Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Kê biên tài sản chung của vợ (chồng), hộ gia đình trong thi hành án dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.13 KB, 63 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

VÕ VĂN HƯỞNG

KÊ BIÊN TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ (CHỒNG),
HỘ GIA ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

VÕ VĂN HƯỞNG

KÊ BIÊN TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ (CHỒNG),
HỘ GIA ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN XUÂN QUANG

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi với sự giúp đỡ
của giáo viên hướng dẫn. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ

VÕ VĂN HƯỞNG


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Số TT

Chữ được viết tắt

Chữ viết tắt

1

Bộ luật dân sự

BLDS

2

Bộ luật dân sự năm 2015

BLDS 2015


3

Bộ luật dân sự năm 2005

BLDS 2005

4

Luật Hôn nhân và gia đình

Luật HN&GĐ

5

Thi hành án dân sự

THADS

6

Ủy ban nhân dân

UBND

Tịa án nhân dân

TAND


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................6
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu của đề tài .....................................................7
4.1. Phạm vi nghiên cứu ..............................................................................................7
4.2. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................7
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài.....................................................8
6. Kết cấu của luận văn: ..............................................................................................8
CHƯƠNG 1 XÁC ĐỊNH PHẦN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN, PHẦN QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ HOẶC CHỒNG, THÀNH VIÊN TRONG HỘ GIA
ĐÌNH ........................................................................................................................10
1.1. Quy định của pháp luật về xác định phần quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng
đất của vợ hoặc chồng, thành viên trong hộ gia đình................................................10
1.2. Thực trạng về xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của
vợ hoặc chồng, thành viên trong hộ gia đình ............................................................18
1.3. Kiến nghị để hồn thiện pháp luật. ....................................................................23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................26
CHƯƠNG 2 KÊ BIÊN TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ HOẶC CHỒNG, HỘ GIA
ĐÌNH TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................................27


2.1. Quy định pháp luật về kê biên tài sản chung của vợ hoặc chồng, hộ gia đình
trong thi hành án dân sự ............................................................................................27
2.1.1. Quy định pháp luật về kê biên tài sản thi hành án dân sự: ..............................27
2.1.2. Quy định pháp luật về kê biên tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình .......30
2.2. Thực trạng về kê biên tài sản chung của vợ, chồng, hộ gia đình trong thi hành
án dân sự....................................................................................................................34

2.3. Những bất cập về kê biên tài sản chung của vợ hoặc chồng, hộ gia đình trong
thi hành án dân sự......................................................................................................39
2.4. Kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật.....................................................47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................50
KẾT LUẬN ..............................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quan hệ dân sự nói chung và thi hành án dân sự nói riêng, có rất nhiều
tình tiết phức tạp phát sinh khi tổ chức thi hành, bởi đương sự người phải thi hành
án ln tìm cách chây ỳ, trốn tránh khơng thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự.
Khi xác minh đương sự có tài sản, nhưng tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình
hoặc tài sản chung hùn với người khác, Chấp hành viên rất khó giải quyết. Việc
phân chia tài sản riêng của người phải thi hành án trong khối tài sản chung là một
vấn đề không dễ, cũng như tài sản chung không phân chia được, Luật thi hành án
dân sự cho phép chấp hành viên kê biên tài sản chung để thi hành án, nhưng khi kê
biên tài sản chung, chủ sở hữu chung quyền lợi bị xâm phạm, nên xảy ra việc tranh
chấp hoặc khiếu nại, khởi kiện chấp hành viên. Vì vậy, để đảm bảo cho bản án,
quyết định của Tòa án được thực thi, góp phần tăng cường tính nghiêm minh của
pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thi hành án
đúng pháp luật, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước.
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã tạo hành lang pháp lý
cơ bản bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự hiệu quả hơn; trình tự, thủ tục thi
hành án dân sự được quy định rõ ràng, dễ thực hiện, nhiều quy định mới thể hiện sự
phù hợp trong nghiệp vụ thi hành án dân sự. Trong đó biện pháp cưỡng chế thi hành

án được xây dựng chặt chẽ, mở rộng hơn so với Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 là cơ sở pháp lý để cơ quan thi hành án dân sự thực hiện tốt việc tổ chức thi
hành án dân sự.
Bên cạnh những tác động tích cực của Luật THADS năm 2014, sửa đổi, bổ
sung Luật THADS năm 2008, cho thấy trong thực tiễn áp dụng còn nhiều bất cập,
hạn chế đã gây khơng ít những khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự trong việc
thực thi pháp luật thi hành án dân sự như:


2

Thứ nhất, Luật thi hành án dân sự năm 2014, sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành
án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn bộc lộ một số khiếm
khuyết về trình tự, thủ tục thi hành án cịn phức tạp, nhiều cơng đoạn, q trình thi
hành án kéo dài, tài sản bán nhiều lần nhưng khơng có người đăng ký mua.
Thứ hai, các quy phạm pháp luật trong Luật thi hành án dân sự và các văn
bản hướng dẫn thi hành chưa dự lường nhiều tình huống xảy ra trong thực tiễn, nên
khi tổ chức thi hành án dân sự, chấp hành viên phải đối mặt với những rủi ro khi
thực hiện cưỡng chế thi hành án, đặc biệt cưỡng chế kê biên tài sản của người phải
thi hành án trong khối tài sản chung với người khác (như tài sản của vợ hoặc chồng
hay của hộ gia đình). Tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm
2014 quy định về xác định, xử lý tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi
hành án dân sự và tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị Định 62/NĐ-CP chưa có sự
thống nhất mà có mâu thuẫn về cách giải quyết1.
Thứ ba, khi kê biên tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình Chấp hành viên
phải vận dụng Luật hơn nhân và gia đình, Luật đất đai để xác định phần quyền tài
sản, quyền sử dụng của vợ (chồng), thành viện trong hộ gia đình. Đặc biệt, liên
quan đến tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng cũng như của hộ gia đình rất
khó xác định phần quyền của từng người, bởi tài sản của vợ chồng được hình thành
ở nhiều thời điểm khác nhau, khó xác định tài sản riêng hay chung hay tài sản của

hộ gia đình tại thời điểm giao đất cho hộ có mặt thành viên đó trong hộ nhưng sau
đó chuyển đi có được tính quyền lợi của họ hay khơng, nên gây cản trở khó khăn
cho q trình tổ chức thi hành án xử lý tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình
trong thi hành án dân sự.
Thực tiễn áp dụng pháp luật cần nghiên cứu, bổ sung các quy định nhằm
khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thủ tục thi hành án, hạn chế tình trạng
án dân sự tồn đọng là nhu cầu có tính cấp thiết nhằm bảo vệ cơ quan thi hành án,

1

Phạm công Ý (2017), “Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 9 – 2017, 31-32


3

Chấp hành viên, quyền lợi chính đáng của người được thi hành án trong việc thi
hành nghĩa vụ về tài sản. Căn cứ pháp lý để xác định, kê biên tài sản thuộc quyền sở
hữu, sử dụng của người phải thi hành án với người khác rất khó khăn. Nếu xác định
sai dẫn đến kê biên tài sản sai ảnh hưởng đến quyền lợi người thứ ba hoặc khơng
tính đến quyền lợi của chủ sở hữu chung, thì hậu quả để lại rất lớn có thể dẫn đến
bồi thường thiệt hại. Vì vậy bản thân chọn đề tài “ kê biên tài sản chung của vợ
chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự” làm đề tài luận văn Thạc sĩ cao học
Luật, chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự nhằm góp phần quan trọng
trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự về kê biên tài sản chung của vợ hoặc
chồng, hộ gia đình. Qua đó hồn thiện hơn hệ thống pháp luật thi hành án dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài có một số bài viết của các nhà nghiên cứu:
- Trương Văn Huyền, (2017), “Xác định, xử lý tài sản chung trong thi hành
án dân sự”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong cơng trình này tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về xác

định, xử lý tài sản chung. Luận văn đã phân tích, đánh giá thực tiễn pháp luật về xác
định xử lý tài sản chung để thi hành án. Trên cơ sở đó đưa ra xác định, xử lý tài sản
chung trong một số trường hợp cụ thể định hướng có tính nguyên tắc, đồng thời đề
xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xác định, xử lý tài
sản chung. Tuy nhiên, luận văn cũng chỉ rõ những trường hợp xử lý tài sản chung
trong thực tiễn mà không đưa ra những bất cập trong thực tiễn về xử lý tài sản
chung của vợ hoặc, thành viên trong hộ gia đình để kiến nghị nhằm hồn thiện quy
định pháp luật về THADS.
- Phạm Công Ý, (2017), “ Áp dụng điều luật nào trong kê biên, xử lý tài sản
của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác để thi hành án”.,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 09/2017, tr. 30 – 32. Bài viết trình
bày về việc chấp hành viên áp dụng biện pháp kê biên xử lý tài sản của người phải
thi hành án trong khối tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình hay tài sản chung với


4

người khác để đảm bảo thi hành án thì vẫn còn bất cập, vướng mắc nên áp dụng
điều luật nào, điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 buộc phải khởi kiện yêu
cầu Tòa án xác định mà không phân biệt loại sở hữu chung của vợ, chồng, hộ gia
đình hay loại sở hữu khác; nhưng điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật THADS năm 2014 quy định đối với tài sản vợ chồng, hộ
gia đình chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ chồng, thành viên trong hộ và
thông báo cho họ biết mà không phải khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định. Tác giả
tiếp thu được sự bất cập trong vận dụng hai điều luật nói trên và mong muốn tìm
hướng giải quyết để chấp hành viên gặp vấn đề về tài sản chung của vợ chồng, hộ
gia đình thì áp dụng điều luật nào để xác định trước khi tổ chức kê biên tài sản
chung.
- Hoàng Thị Thanh Hoa, Bàn về việc kê biên tài sản thuộc sở hữu chung của

người phải thi hành án trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân sự hiện
hành2. Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về việc xác định tài sản thuộc sở hữu
chung của người phải thi hành án với người khác. Trường hợp chưa xác định được
phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong
khối tài sản chung và trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản,
phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung. Đối
với trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng
đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, chấp hành viên thông báo
cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản,
quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu
Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Trường hợp đối với tài sản kê biên
thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung thì
trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà khơng có người khởi

2

/>
cập nhật ngày 15.6.2018


5

kiện, chấp hành viên tiến hành xử lý theo quy định. Nội dung mà cơng trình này
chưa giải quyết là kê biên đối với tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình được thực
hiện như thế nào sau khi phân định các loại tài sản. Tác giả cho rằng thời hạn tối đa
để khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần tài sản thuộc sở hữu chung là 45 ngày là
quá dài và vấn đề ưu tiên mua tài sản của chủ sở hữu chung. Điều này là phù hợp
bởi ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thi hành án của chấp hành viên, kéo dài thời
gian.
- Lê Viết Tám (2012), Áp dụng quyền ưu tiên mua tài sản theo luật thi hành

án dân sự năm 2008 như thế nào? Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 7/2012, tr
58, 59, 60;
- Nguyễn Việt Anh, (2010), “Về quyền ưu tiên mua tài sản của chủ sở hữu
chung theo luật thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 05/2010, tr. 6.
Hai bài viết trình bày việc áp dụng quyền ưu tiên mua tài sản theo luật thi
hành án dân sự. Về vấn đề thực hiện quyền ưu tiên mua tài sản của chủ sở hữu
chung, thời hạn ưu tiên mua. trong trường hợp ưu tiên cho các đồng sở hữu được
quyền mua và quy định giá mua. Nếu có một đồng sở hữu chung có người phải thi
hành án thì cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu các bên đương sự thỏa thuận về giá
bán theo quy định. Nội dung bài viết này chưa đề cập đó là xử lý tài sản chung khi
có tranh chấp trong thi hành án dân sự.
Qua nghiên cứu các cơng trình nghiên cứu trên, tác giả cho rằng, việc
thực hiện đề tài nghiên cứu: “kê biên tài sản chung của vợ chồng, hộ gia
đình trong thi hành án dân sự” là hết sức cần thiết nhằm hoàn thiện quy định
của pháp luật về xử lý tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi
hành án dân sự, góp phần giúp chấp hành viên về trình tự, thủ tục xử lý tài
sản thi hành án liên quan đến sở hữu chung của vợ (chồng), hộ gia đình
đúng quy định pháp luật, nhằm giảm thiểu tối đa các sai sót trong q trình
xử lý ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu chung. Qua đó phát hiện đầy
đủ những hạn chế của quy định này trong luật cũng như thực tế thi hành án


6

trong quá trình tổ chức thi hành án kê biên tài sản chung của vợ hoặc chồng,
thành viên trong hộ gia đình để thi hành án dân sự.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm:
- Phân tích các quy định của pháp luật về kê biên tài sản chung của vợ
(chồng), hộ gia đình trong thi hành án dân sự, chỉ ra những bất cập của pháp luật khi

áp dụng vào thực tiễn.
- Vận dụng pháp luật vào thực tiễn để kê biên tài sản chung của vợ chồng, hộ
gia đình trong thi hành án dân sự đảm bảo quyền lợi ích của vợ (chồng), thành viên
trong hộ không phải là người phải thi hành án.
- Phân tích thực trạng áp dụng quy định của của pháp luật về kê biên tài sản
chung trong thi hành án dân sự, nêu ra những bất cập nhằm hoàn thiện pháp luật về
thi hành án dân sự và pháp luật khác có liên quan;
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài:
- Nghiên cứu, tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp
luật về kê biên tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quy định của của pháp luật về kê
biên tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự, nêu lên
những kết quả, thành tích đạt được, những thiếu sót, hạn chế của pháp luật và những
khó khăn, vướng mắc trong hoạt động này;
- Kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện quy định của pháp luật, cơ chế thi hành
pháp luật về kê biên tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân
sự.


7

4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, tập trung nghiên cứu một số vấn đề liên quan
đến kê biên tài sản chung của vợ (chồng), hộ gia đình trong thi hành án dân sự. Khi
cưỡng chế kê biên tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình nên áp dụng Điều 74
Luật thi hành án dân sự yêu cầu Tòa án phân chia trước khi kê biên hay áp dụng
Điều 24 Nghị Định 62/2015/NĐ-CP Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng
của vợ hoặc chồng, các thành viên của hộ gia đình và thơng báo kết quả cho họ biết.
Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về kê biên tài sản chung của vợ

chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự, làm rõ nguyên nhân chủ quan, khách
quan dẫn đến tồn tại, thiếu sót trong việc xác định phần quyền tài sản của từng chủ
sở hữu chung vợ hoặc chồng hay các thành viên trong hộ và áp dụng kê biên tài sản
chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự làm hạn chế đến hiệu quả
hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự.
Giới hạn của đề tài: trong sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án, tác giả chỉ
tập trung đi sâu vào biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án trong khối tài sản chung với vợ hoặc chồng, các thành viên trong hộ gia
đình.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp phân tích để phân tích, làm rõ về xác định, kê biên tài sản
chung của vợ hoặc chồng, thành viên trong hộ gia đình thi hành án dân sự trong
chương 1 và 2;
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu về các quy
định của pháp luật về kê biên tài sản chung của vợ hoặc chồng, hộ gia đình trong thi
hành án dân sự;


8

- Phương pháp phân tích để phân tích, tổng hợp về các quy định về xác định,
kê biên tài sản chung của vợ hoặc chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự theo
pháp luật thi hành án dân sự hiện hành, chỉ rõ những bất cập của pháp luật thi hành
án dân sự trong thực tiễn áp dụng gây khó khăn cho chấp hành viên khi xử lý được
đề cập trong chương 1 và chương 2;
- Phương pháp so sánh, thống kê sử dụng để phân tích các quy định của pháp
luật hiện hành, nêu lên những bất cập, tồn tại của quy định về xác định, kê biên tài
sản chung của vợ hoặc chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự, để từ đó đề xuất

một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và cách thức tổ chức thi hành về kê
biên tài sản chung của vợ hoặc chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự ở
chương 1 và chương 2.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề cơ bản xử lý
tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự; cách xác định
phần tài sản chung của của vợ chồng, hộ gia đình trước khi tiến hành kê biên xử lý
phần tài sản chung của người phải thi hành án với người khác, những bất cập và
hướng hồn thiện.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học
tập về xử lý tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong cơng tác thi hành
án dân sự mà tác giả đang công tác.
Những kiến nghị là cơ sở để hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản chung của
vợ chồng, hộ gia đình trong thi hành án dân sự và thực tiễn thi hành.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 2 chương:


9

Chương 1: xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của
vợ hoặc chồng, thành viên trong hộ gia đình
Chương 2: Kê biên tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong thi hành án
dân sự.


10


CHƯƠNG 1
XÁC ĐỊNH PHẦN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN, PHẦN QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT CỦA VỢ HOẶC CHỒNG, THÀNH VIÊN TRONG HỘ GIA ĐÌNH
1.1. Quy định của pháp luật về xác định phần quyền sở hữu tài sản,
quyền sử dụng đất của vợ hoặc chồng, thành viên trong hộ gia đình
Việc xử lý tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với
người khác là rất phức tạp, trước khi muốn kê biên xử lý tài sản chung phải thông
báo cho đồng sở hữu chung biết để họ tự thỏa thuận phân chia. Đây là quy định bắt
buộc để đồng sở hữu chung chủ động hơn trong việc phân chia và bảo vệ quyền tài
sản của mình cũng như thực thi nghĩa vụ của người phải thi hành buộc họ phải thực
hiện nghĩa vụ, nếu không sẽ bị cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành nghĩa vụ trước
pháp luật, kể cả tài sản chung. Tránh trường hợp người phải thi hành án cho rằng tài
sản chung sẽ khơng xử lý vì ảnh hưởng đến bên thứ ba. Luật thi hành án dân sự năm
2014 quy định chủ sở hữu chung với người phải thi hành án mà khơng khởi kiện thì
người được thi hành án sẽ tiến hành khởi kiện yêu cầu tòa án xác định phần quyền
sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án3,
cần quy định như vậy để người được thi hành án tham gia pháp luật trong thi hành
án nhằm bảo vệ quyền lợi của họ và giúp việc phân chia xử lý tài sản thêm rõ ràng
tạo điều kiện chấp hành viên kê biên đúng phần tài sản của người phải thi hành án.
Nhưng người được thi hành án không khởi kiện thì buộc chấp hành viên phải khởi
kiện yêu cầu tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án
trong khối tài sản chung, Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.
Đây là quy định khá chặt chẽ đối với việc xử lý tài sản chung trong trường
hợp không xác định phần sở hữu, sử dụng trong khối tài sản chung trừ trường hợp
tài sản chung của vợ chồng cũng như của hộ gia đình. Luật thi hành án dân sự năm
2008 chưa có quy định rõ ràng như Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm

3

Theo quy định tại điều 74 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014



11

2014. Luật thi hành án dân sự năm 2014 đã tháo gỡ nhiều trường hợp về xử lý tài
sản chung và việc quy định cũng khá cụ thể góp phần tốt cho việc xử lý án tồn đọng
cũng như đảm bảo thủ tục kê biên tài sản chung đối với việc liên quan đến tài sản
đồng sở hữu chung với người phải thi hành án. Nhiều trường hợp đồng sở hữu
chung không phải khiếu nại việc thi hành án kê biên xử lý tài sản của họ trong khối
tài sản với người phải thi hành án mà chính đồng sở hữu chung sẽ động viên hay
thỏa thuận với người phải thi hành án để người phải thi hành án tự nguyện thi hành
án mà không phải cưỡng chế kê biên bán tài sản mất nhiều thời gian và chi phí cho
việc kê biên bán đấu giá.
Cơ sở pháp lý quan trọng để chấp hành viên xử lý tài sản chung của người
phải thi hành án với người khác để thi hành dứt điểm bản án, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người được thi hành án, đây là quy định quan trọng để giải quyết
việc xử lý tài sản chung mà Luật thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản trước
đây chưa được quy định cụ thể. Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu
chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp
hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế. Chủ sở hữu
chung có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của họ đối với tài
sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở
hữu chung khơng khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có
quyền u cầu Tịa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối
tài sản chung để bảo đảm thi hành án.
Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên
xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình và thơng báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng khơng đồng ý thì
có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự

khơng khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ


12

hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của
họ4.
Như vậy, tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp chỉ có vợ hoặc chồng
là người phải thi hành án, nhưng vợ hoặc chồng khơng cịn tài sản riêng nào khác
thì chấp hành viên có quyền kê biên tài sản chung đó nhưng trước khi kê biên phải
xác định được phần tài sản, quyền tài sản của từng người thì chấp hành viên kê biên
phần tài sản, quyền tài sản của người phải thi hành án theo quy định tại khoản 2
Điều 74 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014. Trường hợp chưa xác định được
phần quyền của người phải thi hành án trong khối tài sản chung của vợ chồng thì áp
dụng pháp luật hơn nhân và gia đình để xác định phần sở hữu, sử dụng của vợ
chồng5.
Liên quan đến tài sản chung của vợ chồng được quy định cụ thể tại Luật số
52/2014/QH13 năm 20146 và Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của
Chính Phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014 Hướng dẫn về thu nhập khác trong thời kỳ hôn nhân. Trên cơ sở
quy định pháp luật HN & GĐ năm 2014, Chấp hành viên xác định phần tài sản,
quyền sử dụng của vợ chồng trong khối tài sản chung.
Để xác định quyền tài sản của vợ chồng, theo đó tài sản chung của vợ chồng
được chia đơi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: hồn cảnh của gia đình và của
vợ, chồng; cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung, lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có
thu nhập; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề

4


Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự
5

Điểm b khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự.
6

Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.


13

nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi của mỗi bên trong
vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng7.
Trong thực tiễn tài sản của vợ chồng tồn tại với nhiều dạng khác nhau, nên
việc xác định cũng như phân chia rất khó khăn, khả năng chấp hành viên xác định
hoặc phân chia không đúng. Mặc dù luật hơn nhân gia đình và các văn bản có quy
định, nhưng việc xác định ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu chung vợ hoặc
chồng.
Đối với việc xác định phần quyền sử dụng của hộ gia đình, tại Điều 212
BLDS năm 2015 quy định tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm
tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác
được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
Chữ “hộ” trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có từ thời bao cấp, theo
đó ruộng đất được giao theo bình qn nhân khẩu. Cụ thể là trong sổ hộ khẩu gia
đình (hộ khẩu thường trú) có bao nhiêu “người từ 15 tuổi trở lên” thì được giao bao
nhiêu đất căn cứ vào quỹ đất của địa phương8. Từ đó, người có hộ khẩu thường

được hiểu là thành viên của hộ gia đình. Trong khi đó, những vấn đề liên quan đến
hộ khẩu được quy định bởi Điều 25 Luật Cư trú. Tuy nhiên, trên thực tế việc quản
lý hành chính vẫn dựa trên “hộ khẩu” nên phát sinh nhiều khó khăn, bất cập trong
quá trình tiến hành tố tụng cũng như trong việc xác định, phân chia quyền sử dụng
đất cấp cho hộ gia đình để thi hành án.
Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hơn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung
và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,

7

khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân gia đình năm 2014

8

Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB từ điển bách khoa và NXB tư

pháp, trang 373


14

công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất9. Bên cạnh đó, tại
trang 1 của Giấy chứng nhận (bìa) như sau: “Hộ gia đình sử dụng đất thì ghi “Hộ
ơng” (hoặc “Hộ bà”), sau đó ghi họ tên, năm sinh, tên và số của giấy tờ nhân thân
của chủ hộ gia đình như quy định tại điểm a khoản này;…10”
Tài sản chung của hộ gia đình là bất động sản thì việc định đoạt phải có sự
thỏa thuận của tất cả các thành viên đã thành niên và có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ trong hộ gia đình. Vậy nên, để có thể thực hiện thủ tục cần thiết liên quan tài sản
cần phải thỏa thuận được với tất cả các thành viên đã thành niên và có năng lực

hành vi dân sự đầy đủ trong hộ gia đình (những người có tên trong sổ hộ khẩu)11.
Như vậy, pháp luật về thi hành cho phép Chấp hành viên được quyền xác định phần
tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản của hộ gia đình kể cả quyền sử
dụng đất cấp cho hộ gia đình để thực hiện việc kê biên, xử lý đảm bảo nghĩa vụ của
người phải thi hành án theo phán quyết của Tòa án.
Đối với tài sản chung của hộ gia đình khi xử lý Chấp hành viên xác định
phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập
quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Liên quan đến quyền sử dụng
đất của hộ gia đình rất khó xác định phần quyền của các thành viên trong hộ bởi:
Thứ nhất, tại thời điểm giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất,
nhận chuyển quyền sử dụng đất có thành viên, sau đó thành viên đó chuyển hộ khẩu
đi nơi khác, Chấp hành viên có xác định là thành viên trong hộ gia đình để thơng
báo cho họ biết được phần quyền của họ khơng. Nếu xác định có phần quyền,
nhưng không xác định địa chỉ cụ thể thành viên đó đang sinh sống để thơng báo,
liệu quyền của thành viên đó có được bảo vệ khơng.
9

Theo quy định tại khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013

10

điểm c khoản 1 Điều 5 Thông tư 23/2014/TT-BTNMT quy định về cách thể hiện thông tin về

người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất
11

Theo quy định tại khoản 2 Điều 212 BLDS năm 2015



15

Thứ hai, khi giao đất ở có các thành viên trong hộ gia đình, nhưng thành viên
đó chưa đủ 18 tuổi. Sau khi giao đất tài sản được hình thành trên đất là ngơi nhà, thì
ngơi nhà được xác định như thế nào, ai tạo dựng nên. Tại thời điểm giao đất họ
chưa đủ 18 tuổi, nhưng đến khi chấp hành viên xử lý tài sản, thì thành viên chưa đủ
18 tuổi đã trưởng thành và có gia đình vợ con sống chung trong hộ đó, thì có xác
định tài sản trong hộ gia đình được phân chia thế nào.
Đối với xác định tài sản của vợ chồng, hộ gia đình thì luật thi hành án dân sự
và văn bản hướng dẫn thi hành rất ít, nhiều tình huống phát sinh trong thực tiễn,
chấp hành viên rất lúng túng khi xác định phần quyền cũng như kê biên tài sản liên
quan đến hộ gia đình.Vì vậy, chấp hành viên phải hết sức thận trọng, bởi vì khi xử
lý tài sản chung, mà phần quyền tài sản chung là của một chủ sở hữu chung nào đó
khơng phải là người phải thi hành án nên ảnh hưởng quyền lợi ích của họ và dễ xảy
ra việc khiếu nại yêu cầu bồi thường nếu trong quá trình kê biên xử lý chấp hành
viên khơng tính đến quyền lợi của họ theo đúng quy định của pháp luật.
Khi xác định xử lý tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình, Chấp hành viên
phải xác minh kiểm tra kỹ trước khi phân chia cũng như kê biên. Ngoài các quy
định của Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, Chấp hành
viên phải vận dụng và áp dụng Luật Đất đai, luật Hơn nhân gia đình để xác định và
phân chia, hạn chế thấp nhất những trường hợp quyền lợi ích của thành viên trong
hộ gia đình khơng tính tới, bị bỏ quên.
Trên thực tế, tài sản chung của vợ chồng, cơng sức đóng góp của vợ hoặc
chồng khơng ngang nhau, trong khi đó chấp hành viên lại xác định theo luật Hôn
nhân gia định chia đôi tài sản, thông báo cho vợ hoặc chồng biết, vợ chồng không
khởi kiện, chấp hành viên xử lý tài sản và trả lại phần giá trị được chia. Nhiều
trường hợp, vợ hoặc chồng không khởi kiện, nhưng chấp hành viên kê biên bán
xong thì mới phát sinh việc khiếu nại. Đây là một trong những vấn đề dễ xảy ra bồi
thường trong q trình xác định khơng đúng phần quyền của đồng sở hữu chung.



16

Nhiều trường hợp hộ gia đình có nhiều thành viên, trước khi xác định, phân
chia, Chấp hành viên nên xác minh cụ thể chi tiết từng thành viên trong hộ tại thời
điểm giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trường hợp
tại thời điểm giao đất có thành viên, nhưng sau đó chuyển đi thì Chấp hành viên nên
xác định thành viên chuyển đi khi giao đất họ có nhu cầu sử dụng và thời gian sử
dụng bao lâu để xem xét và cho họ là thành viên trong hộ gia đình được hưởng phần
quyền. Trường hợp xác định khi giao đất có trong hộ khẩu nhưng tới thời điểm xử
lý tài sản khơng có, khơng cho họ được hưởng quyền lợi trong khối tài sản của hộ
thì phải thơng báo cho họ biết để thành viên đó có thể khởi kiện tại Tịa để xác định
họ là người được hưởng phần quyền trong hộ.
Xác định xử lý tài sản của hộ gia đình rất phức tạp và có nhiều khó khăn, nên
trong cơng tác tổ chức thi hành án liên quan đến tài sản của hộ gia đình chấp hành
viên phải thận trọng áp dụng các quy định của pháp luật. Khi xác định các thành
viên trong hộ gia đình tại thời điểm giao đất, thì những giấy tờ chứng minh đã cũ và
nhiều thành viên có thể chuyển đi và thành viên chuyển đến, bởi vì tài sản hình
thành tại thời điểm giao đến giai đoạn xử lý khá lâu, ngoài ra Bộ luật dân sự năm
2015 đã bỏ chủ thể là hộ gia đình, nên liên quan hộ gia đình chúng ta phải xử lý
thận trọng, tránh những sai sót xảy ra và dễ bị khiếu nại bồi thường12.
Ngoài quy định về xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án
theo Điều 74 Luật Thi hành án dân sự. Tại điểm c khoản 2 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP của Chính phủ có quy định chi tiết về xác định, phân chia, xử lý tài
sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng và tài sản thuộc sở hữu,
quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình. Pháp luật có quy định cụ thể cho hai dạng
sở hữu, sử dụng như sau:
Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp
hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn


12

Dân chủ và pháp luật Số chuyên đề tháng 2 năm 2016


17

nhân và gia đình và thơng báo cho vợ, chồng biết. Để thực hiện tốt điều này đòi hỏi
Chấp hành viên phải am hiểu thêm về nguyên tắc phân chia tài sản của vợ, chồng
trong trường hợp chia tài sản chung theo Luật Hơn nhân và gia đình.
Về ngun tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến
các yếu tố như: về hồn cảnh của gia đình của vợ, chồng; về cơng sức đóng góp của
vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung... Về cách phân
chia, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu khơng chia được
bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị
lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch13.
Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình
thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ
gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành
viên trong hộ gia đình biết .
Để thực hiện tốt điều này địi hỏi Chấp hành viên phải xác định được số
lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời
điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử
dụng của người phải thi hành án để xử lý theo quy định chung.
Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình khơng đồng ý
với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền u cầu Tịa án phân chia tài sản
chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này

mà khơng có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và
trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc
quyền sở hữu, sử dụng của họ.

13

Theo quy định tại Điều 38 và Điều 59 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 thì


18

Với quy định này, nếu trong trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên
hộ gia đình khơng đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên và cũng khơng u
cầu Tịa án phân chia tài sản chung thì pháp luật khơng cho phép người được thi
hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền
sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng
dân sự như trong trường hợp xác định, phân chia tài sản chung theo Điều 74 Luật
thi hành án dân sự (tài sản không phải sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng và cũng
không phải quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình). Mà khi đó,
Chấp hành viên được tiến hành kê biên, xử lý tài sản ngay. Tất nhiên việc kê biên,
xử lý tài sản vẫn phải theo quy định chung của Điều 74 Luật thi hành án dân sự.
1.2. Thực trạng về xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử
dụng đất của vợ hoặc chồng, thành viên trong hộ gia đình
So với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, thì Luật đáp ứng, tháo gỡ
nhiều vướng mắc, trong thực tế mà Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 khơng
giải quyết được, góp phần giảm thiểu án tồn đọng kéo dài. Tuy nhiên, Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 cũng còn nhiều bất cập, vì vậy Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều Luật thi hành án dân sự năm 2014 ra đời giải quyết những vướng mắc của
Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Việc áp dụng pháp luật nói chung và Luật thi
hành án dân sự nói riêng trong thực tế giải quyết việc thi hành án có nhiều tranh cãi,

đồng thời khơng tránh khỏi những sai sót mà chấp hành viên mắc phải khi tổ chức
thi hành. Trong quá trình thực thi chấp hành viên cũng đã động viên giải thích để
đương sự tự nguyện hoặc thỏa thuận thi hành án, nhưng nhiều trường hợp người
phải thi hành án luôn chống đối khơng tự nguyện thi hành án, vì vậy Chấp hành
viên tiến hành cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án, đặc biệt liên quan đến tài
sản chung khi kê biên tài sản thì nhiều trường hợp phát sinh trong thực tiễn mà chấp
hành viên không giải quyết được, không phân chia hoặc xác định phần quyền của
vợ (chồng), thành viên trong hộ trong khối tài sản chung với người phải thi hành án,
nên không kê biên phát mãi được, bởi Luật có quy định nhưng cịn vướng mắc,
chưa cụ thể hoặc có quy định nhưng khó thực thi làm ảnh hưởng đến quá trình tổ


19

chức thi hành án. Dưới đây là một số bất cập trong việc xác định tài sản chung của
vợ hoặc chồng, thành viên hộ gia đình mà thực tiễn khi tổ chức thi hành mắc phải.
Trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, chấp hành viên hay đụng đến tài
sản chung của vợ chồng, hộ gia đình. Vì vậy, trước khi kê biên tài sản chung của vợ
chồng, hộ gia đình chấp hành viên phải vận dụng pháp luật hơn nhân gia đình cũng
như luật đất đai xác định phần quyền sở hữu, sử dụng của vợ chồng, thành viên
trong hộ và thông báo kết quả xác định, nhưng việc xác định phần quyền của vợ
chồng và từng thành viên trong hộ là vấn đề khó khăn bởi quy định của luật đất đai
rất đa dạng, khó xác định đối tượng có quyền sử dụng đất trong hộ.
Tài sản là quyền sử dụng đất, theo quy định của pháp luật về đất đai thì
quyền sử dụng đất được cấp cho hộ gia đình, nhưng căn cứ để xác định phần quyền
sử dụng của từng cá nhân trong hộ gia đình chưa có quy định cụ thể theo hộ khẩu
thường trú tại thời điểm khởi kiện hay là theo nhân khẩu tại thời điểm cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hay theo quan hệ huyết thống. Vậy, trong thực tế,
Chấp hành viên khó xác định phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài
sản chung đối với hộ gia đình, vì thiếu căn cứ để xác định phần tài sản của người

phải thi hành án trong khối tài sản chung.
Khi nhà nước giao đất cho hộ sử dụng tại thời điểm giao đất hộ có 4 nhân
khẩu trong hộ, nhưng sau đó thành viên trong hộ chuyển đến nơi khác nhập khẩu,
khơng cịn sử dụng phần đất trước đây mà Nhà nước đã giao quyền cho hộ hoặc
trong hộ đó có một thành viên mới nhập trong hộ khẩu đó và sử dụng đất cùng với
hộ liên tục cho đến thời điểm chấp hành viên kê biên thì có được tính phần quyền
của họ khơng
Ví dụ: Bản án số 12/2017/DSST ngày 12/02/2017 của Tòa án nhân dân
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử vụ buộc vợ chồng ông Nguyễn Bốn và bà
Trần Thị Lượng phải trả cho bà Lê Thị Thủy số tiền nợ gốc là 279.594.333 đồng,
tiền lãi 35.457.970 đồng. Tổng cộng là 315.052.303 đồng. Sau khi bản án có hiệu
lực pháp luật, bà Lê Thị Thủy có đơn yêu cầu thi hành án hợp lệ gửi Chi cục Thi


×