đến nay chưa
có cơng trình nghiên cứu dưới dạng Luận án, Luận văn về bảo lưu quyền sở hữu.
Tuy nhiên, nội dung này đã nhận được nhiều nhà nghiên cứu phân tích, bình luận
thơng qua các bài báo khoa học. Các nhà nghiên cứu đã tiếp cận bảo lưu quyền sở
hữu từ góc độ của một nội dung thoả thuận trong hợp đồng mua bán lẫn của một
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mới.
Với bài viết, “Một số vấn đề về quy định biện pháp bảo lưu quyền sở hữu và
biện pháp cầm giữ tài sản trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát
(2016) của tác giả Nguyễn Thị Phương Hải, bảo lưu quyền sở hữu đã được giới
thiệu sơ lược dưới hai góc độ: nội dung của hợp đồng mua bán (theo BLDS 2005)


10

và biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (theo BLDS 2015).
Tác giả Đoàn Thị Phương Diệp với bài viết “Cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền
sở hữu theo Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2017), đã hệ
thống hóa những vấn đề cơ bản về BLQSH, đi sâu và làm rõ bản chất pháp lý của
BLQSH, phân tích cụ thể về tính chất bảo đảm của BLQSH trong mối tương quan
đối với các biện pháp bảo đảm khác.
Tác giả Đỗ Viết Anh Thái với bài viết “Bảo lưu quyền sở hữu của người bán
đối với tài sản mua bán theo Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật (2016), đã nghiên cứu các đặc trưng của BLQSH, mở rộng áp dụng BLQSH
đối với các hợp đồng kinh doanh thương mại, đề ra các giải pháp sửa đổi pháp luật
nhằm đảm bảo tính nhất quán đối với các quy định về hình thức xác lập BLQSH và
quyền địi lại tài sản.
Bài viết “Bảo lưu quyền sở hữu trong Dự thảo Bộ luật dân sự: Một biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ?”, Hoàn thiện Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi
(2016) của tác giả Trịnh Thục Hiền, đã đánh giá tính khả thi của BLQSH đang
được ghi nhận trong dự thảo BLDS, phân tích sự thay đổi tư tưởng chủ đạo trong

dự thảo của BLDS về quyền của bên bán, chuyển từ vị trí của chủ sở hữu sang vị trí
bên nhận bảo đảm, đồng thời so sánh với khái niệm “quyền lợi bảo đảm bởi tiền
mua hàng” của hệ thống luật Anh - Mỹ.
Bài viết của tác giả Dương Anh Sơn “Bảo lưu quyền sở hữu và hiệu lực đối
kháng với người thứ ba”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (2018), đã nhấn mạnh
những hạn chế của hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong biện pháp BLQSH,
các phân tích giải quyết cho câu hỏi biện pháp này có nên là biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ hay chỉ nên là điều khoản trong hợp đồng do các bên thoả thuận,
những khó khăn có thể gặp phải trên thực tế trong việc việc áp dụng BLQSH.
Nhìn chung, các tác giả đã có sự tiếp cận và phân tích BLQSH từ các góc độ
nghiên cứu khác nhau. Hầu hết các tác giả tập trung phân tích khái quát hoặc trên
một vài khía cạnh liên quan đến mục tiêu cụ thể của bài viết. Đến nay chưa có cơng
trình nghiên cứu mang tính tổng thể về bảo lưu quyền sở hữu đối với các vấn đề


11

như: Sự vận dụng các quy định về bảo lưu quyền sở hữu trong thực tiễn giao dịch
nước ta? Tính hiệu quả cũng như vai trò của bảo lưu quyền sở hữu trong thực tiễn?
Để hoàn thiện, phát triển ưu điểm của bảo lưu quyền sở hữu tại Việt Nam cần giải
pháp nào?
Kế thừa các thành quả nghiên cứu đã có của các tác giả đi trước, Luận văn
sẽ tập trung tìm ra các giải pháp để nâng cao tính ứng dụng của biện pháp bảo đảm
này, cụ thể Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trị của
BLQSH, tình hình áp dụng bảo lưu quyền sở hữu tại Việt Nam, các vướng mắc và
giải pháp sửa đổi các quy định pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Bằng những phân tích, luận giải các vấn đề có liên quan, Luận văn này góp
phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề pháp lý của biện
pháp bảo lưu quyền sở hữu, từ đó chỉ ra bất cập và thiếu sót trong các quy định của

pháp luật về vấn đề này tại Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, Luận văn cịn có ý nghĩa phát triển, mở rộng phạm vi điều
chỉnh bởi pháp luật BLQSH, giúp cho các nhà làm luật có cách nhìn đầy đủ và tồn
diện hơn trong q trình sửa đổi các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch
bảo đảm để phù hợp với thực tiễn nước ta và sự vận động phát triển của xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về bảo lưu quyền sở hữu.
Chương 2: Các quy định pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu và thực tiễn áp
dụng.
Chương
lưu
quyền
3: sở
Mộthữu
số và
vướng
kiến
mắc
nghị
trong
hoàn
quy
thiện.
định pháp luật về bảo


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO LƯU QUYỀN SỞ HỮU
1.1.


Khái niệm BLQSH

Theo từ điển Tiếng Việt, “bảo lưu” có nghĩa là giữ gìn để cho cịn lại, giữ lại
như cũ, khơng thay đổi1. Như vậy, “bảo lưu” có thể tạm hiểu là giữ nguyên, giữ lại.
“Bảo lưu quyền sở hữu” (sau đây viết tắt là BLQSH) có thể hiểu là việc giữ lại
quyền sở hữu cho mình mà khơng chuyển cho người khác nhằm đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ.
1.2.
1.2.1.

Đặc điểm của BLQSH
Đặc điểm chung

BLQSH là một biện pháp bảo đảm, được các chủ thể trong giao dịch dân sự
chọn lựa để đảm bảo cho một nghĩa vụ dân sự chính được thực hiện. Vì vậy,
BLQSH có các đặc điểm chung của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,
như:
Thứ nhất, đây là biện pháp mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính: Đây
là một giao dịch phụ (hợp đồng, điều khoản phụ) không tồn tại độc lập, mà nó ln
được xác lập đi kèm một hợp đồng mua bán trả chậm trả dần (hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm). Tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính thể hiện ở chỗ: Khi có quan
hệ nghĩa vụ chính (hợp đồng mua bán trả chậm trả dần) thì các bên mới cùng nhau
thiết lập biện pháp BLQSH, nghĩa là BLQSH không được thực hiện hoặc tồn tại
một cách độc lập, nội dung BLQSH phù hợp và phụ thuộc vào nghĩa vụ chính được
quy định trong hợp đồng mua bán.
Thứ hai, biện pháp BLQSH với mục đích là nâng cao trách nhiệm của các
bên trong quan hệ nghĩa vụ dân sự: Khi đặt ra biện pháp BLQSH, các bên hướng
tới mục đích nâng cao trách nhiệm thanh tốn của bên mua, đồng thời BLQSH cịn
có chức năng dự phịng, bảo vệ quyền sở hữu của bên bán trong trường hợp bên

mua vi phạm nghĩa vụ.
Thứ ba, biện pháp BLQSH phát sinh từ sự thỏa thuận giữa các bên: Cơ sở
1
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Nguyễn Như Ý (2013), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 79.


xác lập BLQSH là từ sự thoả thuận của các bên. Các bên có thể tự thỏa thuận về
việc lựa chọn áp dụng BLQSH hay không áp dụng BLQSH, áp dụng biện pháp
BLQSH hay áp dụng các biện pháp bảo đảm khác để bảo đảm việc thực hiện nghĩa
vụ. Ngoài ra, cách thức và toàn bộ nội dung của BLQSH đều là kết quả của sự thỏa
thuận giữa các bên. Trong giao dịch mua trả chậm trả dần, các bên hồn tồn có
quyền khơng thoả thuận BLQSH, khi đó, quyền sở hữu sẽ được chuyển giao khi hai
bên chuyển giao tài sản.
Thứ tư, BLQSH không phải là mục tiêu mà bên bán hướng đến, mà vấn đề
BLQSH chỉ đặt ra khi bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Việc thoả thuận
BLQSH với ý nghĩa là biện pháp dự phòng, nhằm mục đích đảm bảo bên mua thực
hiện nghĩa vụ thanh tốn.
1.2.2.

Đặc điểm riêng

Ngồi những đặc điểm chung như trên, biện pháp BLQSH còn mang những
đặc điểm riêng sau đây:
Một là, đối tượng bảo đảm của biện pháp BLQSH là quyền sở hữu tài sản.
Khác với các biện pháp bảo đảm khác có đối tượng bảo đảm là một tài sản với ý
nghĩa là một lượng tài chính dự phịng cho việc thực hiện nghĩa vụ trong trường
hợp đến hạn mà nghĩa vụ chính khơng được thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ. Trong hợp đồng mua bán có BLQSH, cái mà bên mua hướng đến
chính là quyền sở hữu tài sản một cách hợp pháp, và quyền sở hữu cũng chính là

thứ mà bên bán nắm giữ cho đến khi bên mua thanh toán đầy đủ. Việc nắm giữ
quyền sở hữu tài sản trong biện pháp này nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa
vụ trả tiền của bên mua.
Hai là, tài sản bảo đảm chưa thuộc sở hữu của bên bảo đảm: Trên nguyên tắc
chung, một tài sản được dùng làm tài sản bảo đảm khi đó là tài sản thuộc về bên
bảo đảm. Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 quy định “Tài sản bảo đảm phải thuộc
quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, BLQSH”. Như
vậy, đối với các biện pháp như thế chấp, cầm cố, ký quỹ, đặt cọc, ký cược... bên bảo
đảm phải có nghĩa vụ chuyển tài sản bảo đảm của mình cho bên nhận bảo đảm hoặc


bên thứ ba nắm giữ, bảo quản, nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Còn đối với biện
pháp BLQSH, tài sản bảo đảm vừa không chưa sở hữu của bên bảo đảm, vừa khơng
có sự chuyển giao tài sản từ bên bảo đảm sang bên nhận bảo đảm. Ngược lại, tài
sản bảo đảm được trao cho bên bảo đảm chiếm hữu, sử dụng trong suốt thời gian
BLQSH.
Ba là, bên nhận tài sản bảo đảm là bên có nghĩa vụ thực hiện. Khác với các
biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác, bên nhận vật là thường là bên có quyền
u cầu bên cịn lại phải thực hiện cơng việc, hành vi nào đó. Trong khi đó, bên
nhận vật trong biện pháp BLQSH lại là bên có nghĩa vụ thực hiện, cụ thể là phải
thanh toán đúng theo thỏa thuận của hợp đồng mua bán (trả tiền đủ, đúng hạn),
ngoài ra cịn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi tài sản mất, hư hỏng, và phải chịu
rủi ro khi sử dụng sản phẩm.
1.3.

Sự cần thiết của biện pháp BLQSH

Cùng với thị trường giao dịch mua bán ngày càng phát triển mạnh mẽ, hoạt
động mua bán trả chậm, trả dần là một phương thức kinh doanh hiệu quả đã có từ
lâu đời. Sự khó khăn về tài chính của người mua không chỉ khiến cho họ bị hạn chế

nhu cầu tiêu dùng, kinh doanh của mình, mà cịn gây trở ngại trong việc tăng doanh
thu của doanh nghiệp, nhà sản xuất. Trước tình hình đó, pháp luật về mua trả chậm
trả dần được hình thành nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng hàng hoá của bên mua,
đồng thời bảo hộ được lợi ích cho các chủ thể kinh doanh hàng hố đó. Phương
thức mua bán này tạo điều kiện cho những người có khả năng tài chính cịn hạn chế
nhưng có nhu cầu sử dụng hàng hóa; hay những trường hợp kinh doanh hàng hố
theo hình thức mua đi, bán lại để thu lợi nhuận, xoay vòng vốn.
BLQSH từng được nhìn nhận như một trường hợp riêng của hợp đồng mua
bán tài sản, dạng hợp đồng này được giao kết với điều kiện trì hỗn, BLQSH của
bên bán đối với tài sản đã bán. Theo đó, phương thức thanh tốn của mua trả chậm
là thanh toán một lần sau một khoảng thời gian nhất định sau khi giao kết hợp đồng
và nhận tài sản, phương thức thanh toán của mua trả dần là thanh toán nhiều lần với
số lần trả và số tiền trả trong một lần theo sự thỏa thuận của các bên. Trong hình


thức mua trả chậm, trả dần, mặc dù bên mua chưa thanh toán hoặc thanh toán chưa
hết tiền cho bên bán nhưng họ lại được nhận tài sản mua bán và có quyền đưa tài
sản vào khai thác cơng dụng; còn bên bán đã giao vật cho bên mua nhưng họ vẫn
còn quyền sở hữu đối với tài sản đã bán. Hay nói khác hơn, đây là một dạng hợp
đồng mua bán được giao kết với điều kiện BLQSH của bên bán đối với tài sản đã
bán. Pháp luật công nhận quyền sở hữu của bên bán được bảo lưu cho đến khi bên
mua thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ thanh toán.
Đến nay, BLQSH được quy định với tư cách là một biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ, đã góp phần tạo một hành lang pháp lý mới, giúp điều chỉnh mối
quan hệ các bên trong hợp đồng mua bán trả chậm trả dần, nâng giá trị pháp lý của
loại giao dịch này lên một tầm mới, cụ thể:
Một là, tạo điều kiện cho các chủ thể chủ động đưa tài sản vào tham gia giao
dịch mua bán theo cách của họ và tự chịu trách nhiệm về tài sản trên cơ sở tự
nguyện và bình đẳng. Cụ thể bên bán bán tài sản theo phương thức mới là trao tài
sản và chuyển giao quyền sử dụng tài sản của mình cho bên mua khi chưa nhận đầy

đủ tiền hàng, bên mua phải trả tiền và chịu rủi ro đối với tài sản mà mình chưa được
chuyển giao quyền sở hữu. Đối với bên bán thì quyền sở hữu tài sản mua bán lúc
này được dùng làm đối tượng đảm bảo cho việc thu lại tiền hàng của mình, thơi
thúc bên mua thanh tốn đầy đủ để được chuyển quyền sở hữu. Trong trường hợp vi
phạm nghĩa vụ thanh tốn thì sẽ bị bên bán địi lại tài sản. Như vậy, khi BLQSH
được chuyển đổi từ bản chất là nội dung hợp đồng mua bán sang tư cách là biện
pháp bảo đảm, thì quan hệ của các chủ thể trong hợp đồng mua bán cũng chuyển từ
tính chất đối nhân (yêu cầu bên mua thanh toán đúng hạn) sang quan hệ có tính chất
đối vật (địi lại tài sản, truy đòi tài sản). Điều này giúp các bên xác định rõ phương
thức xử lý khi bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng là trả lại tài sản, bồi
thường thiệt hại.
Hai là, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bên bán đòi lại tài sản khi bên mua vi
phạm nghĩa vụ thanh toán. Việc bên mua không trả tiền đầy đủ, đúng hạn sẽ là cơ
sở để bên bán có quyền địi lại tài sản. Quyền địi lại tài sản lúc này khơng cịn là


quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu đối với người chiếm hữu tài sản khơng có căn
cứ pháp luật, mà đây là quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm. Trong
trường hợp tài sản khơng cịn ngun trạng (bị sáp nhập, trộn lẫn, chế biến, đã hư
hỏng hoàn toàn, tiêu huỷ hoàn toan...), bên bán có quyền u cầu bồi thường thiệt
hại, mà khơng cần phải sử dụng quyền “truy đuổi” tài sản của chủ sở hữu thơng qua
việc tìm các chứng cứ chứng minh các sản phẩm mới sau khi sáp nhập, trộn lẫn, chế
biến có nguồn gốc từ tài sản của mình. Quyền đòi lại tài sản, quyền được bồi
thường thiệt hại lúc này được pháp luật bảo vệ như một quyền bảo đảm.
Ba là, đảm bảo quyền truy đòi tài sản từ người thứ ba của bên bán, và quyền
ưu tiên thanh toán đối với các chủ thể khác khi BLQSH được đăng ký tại Trung tâm
Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm. Cụ thể,
sau khi thực hiện đăng ký BLQSH, biện pháp này sẽ phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba2, theo đó, bên bảo đảm sẽ có quyền truy đòi tài sản và xác định thứ
tự ưu tiên thanh tốn với các chủ nợ có bảo đảm khác. Bên bán khơng cịn đứng

trước nguy cơ cạnh tranh xác lập quyền sở hữu với người thứ ba ngay tình (trong
trường hợp tài sản mua bán là động sản không có quy định đăng ký quyền sở hữu
và được bên mua bán lại cho người thứ ba bằng một hợp đồng có đền bù)3.
Bốn là, quyền sử dụng tài sản của bên mua trong thời gian BLQSH khơng
cịn là thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, mà trở thành một quyền luật định
trong trường hợp hợp đồng mua bán có áp dụng biện pháp này, cụ thể người mua
được đưa vào khai thác công dụng, sản xuất, chế biến, hưởng hoa lợi, lợi tức...
trước khi hồn tất thanh tốn.
Năm là, bên bán tránh khỏi vị trí chủ nợ khơng có bảo đảm. Khi BLQSH trở
thành biện pháp bảo đảm, sau khi đăng ký thì bên bán có hiệu lực đối kháng với
2 Khoản 3 Điều 331 BLDS năm 2015 quy định “BLQSH phát sinh hiệu lực đối kháng với người
thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.
3
Theo Điều 167 BLDS 2015: Chủ sở hữu có quyền địi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản
này thơng qua hợp đồng khơng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng
này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền địi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc
trường hợp khác bị chiếm hữu ngồi ý chí của chủ sở hữu. Như vậy, trong trường hợp người chiếm hữu ngày
tình có được động sản này thơng qua hợp đồng có đền bù với người khơng có quyền định đoạt tài sản thì chủ
sở hữu sẽ khơng có quyền địi lại động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu.


người thứ ba, điều này thực sự có ý nghĩa khi người mua - người đang nắm giữ tài
sản - lâm vào tình trạng phá sản, bên bán tránh được nguy cơ rơi vào vị trí chủ nợ
khơng có bảo đảm. Như chúng ta đã biết, chủ thể có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều
nhất khi doanh nghiệp giải quyết phá sản là các chủ nợ. Luật Phá sản năm 2014 đã
phân biệt rõ chủ nợ khơng có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm, và các điều luật với
tinh thần bảo vệ quyền lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn so với các loại
chủ nợ khác. Trong BLQSH, khi bên mua chưa thanh toán đầy đủ thì tài sản chưa
thuộc về khối tài sản của bên mua, nên cũng không thể dùng để xử lý nhằm chi trả

cho các khoản nợ.
Ngoài ra, việc ghi nhận việc biện pháp BLQSH đã góp phần bổ sung vào sự
đa dạng của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tạo điều kiện cho các bên
có nhiều phương án để lựa chọn biện pháp bảo đảm, đảm bảo được tính linh hoạt
cho q trình ký kết, tham gia, thực hiện hợp đồng của các chủ thể.
BLQSH góp phần đảm bảo tính tương thích giữa biện pháp bảo đảm với hợp
đồng mua bán tài sản theo hình thức mua bán trả chậm, trả dần trong thị trường
giao dịch, tạo hành lang pháp lý tin cậy cho các bên tham gia vào loại giao dịch
này. Biện pháp BLQSH cũng đã hướng đến tính cân bằng, hài hịa về lợi ích cho cả
bên bán và bên mua trong hợp đồng mua bán trả chậm, trả dần, theo đó bên bán có
thể bán được nhiều tài sản hơn, bên mua khi chưa thanh tốn đầy đủ vẫn có cơ hội
sử dụng, khai thác tài sản, góp phần đẩy mạnh thị trường tiêu thụ. BLQSH ngoài áp
dụng trong các trường hợp mua đi, bán lại hàng hoá để hưởng phần chênh lệch và
xoay vịng vốn, cịn đặc biệt có ý nghĩa đối với việc mua bán các tài sản có giá trị
lớn vượt quá khả năng tài chính hiện tại của bên mua. Điều này góp phần thúc đẩy
sự lớn mạnh thị trường cung cầu, giao dịch hàng hóa, từng bước nâng cao mức độ
tăng trưởng của nền kinh tế.
1.4.

BLQSH trong mối tương quan với các biện pháp bảo đảm khác

Cùng với các biện pháp bảo đảm khác, BLQSH khơng nằm ngồi mục đích
bảo đảm cho khả năng của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự tự chịu trách nhiệm
về tài sản, bảo đảm nguyên tắc tự do, tự nguyện và bình đẳng. Trên cơ sở kế thừa


những thành tựu trong quy định pháp luật các nước về BLQSH (retention of title),
đồng thời được đặt trong khuôn khổ của một biện pháp bảo đảm tại Việt Nam,
BLQSH có mối liên hệ nhất định đối với các biện pháp bảo đảm khác trong việc
đưa ra một quy tắc xử sự chung, các ràng buộc về quyền, nghĩa vụ các bên tham gia

giao dịch. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả so sánh BLQSH với biện
pháp cầm giữ tài sản và thế chấp tài sản.
1.4.1 BLQSH và cầm giữ tài sản
Cầm giữ tài sản được quy định tại Điều 346 BLDS 2015 như sau: "Cầm giữ
tài sản là việc bên có quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp
tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp
bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ". Với vai trị
chiếm giữ tài sản để bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, cầm giữ tài sản được xem
xét là một biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của luật. Cầm giữ tài sản
có thể được hiểu như sau: Khi bên có quyền đang chiếm hữu hợp pháp một vật thì
bên có quyền được quyền tiếp tục cầm giữ vật ấy nếu như những nghĩa vụ trực tiếp
phát sinh từ vật ấy không đựơc thực hiện hoặc thực hiện không đúng hạn. Người
cầm giữ được quyền chiếm giữ vật ấy cho đến khi nghĩa vụ được thực hiện xong.
Một ví dụ về phát sinh quyền cầm giữ tài sản là khi hợp đồng gửi giữ hoặc sửa chữa
tài sản mà bên gửi giữ/bên yêu cầu sửa chữa chưa hồn tất nghĩa thanh tốn chi phí
gửi giữ/sữa chữa, lúc này bên nhận gửi giữ/sửa chữa có quyền cầm giữ tài sản
nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ thanh toán của bên có nghĩa vụ.
Cùng với BLQSH, cầm giữ tài sản cũng là biện pháp bảo đảm mà theo đó,
bên có quyền được phép chi phối quyền định đoạt tài sản là đối tượng của hợp đồng
song vụ của các bên cho đến khi bên có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo
hợp đồng chính. Bằng việc chiếm hữu tài sản, bên có quyền trong biện pháp cầm
giữ yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
song vụ, đồng thời thanh tốn chi phí cần thiết cho việc bảo quản, giữ gìn tài sản
cầm giữ.
Có thể thấy BLQSH và cầm giữ tài sản có bản chất chung là cách thức thực


hiện quyền đòi nợ bằng cách tác động vào một phần của quyền sở hữu của tài sản
mà các bên đang giao dịch, nghĩa vụ bảo đảm là nghĩa vụ thanh toán phát sinh trực
tiếp từ tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ giữa các bên. Như vậy, các biện

pháp này áp dụng cho hợp đồng song vụ mà tài sản bảo đảm là đối tượng của hợp
đồng song vụ đó. Tài sản này chưa thuộc sở hữu của bên mua trong biện pháp
BLQSH, và không nhất thiết thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ trong biện pháp cầm
giữ tài sản. Quyền cầm giữ hoặc BLQSH sẽ chấm dứt khi nghĩa vụ thanh toán được
thực hiện đầy đủ.
Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai biện pháp này. Về căn cứ phát sinh,
nếu BLQSH phát sinh theo thỏa thuận giữ các bên, thì cầm giữ tài sản biện pháp
bảo đảm được áp dụng theo luật định. Bên có quyền có thể thực hiện việc cầm giữ
tài sản khi đủ điều kiện theo quy định mà khơng cần sự đồng ý của bên có nghĩa vụ,
cụ thể là phát sinh khi bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ, như là một biện pháp tự vệ trong quan hệ dân sự nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của bên có quyền. Tính đối kháng của biện pháp này cũng cao hơn biện
pháp BLQSH, khác với thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng của biện pháp
BLQSH là thời điểm biện pháp này được đăng ký, cầm giữ tài sản phát sinh hiệu
lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản.
Tóm lại, BLQSH và cầm giữ tài sản đã góp phần làm phong phú hơn hệ
thống các biện pháp bảo đảm thông qua việc bên nhận bảo đảm tác động trực tiếp
vào quyền định đoạt tài sản trong hợp đồng song vụ của các bên, nhằm đảm bảo
nghĩa vụ thanh tốn. Thơng qua việc bổ sung BLQSH và cầm giữ tài sản vào hệ
thống các biện pháp bảo đảm, BLDS 2015 đã mở rộng nội hàm của quan hệ bảo
đảm, khơng cịn giới hạn trong các tài sản độc lập thuộc sở hữu của bên bảo đảm
hoặc bên thứ ba, mà còn đối với chính các tài sản có liên quan trực tiếp đến hợp
đồng song vụ giữa các bên. Nghĩa vụ được bảo đảm lại chính là nghĩa vụ phát sinh
trực tiếp từ tài sản ấy, ví dụ: nghĩa vụ thanh tốn tiền mua tài sản, nếu khơng hồn
tất thì quyền sở hữu tài sản sẽ không được chuyển giao cho bên mua; nghĩa vụ trả
chi phí chăm sóc, chi phí thức ăn trong trường hợp chăm sóc súc vật ni, nếu như


chủ sở hữu vật ni khơng chi trả chi phí này thì bên chăm sóc có quyền chiếm giữ
chính vật ni đó cho đến khi nào chủ sở hữu chi trả xong; bên trơng coi, bảo vệ

hàng hố nếu như khơng nhận được thù lao trơng coi, bảo vệ thì được giữ lại hàng
hố đó cho đến khi nào chủ sở hữu hàng hố thanh tốn xong chi phí. Đây là hình
thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hồn tồn mới; song chỉ mới đối với pháp luật
Việt Nam bởi biện pháp này được áp dụng rộng rãi trong giao lưu dân sự kinh tế ở
các nước, thậm chí biện pháp này đã từng được đề cập trong Luật dân sự La Mã4.
Tuy nhiên, điều này tạo nên một xu hướng bảo đảm mới mẻ đối với đối với thị
trường giao dịch nước ta, góp phần nâng cao giá trị pháp lý trong việc ký kết, thực
hiện hợp đồng song vụ, tạo nên sự chủ động trong quá trình xác lập quan hệ bảo
đảm cũng như tạo hành lang pháp lý chắc chắn giúp quá trình giải quyết tranh chấp
linh hoạt, nhanh chóng.
1.4.1 BLQSH và thế chấp
Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “(1) Thế chấp tài sản là việc
một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và
khơng giao tài sản cho bên kia; (2) Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên
có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp”.
Có thể thấy, thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và khơng chuyển giao tài sản đó
cho bên nhận thế chấp, mà chỉ giao giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp theo thoả
thuận, nhằm để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp. Tài sản thế
chấp được xử lý theo thủ tục quy định của pháp luật nếu bên thế chấp vi phạm
nghĩa vụ trả nợ.
Trong thực tiễn nền tài chính hiện đại như hiện nay, một số giao dịch bảo
đảm được thiết lập trên cơ sở bên nhận bảo đảm không cần trực tiếp nắm giữ tài
sản, trong đó có thể kể đến BLQSH và thế chấp, đặc biệt thế chấp là một biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng nhiều trong đời sống xã hội. Đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì biện pháp
4Trần Đình Hảo, Về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Dự thảo BLDS. Tham
luận Hội thảo góp ý Dự thảo BLDS, Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tháng 3/2005



này đang ngày càng phát huy những ưu điểm của mình trong việc xác lập các giao
dịch dân sự và thương mại. Với các đặc điểm như: bên bảo đảm được sử dụng tài
sản, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời gian bảo đảm;
bên nhận bảo đảm nhận kiểm soát quyền định đoạt tài sản cho đến khi bên bảo đảm
hoàn tất nghĩa vụ theo hợp đồng... Có thể thấy, BLQSH và thế chấp có một số điểm
tương đồng nhất định, đều là các giải pháp linh hoạt, bên bảo đảm vừa bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ, vừa được sử dụng tài sản thế chấp để tiếp tục phục vụ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, đảm bảo tính sinh lời của tài sản, giúp tạo lập nguồn
vốn để trả nợ cho bên nhận bảo đảm.
BLQSH có nét tương đồng với biện pháp thế chấp, đặc biệt là thế chấp tài
sản hình thành từ vốn vay. Đây là hình thức khách hàng bảo đảm tiền vay bằng cách
dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính
khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng. Hình thức này trong thời gian qua được
khách hàng sử dụng đối với việc vay ngân hàng mua các tài sản có giá trị lớn, thời
gian sử dụng dài như: vay sửa chữa, mua nhà, mua xe ô tô. Trong thực tế, sau khi
phê duyệt cho vay, ngân hàng sẽ mở tài khoản giữ hộ và chờ thanh toán cho khách
hàng. Khi khách hàng nộp tiền vào tài khoản của mình tại ngân hàng, ngân hàng ký
hợp đồng tín dụng và ký khế ước nhận nợ trước khi ngân hàng thanh toán cho
người bán 100% giá trị tài sản và đề nghị bên bán giao tài sản cho ngân hàng.
Có thể thấy, trong thực tiễn kinh doanh mua bán, các chủ thể đôi khi chỉ nắm
trong tay công nghệ, phương pháp mà lại gặp hạn chế về nguồn vốn. Do đó, nhu
cầu về tài chính ln đặt ra đối với các chủ thể kinh doanh. Việc cấp tín dụng nhằm
mục đích đầu tư vào tài sản và sử dụng chính tài sản đó bảo đảm cho nghĩa vụ trả
nợ là một hình thức tín dụng thuận lợi và sớm nhận được sự quan tâm của các
khách hàng. Thật ra, BLQSH cũng là một dạng cấp tín dụng có tài sản bảo đảm
hình thành từ vốn vay, tuy nhiên, nếu trong biện pháp thế chấp, bên cấp tín dụng là
bên thứ ba (tổ chức tín dụng), thì đối với BLQSH, bên cấp tài chính là chính chủ sở
hữu tài sản. Điều này giúp các bên có thể tiến hành các giao dịch một cách chủ
động, trực tiếp, rút ngắn các quy trình, thủ tục, loại bớt sự phụ thuộc ý chí của bên



thứ ba, từ đó các chủ thể kinh doanh có cơ hội tiếp cận với tài chính theo một kênh
mới, tạo thuận lợi trong hoạt động giao dịch, mua bán nói chung.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
BLQSH được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là phù hợp với bản chất bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ, đáp ứng nhu cầu mua bán hàng hoá theo phương thức trả
chậm, trả dần hiện nay. BLQSH góp phần đảm bảo giao dịch mua bán trả chậm trả
dần được diễn ra một cách thiện chí, bình đẳng, người tham gia vào các giao dịch
dân sự có được thế chủ động trong việc thực hiện quyền dân sự, qua đó bảo đảm
được tính bao qt, ổn định trong quy định của BLDS.
Một trong những xu hướng của pháp luật dân sự của các nước hiện nay đều
coi BLQSH như một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Do đó, việc BLQSH
từ phần hợp đồng mua bán sang phần bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được xem
là phù hợp với thông lệ quốc tế.


CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ BLQSH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1.
2.1.1.

Các quy định pháp luật hiện hành về BLQSH
Căn cứ pháp lý của BLQSH

BLQSH là một trong 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định
tại Điều 292 Bộ luật Dân sự năm 2015 (sau đây viết tắt là BLDS 2015), 9 biện pháp
này bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, BLQSH,
bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản.
Biện pháp BLQSH được quy định tại tiểu mục 5, Mục 3 Chương XV, Phần

thứ ba, bao gồm 04 điều (từ điều 331 đến điều 334). Theo đó BLQSH được hiểu là
trong hợp đồng mua bán thì bên bán có thể được giữ lại quyền sở hữu đối với đối
tượng của hợp đồng cho đến khi bên mua thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán,
mặc dù tài sản đã được chuyển giao cho bên mua.
Trong biện pháp BLQSH, bên bán là bên nhận bảo đảm, thể hiện qua việc dù
đã bán tài sản, người mua đã nắm giữ, sử dụng tài sản nhưng quyền sở hữu đối với
tài sản đó vẫn thuộc về bên bán cho đến khi bên mua thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của
mình. Việc quy định này giúp bên bán đảm bảo quyền lợi được thanh toán giá trị tài
sản khi chuyển giao cho bên mua; cịn bên mua thì cần phải hồn thành trách nhiệm
thanh toán trước khi được chuyển quyền sở hữu.
BLQSH là nội dung đã sớm được quy định tại Điều 461 BLDS năm 2005
với tư cách là một thỏa thuận trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần. Đến BLDS
năm 2015, BLQSH trong hợp đồng mua bán được quy định là biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ5.
2.1.2.

Quyền và nghĩa vụ các bên trong BLQSH

Ngoài quyền và nghĩa vụ chung của các bên trong việc giao kết và thực hiện
5Điều 461 BLDS 2005. Mua trả chậm, trả dần
1. Các bên có thể thoả thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi
nhận vật mua; bên bán được bảo lưu quyền sở hữu của mình đối với vật bán cho đến khi bên mua trả đủ
tiền, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Hợp đồng mua trả chậm hoặc trả dần phải được lập thành văn bản. Bên mua có quyền sử dụng vật mua
trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng, trừ trường hợp có thoả thuận khác..


hợp đồng mua bán tài sản, thì các bên trong hợp đồng mua bán có áp dụng biện
pháp BLQSH cịn có quyền và nghĩa vụ cụ thể sau đây:
2.1.2.1.


Quyền, nghĩa vụ của bên mua

Một là, quyền sử dụng khai thác công dụng của tài sản: Khi nhận được tài
sản mua bán, bên mua tài sản có quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ
tài sản trong thời hạn BLQSH có hiệu lực mà khơng bị cản trở bởi bất cứ bên nào.
Khoản 2 Điều 109 BLDS 2015 quy định “Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài
sản mang lại. Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”. Do đó, những
hoa lợi phát sinh cũng như các khoản tiền thu được từ việc khai thác tài sản thì bên
mua sẽ được hưởng. Ví dụ: anh A làm thủ tục mua đàn gia súc của chị B trị giá 500
triệu đồng. Trong hợp đồng mua bán, A và B cùng thỏa thuận rằng anh A sẽ trả
trước cho chị B 200 triệu đồng. Sau đó, mỗi tháng, anh A trả cho chị B 30 triệu
đồng, sau 10 tháng, anh A sẽ thanh tốn hết 300 triệu đồng cịn lại. Như vậy, trong
trường hợp này, đàn gia súc vẫn thuộc sở hữu của chị B cho đến khi anh A thanh
toán hết 300 triệu đồng còn lại. Trong 10 tháng BLQSH, nếu anh A cho thuê gia súc
thì tiền thuê sẽ thuộc về anh A; nếu gia súc đẻ con thì gia súc con cũng sẽ thuộc về
anh A.
Hai là, nghĩa vụ thanh tốn đúng theo thỏa thuận: Bên mua có trách nhiệm
trả tiền đầy đủ và đúng hạn theo nội dung giao kết. Nếu vi phạm nghĩa vụ thanh
tốn thì bên bán có quyền địi lại tài sản đã bán.
Ba là, chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn BLQSH có hiệu lực, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác: Bên mua tuy là bên bảo đảm nhưng lại nắm giữ tài sản, vì
vậy trong thời hạn BLQSH bên mua phải có trách nhiệm gìn giữ, bảo quản tài sản,
sử dụng hiệu quả tài sản, bởi nếu như có phát sinh rủi ro thì bên mua phải là bên
chịu. Nếu việc khai thác, sử dụng tài sản mà bên mua làm hư hỏng, làm mất thì phải
bồi thường các thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận là bên mua sẽ không
phải chịu trách nhiệm đối với những rủi ro về tài sản mua bán đó.
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại: Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài
sản thì bên bán có quyền u cầu bồi thường thiệt hại. Quy định này trên cơ sở bảo



×