Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

chuyen de 20122013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.5 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>

<span class='text_page_counter'>(2)</span> A. LÝ DO THỰC HIỆN - Nâng cao dân trí – Đào tạo nhân lực – Bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ hàng đầu của ngành Giáo dục – Đào tạo. Phát hiện và bồi dưỡng HS có năng khiếu về các môn học ngay từ cấp học THCS là bước khởi đầu quan trọng để đào tạo các em thành những người đi đầu trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ sau này. Vì vậy trong quá trình giảng dạy bộ môn việc phát hiện, bồi dưỡng HS giỏi là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của mỗi nhà trường và mỗi GV. Số lượng và chất lượng HS giỏi luôn là một trong những thước đo để đánh giá chất lượng dạy học của mỗi GV và mỗi nhà trường - Kiến thức về hoá học ở cấp THCS rất nhiều trong khi đó số giờ học ở trên lớp lại không đủ để GV có thể trình bày hết kiến thức phần này, các em HS cũng cảm thấy lúng túng, đôi khi là không hiểu kịp bài, không làm được bài tập. - Thực tiễn chứng minh cách tốt nhất để có thể hiểu và vận dụng kiến thức đã học là giải bài tập. Nhưng vấn đề đặt ra là bài tập nhiều làm sao giải hết được. Thực tế cho thấy, thường các em HS chỉ làm được những bài tập quen thuộc và lúng túng khi gặp bài tập mới mặc dù không khó, do các em không nhìn ra được dạng toán, chưa biết vận dụng hoặc không lựa chọn được phương pháp giải phù hợp, vì thế thường rơi vào các vướng mắc như: không giải được, quá trình giải rất dài tốn nhiều thời gian, có nhiều biến đổi trong quá trình giải rất dễ nhầm lẫn…hoặc do các em không nắm được các khái niệm, những kiến thức cơ bản của bộ môn. - Nếu hệ thống hóa kiến thức lý thuyết, đưa ra phương pháp giải bài tập, hướng dẫn HS phát hiện những sai lầm thường vấp phải thì HS sẽ dễ dàng tiếp thu, hiểu rõ bài hơn, biết lựa chọn phuơng pháp phù hợp khi giải các bài tập hoá học, từ đó giúp HS yêu thích môn học hơn và GV cũng tự tin hơn trước HS. B. MỤC ĐÍCH CỦA CHUYÊN ĐỀ - Nhằm giúp cho HS phát hiện và giải quyết được những sai lầm khi giải các dạng bài tập hoá học, mặt khác giúp HS nắm vững có hệ thống về lý thuyết và bài tập hóa THCS, đặc biệt là bổ sung thêm kiến thức cho HS giỏi, giúp cho việc phát triển tư duy và rèn luyện trí thông minh từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tiếp thu bài giảng và các kiến thức hóa học, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy ở trường phổ thông. C. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ I. NHỮNG SAI LẦM THƯỜNG GẶP CỦA HS KHI GIẢI BÀI TẬP HOÁ HỌC 1/ Sai lầm về bản chất của quá trình phản ứng Hoá học là một môn khoa học thực nghiệm, nó đòi hỏi sự chính xác và đúng bản chất. Việc hiểu sai bản chất của quá trình phản ứng diễn ra trong một quá trình phản ứng sẽ khiến ta giải sai kết quả bài toán hoá học Trong quá trình giảng dạy môn hoá học của nước ta hiện nay, chưa có sự thống nhất về kiến thức, có những kiến thức ở cấp bậc này thì đúng nhưng khi lên cấp bậc cao hơn lại trở thành sai. Ví dụ: muối FeCl 3 ở lớp 9 thì không làm đổi màu quì tím nhưng khi học xong chương điện li ở hoá học 11 thì nó lại có khả năng làm quì tím hoá đỏ hoặc khi cho hỗn hợp Fe và Fe2O3 vào dung dịch axit HCl. Với HS cấp 2 thì đều cho rằng quá trình phản ứng diễn ra đồng thời. nhưng khi học xong phần dãy điện hoá trong chương trình hoá 12 thì lại không diễn ra đồng thời mà theo một thứ tự. Vì thế việc giúp HS hiểu rõ các bản chất xảy ra trong quá trình phản ứng và chọn lựa các bài tập phù hợp với lượng kiến thức của các em HS là rất quan trọng.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> a) HS thường cho rằng khi đổ dung dịch axit (axit HCl, H 2SO4…) vào dung dịch Na2CO3 thì có khí thoát ra ngay? Bản chất của các phản ứng là sẽ phản ứng từ từ cho đến hết tuỳ thuộc vào lượng chất tham gia. Vì thế khi đổ axit HCl vào dung dịch Na2CO3 thì phản ứng sẽ xảy ra theo 2 bước: Na2CO3 + HCl → NaHCO3 + NaCl (1) NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H2O (2) Hết phản ứng (1) mới xảy ra phản ứng (2) Ví dụ: Hoà tan 13,8g K2CO3 vào nước được dung dịch A. Khuấy đều và thêm từng giọt dung dịch HCl 1M cho tới khi đủ 180ml dung dịch axit thu được V lít (đktc) khí CO2. Tính V? Phân tích: HS có thể mắc các sai lầm sau đây: + Dựa vào số mol K2CO3 để tính số mol CO2 theo tỉ lệ mol 1 : 1 VCO2 = 0,1 . 22,4 = 2,24 lít + Dựa vào số mol HCl để tính số mol CO2 K2CO3 + 2HCl → 2KCl + CO2↑ + H2O 0,18 0,09 ð VCO2 = 0,09 . 22,4 = 2,016 lít Nếu giải đúng phải là: K2CO3 + HCl → KHCO3 + KCl (1) 0,1 0,1 0,1 KHCO3 + HCl →KCl + CO2↑ + H2O (2) 0,08 (dư) 0,08 ð VCO2 = 0,08 . 22,4 = 1,79 2 lít bb) Sai lầm của HS khi làm bài tập dẫn khí CO 2 hay đổ dung dịch muối nhôm vào dung dịch kiềm Ví dụ 1: Cho 11,2g CaO vào một lượng nước lấy dư, thu được dung dịch A. Dẫn V lít (đktc) khí CO2 vào dung dịch A, phản ứng kết thúc thu được 2,5g kết tủa. Tính V? Phân tích: HS có thể mắc các sai lầm: Dựa vào số mol CaO hoặc số mol CaCO3 để tính số mol CO2? Nếu giải đúng phải xét các trường hợp: + Lượng Ca(OH)2 có thể dư: CaO + H2O → Ca(OH)2 0,2 0,2 (mol) Lượng kết tủa tạo ra là: Ca(OH)2 + CO2 → CaCO3↓ + H2O 0,025 2,5/100 = 0,025 (mol) VCO2 = 0,025 . 22,4 = 0,56 lít + Lượng CO2 có thể dư, kết tủa tạo ra có thể tan một phần do tác dụng với CO2 dư: CaO + H2O → Ca(OH)2 0,2 0,2 (mol) Lượng kết tủa tối đa là: Ca(OH)2 + CO2 → CaCO3↓ + H2O 0,2 0,2 0,2 (20g) Để có 2,5g kết tủa như đề bài thì lượng kết tủa phải tan đi là: 20 – 2,5 = 17,5g = 0,175 mol CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2 0,175 0,175 ðVCO2 = (0,2 + 0,175). 22,4 = 8,4 lít.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Ví dụ 2: Cho 100 ml dung dịch AlCl3 1M vào 200 ml dung dịch NaOH. Kết tủa tạo thành đem sấy khô và nung đến khối lượng không đổi thu được 2,55 g chất rắn. Tính nồng độ dung dịch NaOH ban đầu Phân tích: + HS bị lúng túng và có thể mắc các sai lầm: Viết 2 PTPƯ xảy ra: AlCl 3 → Al(OH)3 → Al2O3. Sau đó dựa vào số mol AlCl 3 hoặc số mol Al2O3 để tính số mol NaOH ? + Nếu giải đúng phải xét các trường hợp: Vì Al(OH)3 có thể tan trong dd NaOH dư - NaOH thiếu: AlCl3 + 3NaOH → Al(OH)3↓ + 3NaCl 0,15 0,05 2Al(OH)3 → Al2O3 + 3H2O 0,05 2,55/102 = 0,025 ð CM (NaOH) = 0,75M - NaOH dư: AlCl3 + 3NaOH → Al(OH)3↓ + 3NaCl 0,1 0,3 0,1 Al(OH)3 + NaOH → NaAlO2 + 2H2O (0,1 – 0,05) 0,05 ð CM(NaOH) = 0,35/0,2 = 1,75M c) Sai lầm khi HS cho rằng muối sắt (II) tác dụng với dung dịch AgNO 3 dư thì chỉ xảy ra phản ứng trao đổi FeCl2 + 2AgNO3 → Fe(NO3)2 + 2AgCl↓ Đúng ra thì Fe(NO3)2 bị AgNO3 tác dụng tiếp thành Fe(NO3)3 Fe(NO3)2 + AgNO3 → Fe(NO3)3 + Ag↓ Ví dụ: Hoà tan hoàn toàn 24,4g hỗn hợp gồm FeCl2 và NaCl, có tỉ lệ số mol tương ứng là 1 : 2 vào một lượng nước dư thu được dung dịch X. Cho dung dịch AgNO 3 dư vào dung dịch X, sau khi phản ứng xảy ra hoàn toàn sinh ra m gam chất rắn. Tính m ? Phân tích: Tìm được nFeCl2 = 0,1 và nNaCl = 0,2 + Học sinh cho rằng phản ứng (3) không xảy ra vì đó là 2 muối nitrat : FeCl2 + 2AgNO3 → Fe(NO3)2 + 2AgCl↓ (1) NaCl + AgNO3 → NaNO3 + AgCl↓ (2) ðm = mAgCl = 57,4g (sai) + Giải đúng là phải có thêm phản ứng thứ 3: Fe(NO3)2 + AgNO3 → Fe(NO3)3 + Ag↓ (3) 0,1 0,1 Như vậy chất rắn thu được có thêm 108 . 0,1 = 10,8g Ag ðm = 57,4 + 10,8 = 68,2g (đúng) d) Sai lầm khi HS cho rằng kim loại và muối của cùng kim loại đó không thể tác dụng được với nhau Ví dụ 1: Cho 16g Fe2O3 và 5,6g Fe vào dd HCl 0,5M. Tính thể tích dd HCl tối thiểu cần lấy để hoà tan hoàn toàn lượng các chất rắn trên Phân tích: + Do HS không chú ý tới muối sắt(III) tạo ra sẽ hoà tan được Fe, nên cách giải của HS sẽ là: Fe2O3 + 6HCl → 2FeCl3 + 3H2O 0,1 0,6 Fe + 2HCl → FeCl2 + H2 0,1 0,2 ðVdd(HCl) = 0,8/0,5 = 1,6 lít + Cách suy luận đúng và kết quả bài toán là:.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> HCl hoà tan Fe2O3 tạo ra muối sắt(III), muối sắt(III) sẽ hoà tan Fe Fe2O3 + 6HCl → 2FeCl3 + 3H2O 0,1 0,6 0,2 Fe + 2FeCl3 → 3FeCl2 0,1 0,2 ð Vdd(HCl) = 0,6/0,5 = 1,2 lít Ví dụ 2: Cho 4,8g Mg vào dung dịch chứa 40g Fe2(SO4)3. Giả sử phản ứng xảy ra hoàn toàn. Tính số gam chất rắn thu được Phân tích: Do không nắm được sự khử của Mg đối với muối Fe(III) diễn ra theo từng nấc. Vì vậy mà dẫn đến suy luận nhầm lẫn như sau + HS cho rằng Mg khử muối Fe(III) thành Fe, rồi so sánh ð chất rắn là Fe 3Mg + Fe2(SO4)3 → 3MgSO4 + 2Fe 0,2 0,4/3 ð mFe = 0,4/3.56 = 7,46g + Hoặc HS cho rằng Mg khử muối Fe(III) tạo Fe và Fe tạo ra khử muối Fe(III) thành muối Fe(II) 3Mg + Fe2(SO4)3 → 3MgSO4 + 2Fe 0,2 0,2/3 0,2 0,4/3 Fe + Fe2(SO4)3 → 3FeSO4 0,1/3 0,1/3 ð mFe = (0,4/3 – 0,1/3)56 = 5,6g + Cách suy luận đúng và kết quả của bài toán là: Mg + Fe2(SO4)3 → MgSO4 + 2FeSO4 (1) 0,1 0,1 0,2 Mg dư + FeSO4 → MgSO4 + Fe (2) 0,1 0,1 ð mFe = 0,1.56 = 5,6g e) Sai lầm trong các bài toán liên quan đến phản ứng của nước với các kim loại hoạt động mạnh HS thường không chú ý tới môi trường kiềm được tạo ra bởi các kim loại phản ứng với nước sẽ tham gia vào quá trình hoà tan chất đó Ví dụ: Hoà tan hết 7,3 gam hỗn hợp Na, Al trong nước chỉ thu được dung dịch chất tan và 0,25 mol H2. Tính khối lượng Na trong hỗn hợp Phân tích: + Do không chú ý tới dung dịch tạo thành khi hoà tan Na trong nước phản ứng với Al mà HS thực hiện cách giải sau: 2Na + 2H2O → 2 NaOH + H2 ↑ 0,5 0,25 ð mNa = 0,5.23 = 11,5g Al + H2O → không phản ứng + Hoặc HS vẫn biết dd tạo thành sẽ hoà tan Al nhưng không chú ý tới sản phẩm là dd chất tan nên cho rằng Al vẫn chưa tan hết 2Na + 2H2O → 2 NaOH + H2 ↑ a a 0,5a 2Al + 2NaOH + 2H2O → 2NaAlO2 + 3H2 a a 1,5a 0,5a + 1,5a = 0,25 ð a = 0,125 ð mNa = 2,875g.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> + Hoặc HS cho rằng hỗn hợp kim loại tan hết trong nước do Na và Al đều tác dụng với H2O 2Na + 2H2O → 2NaOH + H2 a 0,5a 2Al + 6H2O → 2Al(OH)3 + 3H2 b 1,5b ð 23a + 27b = 7,3 ð a = 0,2 0,5a + 1,5b = 0,25 b = 0,1 ðmNa = 0,2. 23 = 4,6g Giải đúng và kết quả của bài là: 2Na + 2H2O → 2NaOH + H2 a a 0,5a 2Al + 2NaOH + 2H2O → 2NaAlO2 + 3H2 b b 1,5b ð 23a + 27b = 7,3 ð a = 0,2 0,5a + 1,5b = 0,25 b = 0,1 ð mNa = 0,2. 23 = 4,6g 2/ HS chưa nắm vững các phương pháp giải bài tập hoá học và lựa chọn phương pháp giải không phù hợp Khi giải bài tập nếu không lựa chọn được phương pháp giải phù hợp thì thường rơi vào các vướng mắc như: không giải được, quá trình giải rất dài có nhiều quá trình biến đổi trong quá trình giải rất dễ nhầm lẫn…Sau đây là một số bài tập mà HS có thể gặp vướng mắc khi không lựa chọn được phương pháp giải phù hợp Ví dụ1: Hoà tan vừa đủ 13g kim loại kẽm trong 100ml dung dịch HCl. Khí sinh ra dẫn qua ống sứ chứa CuO nung nóng. Sau phản ứng lấy toàn bộ chất rắn trong ống sứ ra cân được 16,8g. a) Tính nồng độ mol dung dịch HCl b) Tính khối lượng CuO có trong ống sứ trước phản ứng Phân tích: Đối với bài toán này nhiều học sinh sẽ giải như sau: PTHH: Zn + 2HCl → ZnCl2 + H2↑ (1) H2 + CuO → Cu + H2O (2) Theo (1) nHCl = 2.nZn = 2 . 13/65 = 0,4 mol CM(HCl) = 0,4/0,1 = 4M Theo (2) nCuO = nCu = 16,8/64 = 0,2625 mol → mCuO = 0,2625 . 80 = 21g Nhận xét: Câu (a) HS đã làm đúng, còn câu (b) các em đã làm sai do đã quên mất một dữ kiện, đó là lượng H2 đã được biết. Cách giải đúng câu (b) như sau: Theo (1): nH2 = nZn = 0,2 mol Theo (2): lượng Cu tối đa tạo ra là: nCu = nH 2 = 0,2 mol. Khối lượng Cu tối đa được tạo ra là: mCu = 0,2 . 64 = 12,8g < 16,8g Kết luận: Chất rắn sau phản ứng ngoài Cu tao ra còn có cả CuO dư, nghĩa là H 2 phản ứng hết. Do đó mCu = 12,8g ð mCuO dư = 16,8 – 12,8 = 4g Mặt khác theo (2): nCuO đã phản ứng = nCu = 0,2 mol → mCuO đã phản ứng = 0,2 . 80 = 16g ð tổng khối lượng CuO ban đầu trong ống sứ là: 16 + 4 = 20g ¬ Nhận xét: Đối với một số bài tập nếu HS không lựa chọn được phương pháp giải cho phù hợp thì việc giải bài tập rất mất nhiều thời gian, thậm chí có những bài không làm được..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Ngược lại nếu HS biết phân tích đề bài, nhận biết được bản chất của các qua trình hoá học, lựa chọn phương pháp giải phù hợp thì sẽ rút ngắn được thời gian làm bài, ít gây nhầm lẫn. Đây là điều chú ý quan trọng khi HS giải bài tập trắc nghiệm khách quan định lượng II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CÁC SAI LẦM CỦA HS KHI GIẢI BÀI TẬP HOÁ HỌC Trong thực tiễn dạy học, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các sai lầm của HS khi giải bài tập hoá học. Có các nguyên nhân cơ bản sau: 1. Nguyên nhân từ phía HS: - Chưa chú ý phân tích đề bài, hời hợt, thiếu thận trọng lúc làm bài - Chưa nắm vững kiến thức hoá học, các kiến thức còn rời rạc chưa được hệ thống và khái quát hoá - Chưa lựa chọn được phương pháp giải phù hợp, chủ yếu còn dùng phương pháp đại số và chưa hiểu sâu bản chất của các quá trình, các tương tác xảy ra trong dung dịch - Vận dụng kiến thức một cách máy móc, chưa chú ý đến các trường hợp ngoại lệ 2. Nguyên nhân từ phía giáo viên: - Trong quá trình dạy học, GV còn bỏ qua tính thiếu cẩn thận của HS. Chấp nhận việc tìm ra kết quả đúng mà ít quan tâm đến con đường tìm ra nó, từ đó không rèn được khả năng tư duy logic cho HS - Không nắm bắt được các sai lầm mà HS thường mắc phải hoặc có nắm bắt được nhưng chưa có biện pháp giúp HS khắc phục sai lầm đó - Đánh giá học lực của HS một cách thiếu khách quan, từ đó làm cho ý thức học tập tích cực, ý thức tự học ở trường cũng như ở nhà bị giảm sút D. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG SAI LẦM CỦA HS 1. Các dấu hiệu để giúp HS tự phát hiện sai lầm - Để hạn chế được các sai lầm và vướng mắc mà HS thường mắc phải khi giải bài tập hoá học thì trước hết GV cần cho HS làm quen cách nhận biết (phân tích lời giải) của mình, đúng hay sai thông qua các dấu hiệu cơ bản sau: ● Dấu hiệu 1: Kết quả lời giải của các HS khác nhau Nếu 2 lời giải của một bài toán là khác nhau thì ít nhất phải có một lời giải sai. Lúc đó các HS phải kiểm tra lại cách giải của mình (các phép biến đổi, các PTHH, phương pháp giải…), đồng thời dùng suy luận logic để phân tích lời giải nào sai. ● Dấu hiệu 2: Kết quả lời giải không có ý nghĩa thực tiễn, không đúng với các quy luật hoá học. Ví dụ: Tính ra hiệu suất phản ứng h > 100%. Tính ra pH > 14. Hoá trị các nguyên tố, khối lương mol nguyên tử không phù hợp. Tính ra C%, CM, n, m, V, d có giá trị âm…. 2. Biện pháp phát hiện sai lầm của học sinh - Tăng cường kiểm tra bằng hình thức vấn đáp, trắc nghiệm hoặc tự luận về các nội dung kiến thức hoá học có liên quan đến dạng bài tập - Cho HS giải nhiều bài tập, nhiều dạng bài tập nhất là các bài tập có chứa các “bẫy” sai lầm. Luôn phân tích bài làm của HS từ đó thống kê các lỗi thường gặp và có kế hoạch khắc phục. - Việc khắc phục những sai lầm của HS trong giải bài tập hoá học là công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi GV phải có tâm huyết và có kế hoạch cụ thể. GV phải hệ thống phân loại các dạng bài tập, phân tích hiểu được ý nghĩa và dự kiến những sai lầm có thể có của HS trong tư duy, suy luận khi giải quyết vấn đề, thống kê các sai lầm và phân tích nguyên nhân dẫn đến các sai lầm của HS. Từ sự hệ thống và phân tích này mà đề ra những biện pháp thích hợp.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Ba biện pháp khắc phục sai lầm và vướng mắc cho HS khi giải bài tập hoá học: C Rèn luyện kĩ năng phân tích đề bài, lựa chọn phương pháp giải phù hợp C Bổ sung, làm chính xác hoá các kiến thức lí thuyết thông qua các bài tập định tính tương ứng C Vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, đồng thời tăng cường kiểm tra – đánh giá - Trong những tiết lí thuyết GV cần đưa ra những nhiều câu hỏi, bài tập nhận thức ở mức độ vận dụng, đưa các em vào tình huống có vấn đề. Thông qua cách giải quyết vấn đề HS thường bộc lộ những sai lầm. GV có kế hoạch sửa chữa chỉnh lí E. KẾT LUẬN Q Giải các bài tập hoá học là biện pháp rất quan trọng, để củng cố và nắm vững khái niệm, tính chất hoá học các chất. Căn cứ vào thực trạng học tập và khả năng giải các bài tập hoá học của HS bậc THCS cũng như trong công tác bồi dưỡng HS giỏi hiện nay. Tôi thiết nghĩ với mỗi loại bài tập hoá học, dưới sự hướng dẫn của GV bộ môn cùng với khả năng tiếp thu kiến thức của HS. Người GV bộ môn hoá học cần nổ lực nghiên cứu, tham khảo tìm ra biện pháp tối ưu nhất để giảng dạy, hướng dẫn HS học tập tích cực, chủ động sáng tạo, rèn luyện cho HS tính chính xác khoa học nâng cao lòng yêu thích bộ môn. Không ngừng tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn, kiên trì vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của HS.

<span class='text_page_counter'>(9)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×