Tải bản đầy đủ (.docx) (151 trang)

thủ tục công nhận và cho thi hành tại việt nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 151 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

HỒNG THỊ XN

THỦ TỤC CƠNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
••

TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TỊA ÁN NƯỚC NGỒI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020

Ì1

íf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

HOÀNG THỊ XUÂN

THỦ TỤC CƠNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
••

TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TỊA ÁN NƯỚC NGỒI
Chun ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÀNH QUỐC TUẤN

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học thực sự của cá nhân,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Bành Quốc Tuấn. Các số liệu,
những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng


được cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ

HỒNG THỊ XUÂN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Từ được viết tắt

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

TNHH


Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................6
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài................................................6
7. Bố cục luận văn..................................................................................................7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ
CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA
TÒA ÁN NƯỚC NGỒI.........................................................................................8
1.1. Khái qt về thủ tục cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi............................................................8
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi ..........................................................8
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của
Tịa án nước ngồi ...................................................................................................18
1.1.3. Ý nghĩa của thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi..........................................................................21
1.2. Nguồn luật điều chỉnh về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi .............................................22



1.2.1. Các điều ước quốc tế giữa Việt Nam và các nước có nội dung điều chỉnh về
thủ tục cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước
ngồi ...22
1.2.2. Các quy định của pháp luật quốc gia về thủ tục công nhận và cho thi hành
bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài.........................................................25
1.3. Kinh nghiệm lập pháp quốc tế về thủ tục công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi ...................................................27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1......................................................................................31
CHƯƠNG 2: THỦ TỤC XÉT ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TỊA ÁN NƯỚC
NGỒI .................................................................................................................. 32
2.1. Nội dung điều chỉnh của BLTTDS 2015 về thủ tục công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi.............32
2.1.1. Nộp đơn u cầu ........................................................................................32
2.1.1.1. Quyền yêu cầu và chủ thể gửi đơn yêu cầu ..............................................32
2.1.1.2. Thời hạn và nơi nhận đơn yêu cầu ...........................................................34
2.1.1.3. Đơn và các giấy tờ, tài liệu kèm theo........................................................35
2.1.2. Tiếp nhận và xử lý đơn yêu cầu .................................................................36
2.1.3. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu...........................................................................38
2.1.3.1. Thời hạn chuẩn bị xét đơn u cầu ..........................................................39
2.1.3.2. Nội dung cơng việc Tịa án cần thực hiện.................................................39
2.1.3.3. Kết quả của giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu.......................................40
2.1.4. Phiên họp xét đơn yêu cầu ............................................................................42
2.1.4.1. Thành phần tham gia phiên họp xét đơn ..................................................42
2.1.4.2. Thẩm quyền của Hội đồng xét đơn ..........................................................43



2.1.4.3. Nội dung phiên họp xét đơn.....................................................................44
2.2. Thực trạng giải quyết và một số vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng
quy định pháp luật tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ..................47
2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài ..................................................47
2.2.2. Một số vướng mắc, bất cập trong giai đoạn nộp đơn yêu cầu .....................49
2.2.2.1. Về người có quyền yêu cầu và việc xác định tư cách tham gia tố tụng....49
2.2.2.2. Về thời hiệu yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi.........................................................................52
2.2.3. Một số vướng mắc, bất cập về yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc cung
cấp thông tin và căn cứ tạm đình chỉ.......................................................................55
2.2.4. Vướng mắc, bất cập trong phiên họp xét đơn yêu cầu.................................57
2.2.4.1. Về việc xác định những bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi
khơng được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam..............................................57
2.2.4.2. Về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại ..................................................60
2.2.4.3. Về nghĩa vụ chứng minh .........................................................................62
2.2.4.4. Hậu quả của quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và khơng cơng nhận
bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi...................................................65
2.3. Một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật

69

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

77

KẾT LUẬN

78


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, mối quan hệ giữa người với người không chỉ dừng lại ở phạm vi
một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ mà còn lan rộng ra nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt
trong bối cảnh các nước đang ngày càng xích lại gần nhau hơn, hợp tác để cùng phát
triển, điều này dẫn đến nảy sinh ngày càng nhiều yêu cầu hoặc các tranh chấp vượt ra
ngoài lãnh thổ của một quốc gia. Để giải quyết các tranh chấp hoặc các u cầu có
yếu tố nước ngồi đó, quốc gia phải đưa ra nhiều biện pháp chế tài, trong đó có các
biện pháp giải quyết đến từ Tòa án, Trọng tài hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác.
Tuy vậy, các bản án, quyết định của các cơ quan này chỉ có hiệu lực trong phạm vi
lãnh thổ của quốc gia mình, để chúng được thi hành tại quốc gia khác thì phải trải
qua q trình cơng nhận và cho thi hành bởi chính quốc gia nơi bản án, quyết định
được thi hành. Ngày nay, xu thế hội nhập quốc tế ngày càng phát triển, các tranh
chấp, yêu cầu có yếu tố nước ngồi được giải quyết ngày càng nhiều địi hỏi vấn đề
công nhận và cho thi hành ở mỗi quốc gia cần phải được coi trọng và không ngừng
cải thiện để phù hợp với tình hình mới.
Tại Việt Nam, tính đến cuối năm 2019, nước ta đã ký 13 hiệp định thương
mại tự do (FTA), trong đó có những FTA thế hệ mới hết sức quan trọng như: CPTPP
(Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương), EVFTA (Hiệp
định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu). Cho đến nay, 12/13
FTA nêu trên đã có hiệu lực với Việt Nam. Việc ký kết, thực hiện các FTA, đặc biệt
là FTA thế hệ mới là cơ hội để Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hồn thiện hệ thống pháp luật, cải thiện mơi trường đầu tư,
kinh doanh theo hướng thơng thống, minh bạch phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.

Khi các FTA được thực thi, các quan hệ của cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài
nước đều được xác lập, phát triển thuận lợi, làm nền tảng cho Việt Nam và các nước
đối tác thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển ngày càng sâu rộng, thực chất và có hiệu
quả nhưng cũng không thể tránh khỏi mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ việc xác
lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các bên. Vì vậy, sẽ có một


2

hoặc các bên đương sự nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tịa án nước ngồi hoặc Tịa án
Việt Nam giải quyết tranh chấp, từ đó, việc u cầu cơng nhận và cho thi hành bản
án, quyết định này là biện pháp tiếp theo mà đương sự thực hiện để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ trên thực tế.
Mặc dù, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa
án nước ngồi đã được BLTTDS 2015 quy định trong một phần riêng với nhiều quy
định mới mẻ, tiến bộ. Tuy nhiên, quá trình áp dụng trong thực tiễn lại bộc lộ nhiều
bất cập, thiếu sót của những quy định hiện hành, chưa phù hợp với sự biến động
mạnh mẽ của bối cảnh kinh tế - xã hội, điều này đòi hỏi phải nghiên cứu thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi
một cách tồn diện, sâu sắc từ đó có những kiến nghị, đề xuất góp phần hồn thiện
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài “thủ tục
cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước
ngồi” để nghiên cứu với mong muốn mang lại ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực
tiễn thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, nội dung pháp luật về công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi khơng phải là một vấn
đề mới, trước đó đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến chế định này, có
thể chia thành ba nhóm cơng trình nghiên cứu sau đây:
Nhóm các cơng trình nghiên cứu với phạm vi rộng và tổng quát về pháp luật

tư pháp quốc tế, trong đó có đề cập đến vấn đề công nhận và cho thi hành, bao gồm:
Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Cơng an nhân
dân; Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2010) Tư pháp quốc tế Việt Nam - Quan hệ dân
sự, lao động, thương mại có yếu tố nước ngồi (Sách chun khảo), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Bành Quốc Tuấn (2017), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Chính
trị quốc gia sự thật, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Tố
tụng dân sự, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội;...
Nhóm các cơng trình nghiên cứu chun sâu về vấn đề công nhận và cho thi


3

hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, trước hết cần
phải kể đến tác phẩm: Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngoài (Sách chuyên khảo) của tác giả Bành Quốc Tuấn,
Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, 2015. Đây là cơng trình cung cấp cho người đọc
lượng kiến thức cơ bản và đầy đủ về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm lập pháp của
một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra các biện pháp định hướng hoàn thiện chế định
này. Tiếp đến là các bài viết của một số tác giả như: Trần Thị Dương (2012), Hoàn
thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Khoa luật-Đại học quốc gia Hà Nội. Cơng trình này nghiên cứu về công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án nước ngồi, đã nêu lên được
những khó khăn vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, cơng trình nghiên cứu về những quy định của BLTTDS 2004/2011 và chỉ khái
quát công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án nước
ngoài, chưa đi sâu vào thực tiễn giải quyết tại Tòa án; Lê Thị Thúy Hằng (2018),
Pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh, thương
mại của Tịa án nước ngồi tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học

luật- Đại học Huế. Mặc dù, cơng trình đã nêu lên được những khó khăn vướng mắc
và kiến nghị hồn thiện các quy định của pháp luật về công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi nhưng chỉ tập trung vào khía
cạnh là các bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại.
Bên cạnh đó, cịn có các bài viết của các tác giả như Đỗ Văn Đại, Phạm Thị
Thúy (2016) “Những điểm mới của BLTTDS 2015 về công nhận và cho thi hành
quyết định nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 18/2016, Tr.1314; Nguyễn Huỳnh Anh và Bùi Thị Mỹ Hương (2018), “Công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi tại Việt Nam”, Tạp chí Cần Thơ;
Đặng Hoàng Oanh (2011), “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
2004 về nguyên tắc công nhận và thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước


4

ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài”; ... Các cơng trình trên được viết dưới
dạng bài báo khoa học, các tác giả chỉ tập trung trình bày những vấn đề cụ thể nên
nội dung tương đối ngắn gọn và không đề cập bao quát tất cả các nội dung của công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu này cung cấp nhiều lượng kiến thức
cơ bản về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước
ngồi. Tuy nhiên, một số cơng trình là kết quả nghiên cứu từ những quy định của
BLTTDS trước đây và có rất ít cơng trình nghiên cứu chun sâu về cơng nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi dưới góc
độ là thủ tục tố tụng - một bộ phận của BLTTDS 2015. Cơng trình nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Thị Tâm (2019), Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh là một nghiên cứu ứng dụng
về một số vấn đề như điều kiện, chủ thể có quyền yêu cầu, thẩm quyền và thời hiệu
yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa
án nước ngồi nhưng khơng nghiên cứu tồn diện về thủ tục công nhận và cho thi

hành như là một trình tự, q trình giải quyết của Tịa án đối với loại yêu cầu này.
Với thực tiễn tình hình nghiên cứu như trên, đề tài "Thủ tục công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi", lần đầu tiên
nghiên cứu các quy định chuyên sâu về thủ tục tố tụng bao gồm trình tự, các giai
đoạn của Tịa án trong việc xem xét, giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi để cung cấp lượng kiến
thức cơ bản về những công việc mà một Thẩm phán cần làm khi tiếp nhận đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành trên cơ sở phân tích những tình huống thực tiễn để
thấy được những khó khăn, vướng mắc mà các Thẩm phán gặp phải khi áp dụng các
quy định của pháp luật, từ đó nêu một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật tố
tụng dân sự về chế định này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài tác giả muốn làm sáng tỏ những quy định
pháp luật và thực tiễn áp dụng những quy định về trình tự xét đơn yêu cầu công nhận


5

và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi từ khi
tiếp nhận yêu cầu cho đến khi giải quyết xong tại cấp sơ thẩm, trên cơ sở đó kiến
nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
chế định này.
Để đạt được mục đích trên đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống lại một cách khoa học các quy định của pháp luật về thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi;
- Đánh giá, phân tích các vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ
tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân
sự của Tịa án nước ngồi;
- Kiến nghị hồn thiện pháp luật cho từng vấn đề cụ thể đã được tác giả phân
tích.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Bao gồm các quy định của các điều ước
quốc tế, kinh nghiệm lập pháp quốc tế và pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ
tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân
sự của Tịa án nước ngồi, việc áp dụng các quy định vào thực tiễn và phương hướng
hoàn thiện những quy định về thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi.
Phạm vi nghiên cứu: Tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi trong giai đoạn sơ thẩm, đồng thời
liên hệ thực tiễn về tình hình giải quyết và một số tình huống cụ thể tại Tịa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu như sau: Phương pháp phân tích được xem là phương pháp chủ yếu trong suốt
quá trình nghiên cứu đề tài; bên cạnh đó luận văn cịn kết hợp một số phương pháp
nghiên cứu khác gồm: Liệt kê các quy định pháp luật, so sánh, đối chiếu thủ tục công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi với thủ tục


6

công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngồi; thủ tục giải quyết
việc dân sự nói chung với thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành như
là một loại việc dân sự đặc biệt; thủ tục công nhận và cho thi hành với thủ tục giải
quyết vụ án dân sự. Trong đó phương pháp so sánh được sử dụng nhằm mục đích tìm
ra những quy định khác biệt so với những quy định có cùng bản chất với u cầu
cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước
ngồi, đồng thời so sánh để tìm ra những ưu khuyết điểm của pháp luật tố tụng dân
sự hiện hành; đối chiếu được sử dụng trong phần phân tích, đánh giá thực tiễn áp

dụng các quy định pháp luật và đối chiếu giữa pháp luật tố tụng trong nước và pháp
luật tố tụng của một số nước trên thế giới. Cuối cùng, tác giả sử dụng phương pháp
tổng hợp để nêu lên một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài
Luận văn đã góp phần làm rõ và bổ sung thêm cơ sở lý luận về công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, chỉ ra
một số vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật để giải
quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh và kiến nghị giải pháp để khắc phục tạm thời và góp phần hồn thiện pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam.
Giá trị ứng dụng của đề tài: Luận văn có thể sử dụng để làm tài liệu học tập
nghiên cứu của sinh viên ngành luật hoặc tham khảo cho những người hoạt động
trong lĩnh vực có liên quan đến pháp luật tố tụng dân sự nhưng không được tiếp cận
với những tình huống thực tiễn tại Tịa án nhân dân.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn bao gồm 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát những vấn đề lý luận về thủ tục công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi.
Chương 2: Thủ tục giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại việt
nam bản án, quyết định của tòa án nước ngoài


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN
VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TỊA ÁN NƯỚC NGỒI
1.1. Khái qt về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt

Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi
Khái niệm bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi
Về mặt thuật ngữ thì khái niệm này bao gồm hai thành tố cấu thành đó là
“Tịa án nước ngồi” và “bản án, quyết định dân sự”.
Tòa án là một cơ quan xét xử hoạt động trên cơ sở pháp luật của một quốc
gia, nhân danh Nhà nước để giải quyết các loại vụ án hoặc các yêu cầu phát sinh
trong các lĩnh vực như hình sự, hành chính, dân sự,... đây cũng là một trong những
phương thức để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Mỗi quốc gia khác nhau đều
có một hệ thống pháp luật khác nhau để quy định điều chỉnh về tổ chức, hoạt động
cũng như các vấn đề khác có liên quan đến hệ thống tịa án của quốc gia mình, do đó
Tịa án nước ngoài được hiểu là cơ quan xét xử được thành lập và hoạt động theo
pháp luật nước ngoài.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, Tịa án ban hành các bản án,
quyết định - đây là văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án, đánh dấu sự kết thúc
của một quá trình giải quyết vụ án mà Tịa án đã tiến hành thụ lý trước đó. Bản án,
quyết định nhằm giải quyết những tranh chấp, những yêu cầu trong lĩnh vực dân sự
được coi là bản án, quyết định dân sự. Khi những bản án, quyết định dân sự này
được tun bởi Tịa án nước ngồi, tức ở ngồi phạm vi lãnh thổ của nước cơng nhận
thì được coi là bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi. Như vậy, dấu hiệu
nằm ngồi phạm vi lãnh thổ được dùng để nhận biết và phân biệt bản án, quyết định
trong nước với bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi.
Tuy nhiên cần xác định, cụm từ “dân sự” trong khái niệm này không chỉ là
những quan hệ dân sự về nhân thân và tài sản phát sinh trong giao lưu dân sự mà cần


hiểu cụm từ này theo nghĩa rộng, tức là những “quan hệ mang bản chất dân sự”1, bao
gồm những tranh chấp, những yêu cầu phát sinh trong các quan hệ lao động, kinh
doanh thương mại, hơn nhân gia đình ... Do bản chất của quan hệ dân sự là những
quan hệ về nhân thân và tài sản nên dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì bản
án, quyết định dân sự thường có hai loại, đó là bản án, quyết định dân sự mang tính

chất tài sản và bản án, quyết định dân sự liên quan đến các vấn đề về nhân thân,
khơng mang tính chất tài sản. Những bản án, quyết định dân sự mang tính chất tài
sản thường chứa đựng nội dung phán quyết về quyền lợi của một trong các bên liên
quan đến một khoản tiền, một giá trị vật chất: quyền sở hữu tài sản, hưởng thừa kế
hoặc quyết định về một nghĩa vụ tài sản: nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt
hại, ...; bản án, quyết định dân sự liên quan đến các vấn đề về nhân thân có thể kể
đến như bản án tuyên về ly hôn hoặc quyết định công nhận thuận tình ly hơn (khơng
bao gồm các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng); phán quyết về xác định sự
kiện mất tích, chết hoặc quyết định về vấn đề ni con ni, ... Việc phân loại này có
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành,
bởi những bản án, quyết định dân sự có tính chất tài sản ln đặt ra yêu cầu thi hành
dẫn đến việc phải xác định chủ thể nộp đơn yêu cầu, người phải thi hành, nơi có tài
sản để xác định thẩm quyền của Tịa án nơi có u cầu cơng nhận...; trong khi những
bản án, quyết định dân sự khơng mang tính chất tài sản lại thường dừng lại ở việc
cơng nhận, thậm chí có những bản án, quyết định về nhân thân đáp ứng được các
ngun tắc cịn đương nhiên được cơng nhận mà khơng cần phải trải qua thủ tục nào.
Ngồi ra, giữa bản án dân sự và quyết định dân sự cũng có sự khác biệt tương
đối. Thơng thường, trong các vụ án dân sự, khi Tòa án giải quyết tranh chấp giữa
nguyên đơn (nguyên cáo), bị đơn (bị cáo) thì “phán quyết cuối cùng về nội dung của
vụ án dân sự mà Tòa án đưa ra được gọi là bản án dân sự”. Đối với những loại việc
dân sự không có nguyên đơn, bị đơn mà chỉ có người yêu cầu thì “quyết định cuối
cùng về nội dung của việc dân sự mà Tòa án đưa ra được coi là quyết định dân sự”2,
1Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Cơng an nhân dân, 1997, tr.7
2Bành Quốc Tuấn (2015), Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tịa án nước ngồi, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 14


như quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn, quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị
phá sản ... Sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối là bởi trong q trình giải
quyết vụ án dân sự, Tịa án có thể ban hành quyết định dân sự để kết thúc vụ án, ví

dụ: quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thay vì bản án. Tuy nhiên, kết quả
giải quyết một vụ án hoặc yêu cầu không chỉ có một cách gọi là bản án, quyết định
mà nó có thể tồn tại dưới nhiều tên gọi khác nhau như “nghị định, chỉ thị, quyết định
hay án lệnh ...”3. Dù tồn tại dưới tên gọi nào, chỉ cần chúng chứa đựng nội dung ghi
nhận phán quyết cuối cùng của Tịa án nước ngồi, làm kết thúc q trình giải quyết
cũng có thể là đối tượng để Tịa án nơi có u cầu cơng nhận và cho thi hành.
Bên cạnh sự khác biệt về tên gọi, việc phân định chủ thể ban hành bản án,
quyết định cũng có ý nghĩa quan trọng bởi nó liên quan đến phạm vi công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi. Thơng qua pháp luật
các nước cũng như các điều ước quốc tế có liên quan cho thấy, pháp luật quốc tế
đang tồn tại hai loại phạm vi công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của Tịa án nước ngồi đó là phạm vi hẹp và phạm vi rộng4.
Những nước theo phạm vi công nhận và cho thi hành hẹp chỉ thừa nhận và
cho thi hành đối với những bản án, quyết định do chủ thể ban hành duy nhất là Tịa
án nước ngồi, ngồi chủ thể này ra thì những bản án, quyết định dân sự do cơ quan
khác ban hành sẽ không được công nhận và cho thi hành, có thể kể đến một số nước
như: Liên bang Nga (Điều 409 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2003), Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa (Điều 267, 268 Luật Tố tụng dân sự năm 1991), Hoa Kỳ (Luật mẫu về thi
hành phán quyết nước ngoài năm 1948),...
Tuy nhiên, như trên đã xác định, Tịa án khơng phải là phương thức duy nhất
được quyền giải quyết những tranh chấp hoặc những u cầu trong xã hội, mà bên
cạnh đó cịn có các cơ quan khác như Trọng tài hoặc các cơ quan hành chính, tư pháp
khác. gọi chung là cơ quan tài phán. Ngày nay theo xu thế hội nhập quốc tế, nhiều
3Điều 25 Công ước Brucssels ngày 27/12/1968 về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các
vụ việc dân sự và thương mại có yếu tố nước ngồi và thi hành phán quyết về các vấn đề dân sự, thương mại.
4Xem thêm: Bành Quốc Tuấn (2015): “Mở rộng phạm vi công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (22), 30-36; Cơng nhận và cho
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, tr.15-19.



quốc gia trên thế giới đã theo phạm vi công nhận và cho thi hành rộng, tức thừa nhận
những quyết định của một số cơ quan khác không phải do Tòa án ban hành như phán
quyết của Trọng tài, các văn bản, quyết định của cơ quan hành chính hoặc cơ quan tư
pháp khác. Một số điều ước quốc tế đã ghi nhận phạm vi này như tại Điều 2 của
Công ước La Haye ngày 01/02/1971 về việc công nhận và cho thi hành phán quyết
của nước ngoài về các vấn đề dân sự và thương mại đã khẳng định: “Công ước này
được áp dụng cho tất cả các phán quyết được ban hành bởi cơ quan tài phán của
một quốc gia là thành viên công ước, không phụ thuộc vào tên gọi của cơ quan ban
hành ra phán quyết hoặc tên gọi của phán quyết như bản án, quyết định, án lệnh” 5.
Theo Điều 25 Công ước Brucssels ngày 27/12/1968 thì “Trong cơng ước này phán
quyết có nghĩa là bất kỳ phán quyết nào được tuyên bởi Tòa án hoặc cơ quan tài
phán của một quốc gia ký kết, bất kể bản án đó được gọi là nghị định, chỉ thị, quyết
định hay án lệnh, cũng như quyết định của Tịa án về án phí”6. Ngồi ra, trong pháp
luật một số quốc gia cũng thừa nhận phạm vi công nhận và cho thi hành rộng, bao
gồm Cộng hòa Pháp (Bộ luật tố tụng dân sự năm 1807), Cộng hòa Liên bang Đức
(Điều 328 Bộ luật tố tụng dân sự năm 1877), Nhật Bản (Điều 24 Luật thi hành án dân
sự năm 1979),.
Tại Việt Nam, bên cạnh các bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi mà
BLTTDS 2004/2011 đã quy định, thì Điều 423 của BLTTDS 2015 đã quy định thêm
một đối tượng có thể được cơng nhận và cho thi hành là các quyết định của cơ quan
khác có thẩm quyền của nước ngồi. Ngồi ra, một số hiệp định tương trợ tư pháp
giữa Việt Nam với một số nước như Liên bang Nga năm 1998, Mông Cổ năm 2000,
thừa nhận ngoài bản án, quyết định về dân sự của Tịa án ban hành cịn có các quyết
định về vấn đề dân sự (không bao gồm cả lao động) và gia đình khơng mang tính
chất tài sản do chủ thể là cơ quan Tư pháp, cơ quan Hộ tịch hoặc cơ quan Giám hộ
và trợ tá ban hành cũng được xem xét công nhận và cho thi hành. Mặc dù các quy
định của BLTTDS 2015 áp dụng phương pháp liệt kê nên vẫn giới hạn ở chỗ chỉ có
5Bành Quốc Tuấn (2017), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội,
tr.303- 304.

6Bành Quốc Tuấn (2017), Giáo trình Tư pháp quốc tế, sđd, tr.304


các quyết định về nhân thân hoặc trong lĩnh vực hơn nhân gia đình và một số Hiệp
định tương trợ tư pháp với một số nước như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm
1998, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào năm 1998, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên năm 2002,... quy định chỉ công nhận và cho thi hành những bản án, quyết định
của Tịa án nước ngồi và Trọng tài nước ngoài ban hành nhưng về cơ bản Việt Nam
là nước thuộc nhóm các nước có phạm vi công nhận rộng. Việc BLTTDS 2015 bổ
sung thêm một đối tượng như trên là hợp lý đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội,
bởi lẽ, đơn cử như ở Việt Nam, ly hôn thuộc thẩm quyền tài phán của Tòa án nhưng
theo pháp luật một số nước như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc thì việc ly hơn có thể
do vợ chồng thỏa thuận đăng ký tại cơ quan hộ tịch, khơng phải do Tịa án quyết
định7.
Khái niệm công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi
Xuất phát từ ngun tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và nguyên tắc quyền tài
phán lãnh thổ mà bản án, quyết định dân sự của Tịa án tại quốc gia này ln được
coi là bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi tại một quốc gia khác, điều này đồng
nghĩa với việc phán quyết của Tòa án tại quốc gia nơi ban hành sẽ không thể phát
sinh hiệu lực pháp luật tại một quốc gia khác, người được thi hành cũng không thể
buộc người phải thi hành đang sinh sống ở nước của họ phải thực thi bản án nếu họ
không tự nguyện thi hành. Điều này đã đặt ra vấn đề công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi cho mỗi quốc gia.
Trong tư pháp quốc tế, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi. Theo Từ điển
Luật học thì “Cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi tại Việt Nam là thừa nhận và cho phép thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản
án, quyết định hình sự của Tịa án nước ngồi theo những ngun tắc và trình tự


7Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Qùy (2010), Tư pháp quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 298-299.


pháp lý nhất định”8. Giáo trình tư pháp quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội thì
định nghĩa “Cơng nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi có nghĩa là
cho phép được coi bản án dân sự đó như là sự khẳng định các quyền và nghĩa vụ dân
sự theo đúng như bản án dân sự trong nước”9. Các định nghĩa này mới chỉ dừng lại ở
việc giải thích thuật ngữ “cơng nhận” mà chưa đề cập đến thuật ngữ “cho thi hành”,
trong khi về mặt kết cấu, khái niệm này bao gồm hai thuật ngữ cấu thành.
Theo Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao thì “Cơng nhận và cho
thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài
nước ngoài là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia thừa
nhận giá trị (hiệu lực) pháp lý của bản án, quyết định dân sự của một quốc gia và
làm cho bản án, quyết định dân sự đó có hiệu lực cưỡng chế thi hành trên thực tế
trên lãnh thổ quốc gia đó”. Định nghĩa này đã cho thấy “công nhận” và “cho thi
hành” là hai hoạt động pháp lý khác nhau, “Công nhận là hành vi của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thừa nhận bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật;
cịn cho thi hành được hiểu là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm cho quyết
định, bản án đó được thực thi trên thực tế”10. Điều này dễ dẫn đến cách hiểu “công
nhận” và “cho thi hành” là hành vi của hai cơ quan có thẩm quyền khác nhau thực
hiện, bởi cơng nhận thì thuộc thẩm quyền của một cơ quan thừa nhận bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật, trong khi “cho thi hành” lại là hành vi của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền làm cho quyết định, bản án được thực thi. Tuy nhiên, cần phân
biệt cụm từ “cho thi hành” với cụm từ “thi hành” trong các quy định của pháp luật
Việt Nam, bởi lẽ khơng có cụm từ “cho thi hành” đứng riêng độc lập mà chỉ có khái
niệm về “cơng nhận và cho thi hành”; còn cụm từ “thi hành” là để chỉ hoạt động tổ
chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong nước hoặc những bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi sau khi được Tịa án cơng nhận và cho thi hành.
Ngồi ra, trong một cơng trình nghiên cứu, tác giả Bành Quốc Tuấn đưa ra kết

8Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp: Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Nxb Từ điển bách khoa, Hà
Nội, 2006
9Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004,
tr.315.
10Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao (2009): Chuyên đề khoa học xét xử: “Những vấn
đề lý luận và thực tiễn của công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước
ngồi, quyết định của Trọng tài nước ngồi”, Thơng tin khoa học xét xử, số 4, tr.9.


luận về định nghĩa công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi là “hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia nhất
định công nhận hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định dân sự đó và thừa nhận
bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật được mang ra tổ chức thi hành
trên thực tế tại lãnh thổ của quốc gia mình nếu bản án, quyết định đó có yêu cầu thi
hành trên thực tế”11. Như vậy, hầu hết các định nghĩa đều cho rằng đối với những
bản án, quyết định cần được công nhận và cho thi hành nếu chỉ dừng ở việc công
nhận, tức thừa nhận giá trị pháp lý thơi chưa đủ mà nó cịn phải được Tịa án trong
nước thừa nhận đã có hiệu lực pháp luật và trao cho bản án, quyết định giá trị cưỡng
chế thi hành thì bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi mới chính thức được đưa
ra thi hành trên thực tế.
Trong khi pháp luật quốc tế lại khơng có sự tách biệt rõ ràng giữa khái niệm
“công nhận” và khái niệm “cho thi hành”, cụ thể, tại khoản 3 Điều 22 Luật Tư pháp
quốc tế của Bỉ năm 2004: Công nhận là việc trao hiệu lực pháp lý cho phán quyết
của cơ quan tài phán nước ngồi12. Theo đó, phán quyết của cơ quan tài phán nước
ngoài sau khi được cơng nhận sẽ có hiệu lực pháp lý như những phán quyết của cơ
quan tài phán của quốc gia Bỉ mà không phải trải qua thủ tục cấp phép thi hành (cho
thi hành). Theo pháp luật về tư pháp quốc tế của Pháp thì: Thủ tục cơng nhận và cho
thi hành là thủ tục theo đó Tịa án Pháp quyết định trao hiệu lực thi hành tại Pháp
cho bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi và các quyết định, văn bản khác của
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài 13. Như vậy, theo pháp luật của một

số nước mặc dù có nội hàm khác nhau, nhưng khái niệm công nhận đã bao trùm lên
khái niệm “cho thi hành”.
Theo tác giả định nghĩa về khái niệm công nhận và cho thi hành như trên là
phù hợp. Bởi lẽ, xét về bản chất, công nhận bản án, quyết định của Tịa án nước
ngồi chính là việc thừa nhận giá trị pháp lý của bản án, quyết định đó có hiệu lực
pháp luật ngang hàng (tương đương) với bản án, quyết định của Tòa án trong nước,
11Bành Quốc Tuấn (2015), Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngồi, sđd, tr. 27
12Bành Quốc Tuấn (2017), Giáo trình Tư pháp quốc tế, sđd, tr.310
13Bành Quốc Tuấn (2017), Giáo trình Tư pháp quốc tế, sđd, tr.310.


do đó chúng phải được đảm bảo thực hiện bởi nguyên tắc “Bảo đảm hiệu lực của bản
án, quyết định của Tòa án”, tức mọi bản án, quyết định đã có hiệu lực phải được thi
hành14. Điều này đồng nghĩa với việc Tịa án khơng thể thừa nhận giá trị pháp lý
(cơng nhận) bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi nhưng lại khơng cho thi hành
bản án đó trên thực tế.
Từ những điều đã được trình bày ở trên, có thể đưa ra định nghĩa về cơng
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi như sau:
Cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi là
hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia chính thức thừa
nhận hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định dân sự đó để chúng được thi hành tại
cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mình nếu có u cầu thi hành trên thực tế.
Khái niệm thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Tịa án nước ngồi
“Thủ tục” được hiểu là thứ tự và cách thức làm việc theo một lề thói đã được
quy định. Do đó, thủ tục cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Tịa án nước ngồi được hiểu là thứ tự, quy trình và cách thức thực hiện
của Tịa án Việt Nam khi tiếp nhận và giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi của đương sự. Nói cách khác đây là

trình tự của Tịa án có thẩm quyền tại Việt Nam khi xem xét, giải quyết yêu cầu công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi kể từ khi tiếp
nhận được đơn yêu cầu. Loại thủ tục này bao gồm hai giai đoạn chính là giai đoạn sơ
thẩm và phúc thẩm nhưng cũng có thể trải qua giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm nếu
có kháng nghị theo thủ tục này. Tại giai đoạn sơ thẩm, thủ tục này bao gồm các bước
tố tụng chặt chẽ như: Tiếp nhận và xem xét đơn yêu cầu; chuẩn bị xét đơn yêu cầu và
mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Xuất phát từ tính chất của bản án, quyết định và yêu cầu của các đương sự,
thủ tục này gồm 03 loại, cụ thể: Đối với các bản án, quyết định về nhân thân, chỉ có
u cầu cơng nhận, khơng có u cầu thi hành thì có hai loại thủ tục là công nhận
hoặc thủ tục không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi. Loại
14Xem thêm: Điều 19 BLTTDS.


thủ tục thứ ba là thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa
án nước ngồi đối với các bản án, quyết định có tính chất tài sản, có u cầu thi hành
tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, mặc dù giữa cụm từ “công nhận” với cụm từ “cho thi hành” có
liên từ “và” nhưng không thể tách khái niệm trên thành “thủ tục cơng nhận bản án,
quyết định dân sự của Tịa án nước ngoài” và “thủ tục cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi” bởi chúng là một thể thống nhất nếu tách ra sẽ
mang nghĩa khác hoặc hồn tồn khơng có nghĩa. Điều này thể hiện ở chỗ “thủ tục
công nhận bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi” hay cịn được hiểu là
nguyên tắc đương nhiên công nhận, nguyên tắc này áp dụng đối với bản án, quyết
định dân sự của Tịa án nước ngồi chỉ có u cầu cơng nhận, khơng có u cầu thi
hành. Đây là khái niệm dùng để phân biệt với thủ tục không công nhận đối với bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài. Nếu tách thành “thủ tục cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi” từ khái niệm trên thì cụm từ này
khơng tồn tại. Trong định nghĩa pháp lý, chỉ có thủ tục thi hành bản án, quyết định
của Tịa án nước ngồi, đây được hiểu là quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết

định đó trên thực tế và q trình này sẽ do cơ quan thi hành án đảm nhiệm; hồn tồn
khơng có khái niệm về “thủ tục cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi”.
Tuy nhiên, theo pháp luật một số nước như Đức hoặc Italia thì cơng nhận và
cho thi hành dường như là hai thủ tục riêng biệt, cụ thể: Đối với nước Đức, theo
nguyên tắc chung của Bộ luật tố tụng dân sự liên bang năm 1877, tất cả các bản án,
quyết định của Tịa án nước ngồi sẽ được cơng nhận mà khơng cần có một thủ tục
đặc biệt nào và cũng không yêu cầu giữa Đức và nước ban hành bản án, quyết định
cùng là thành viên của điều ước quốc tế, ngoại trừ những trường hợp từ chối công
nhận. Riêng đối với những phán quyết có tính chất tài sản, việc công nhận sẽ là điều
kiện tiên quyết để xem xét việc cho thi hành các phán quyết có tính chất tài sản 15. Do
áp dụng nguyên tắc đương nhiên công nhận nên theo Điều 722 của bộ luật này,
15Thomasrauscher (2005) “Công nhận và thi hành phán quyết về tài sản của Tịa án nước ngồi ở
Đức”, Tạp chí Khoa học pháp lý (3), tr.33-37.


những phán quyết có tính chất tài sản “phải có quyết định cho phép thi hành của Tòa
án dân sự hoặc Tòa án thương mại quận, huyện hoặc của Tòa án dân sự hoặc Tòa
án thương mại tỉnh (“Amtsgericht”) thuộc bang nơi đương sự đang sinh sống hoặc
có tài sản”16.
Đối với pháp luật về công nhận và cho thi hành của Italia, mặc dù không theo
nguyên tắc đương nhiên công nhận đối với tất cả các bản án, quyết định của tất cả
các quốc gia nhưng đối với những phán quyết có tính chất tài sản, Điều 64 Luật tư
pháp quốc tế năm 1995 quy định, những bản án, quyết định này sau khi được công
nhận phải làm thủ tục yêu cầu cho thi hành17.
1.1.2.

Đặc điểm của thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết

định dân sự của Tịa án nước ngồi

Trước hết cần khẳng định thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi là thủ tục tố tụng để giải quyết các yêu
cầu về loại việc dân sự. Điều này để phân biệt thủ tục này với các loại thủ tục hành
chính và thủ tục tố tụng giải quyết vụ án dân sự. Do đây là thủ tục tố tụng dân sự nên
thẩm quyền giải quyết thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng là Tịa án chứ khơng phải
là cơ quan hành chính nhà nước và pháp luật điều chỉnh là pháp luật về tố tụng dân
sự, không phải là các văn bản hành chính khác. Mặt khác, vì là thủ tục giải quyết
việc dân sự nên nó có những đặc điểm riêng khác biệt so với thủ tục giải quyết vụ án
dân sự từ việc xét đơn yêu cầu đến mở phiên họp để giải quyết việc dân sự.
Ngoài ra, xuất phát từ bản chất của công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi là hành vi thuộc thẩm quyền của
Tòa án của quốc gia thừa nhận sự tồn tại, giá trị pháp lý đối với bản án, quyết định
của Tòa án quốc gia khác để chúng được thi hành tại quốc gia mình nên hành vi này
vừa là hành vi tố tụng dân sự chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia, vừa là hành
vi thể hiện sự hợp tác quốc tế trong hoạt động tương trợ tư pháp, chịu sự điều chỉnh
của các điều ước quốc tế. Do đó, có thể nói, thủ tục cơng nhận và cho thi hành tại
16Bành Quốc Tuấn (2015), Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tịa án nước ngồi, sđd, tr. 84.
17Bành Quốc Tuấn (2015), Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài, sđd, tr. 85.


Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là một loại thủ tục tố
tụng dân sự đặc biệt18 nhằm đảm bảo giải quyết các xung đột về quyền tài phán và
đảm bảo tôn trọng quyền tài phán của mỗi quốc gia. Tính chất đặc biệt của loại thủ
tục này được thể hiện qua các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, để được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam thì những bản án,
quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi phải tn thủ những nguyên tắc nhất định,
cụ thể:
Pháp luật Việt Nam và hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận hai

nguyên tắc cơ bản, đó là nguyên tắc có điều ước quốc tế và nguyên tắc có đi có lại.
Đối với nguyên tắc cùng là thành viên của điều ước quốc tế thì bản án, quyết định
dân sự của Tịa án nước ngồi sẽ được đương nhiên cơng nhận mà không cần phải
trải qua bất kỳ một thủ tục tố tụng nào nếu chúng chỉ có u cầu cơng nhận mà
khơng có u cầu thi hành. Thậm chí, đối với một số quốc gia như Cộng hòa liên
bang Đức, Nhật Bản nguyên tắc này không tồn tại, bởi bất kỳ bản án, quyết định của
Tịa án nước ngồi nào cũng có thể đương nhiên được cơng nhận nếu khơng thuộc
trường hợp từ chối công nhận và cho thi hành mà khơng phụ thuộc vào việc hai nước
có là thành viên của điều ước quốc tế hay không, cụ thể:
Điều 1044 Bộ luật tố tụng dân sự năm 1877 của Đức quy định: Bản án, quyết
định dân sự của nước ngồi sẽ được cơng nhận tại Đức nếu như nó không rơi vào
những trường hợp từ chối công nhận và cho thi hành19. Mặc dù là nguyên tắc nền
tảng trong thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án
nước ngồi ở nhiều nước nhưng nguyên tắc này có hạn chế lớn nhất là số lượng các
điều ước quốc tế mà các nước tham gia không đủ để đáp ứng nhu cầu công nhận và
cho thi hành trên thực tế, bởi lẽ để ký kết hoặc tham gia một điều ước quốc tế là một
quá trình phức tạp, phụ thuộc nhiều yếu tố về kinh tế, chính trị và ngoại giao của
18Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp: Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Nxb Từ điển bách khoa, Hà
Nội, 2006, tr.726; Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2017, tr.464
19Đặng Hoàng Oanh: Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 về nguyên tắc công
nhận và thi hành bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi, quyết định của Trọng tài nước ngồi . Nguồn:
Thomasrauscher (2005) “Cơng
nhận và thi hành phán quyết về tài sản của Tịa án nước ngồi ở Đức”, Tạp chí Khoa học pháp lý (3), tr.33-37
sđd


quốc gia trong khi số lượng bản án, quyết định của nước ngoài ban hành ngày càng
nhiều. Để khắc phục điều này, hầu hết các quốc gia đã áp dụng nguyên tắc có đi có
lại để bổ sung cho việc thiếu hụt các điều ước quốc tế. Vì là nguyên tắc bổ sung nên

nó chỉ được áp dụng sau khi khơng có điều ước quốc tế và nếu quốc gia nơi ban hành
bản án, quyết định đã từng áp dụng hoặc có thỏa thuận áp dụng nguyên tắc có đi có
lại với quốc gia nơi tiếp nhận u cầu cơng nhận và cho thi hành.
Như vậy, so với các thủ tục giải quyết vụ án và các yêu cầu khác, ngồi việc
tn thủ các điều kiện luật định thì thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi còn phải tuân thủ những nguyên tắc
chặt chẽ do pháp luật quy định. Đây được coi là tiền đề cho việc giải quyết yêu cầu
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngồi, bởi lẽ
nếu khơng thỏa mãn các ngun tắc này thì sẽ khơng có việc xem xét giải quyết đơn
u cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa
án nước ngồi.
Thứ hai, thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngồi có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc với các vấn đề
của tư pháp quốc tế, cụ thể là vấn đề về tố tụng dân sự quốc tế. Nếu coi quá trình của
tư pháp quốc tế bắt đầu từ việc xác định và giải quyết xung đột pháp luật trong mọi
lĩnh vực của đời sống dân sự quốc tế, tiếp đến là việc xác định thẩm quyền quốc tế để
giải quyết các tranh chấp nảy sinh, sau nữa là việc xét xử, ủy thác tư pháp thì việc
cơng nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi là bước
cuối cùng của q trình ấy. Nói cách khác, thủ tục cơng nhận và cho thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi là một giai đoạn quan trọng
của tố tụng dân sự quốc tế, nếu thiếu giai đoạn này thì cả q trình khơng hồn
chỉnh, bởi đây là giai đoạn cuối cùng khép lại toàn bộ quá trình tố tụng dân sự quốc
tế.
Thứ ba, các quy định pháp luật điều chỉnh thủ tục công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi chứa đựng trong các
văn bản pháp luật trong nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Trong khi các loại thủ tục như cơng nhận thuận tình ly hơn, cơng nhận kết quả hịa



×