Tải bản đầy đủ (.docx) (1 trang)

Van 7 Loi song gian di cua Bac Ho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.65 KB, 1 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Trong ăn mặc, sinh hoạt thường ngày, Bác Hồ giản dị thế nào ta hằng biết và truyền tụng. Ăn thì vẫn cà pháo, tép đồng
kho, rau muống luộc; hạt cơm vơ ý rơi vãi thì nhặt bỏ vào mâm... Mặc thì, đại lễ có bộ ka-ki, ngày thường bộ bà ba mầu
nâu lụa Hà Ðơng, đi guốc gỗ hay dép cao-su. Tiện nghi thì rất ít, đơn sơ: giường gỗ, màn cá nhân, chiếc quạt nan, ở
trong ngôi nhà gỗ cất khiêm nhường tại một góc vườn. Trên bàn làm việc, Bác khơng bày biện nhiều đồ, chỉ là tiện nghi
tối thiểu để đọc, viết. Kể sao hết những chuyện như thế trong đời sống phong phú nhưng rất giản dị của Bác. Mỗi lần
được nghe, được thấy những chuyện, những cảnh ấy, lòng chúng ta xiết bao cảm động, bởi rất tự nhiên, ta so sánh, tự
vấn với cuộc sống trong xã hội, trong đó có bản thân ta.


Khi Bác nói về đường lối, chính sách, chủ trương với quần chúng cũng hết sức giản dị, dễ hiểu. Ðầu những năm 40 của
thế kỷ 20, nước ta mới gây dựng phong trào cách mạng, một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ kiểu mới chưa có tiền lệ ở
Ðơng - Nam Á, nên bao khó khăn, phải có cách đi từ đầu, Bác nói ra đường lối, chủ trương cách mạng đó trong bài
"Nhóm lửa" (01-8-1942) đoạn đầu như sau:


Lúc leo lét bắt đầu nhóm lửa,
Biết bao nhiêu là sự khó khăn?
Chỉ đìu hiu một mảy gió xuân,
Cũng lo sợ lửa khi tắt mất.
Nghi ngút khói, mặc dầu thổi quạt,
Che một bên lại tạt một bên;
Khi lửa đà chắc chắn bén lên,
Thì mưa gió, chi chi cũng cháy.
Mưa lún phún, lửa càng nóng nảy.
Gió càng cao, ngọn lửa càng cao.
Núi rừng đều bén, cháy ào ào,
Lửa nung đỏ cả giời sáng tóe.


Năm 1954, khi hịa bình được lập lại trên miền Bắc, có lần nói chuyện với bà con cơng giáo ở Phát Diệm, Bác nói: "Từ
nay, với sự cố gắng của đồng bào, sản xuất sẽ ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên
vui". Những lời nói của người thể hiện quan điểm tư tưởng rất vững chắc, lập trường chính trị rất rõ ràng, song vẫn dễ đi
vào lòng người, thúc đẩy mọi người hành động. Bác nói được với mọi người, hơn thế, nói được với mỗi người, bởi đó là
tiếng nói chân thực, giản dị; giản dị vì trước hết là tiếng của một tấm lòng. Một lần đến thăm Indonesia, thời Tổng thống


Sukarno, Chính phủ bạn dành phịng đại lễ để Bác gặp kiều bào ta. Nhưng thật bất ngờ, phịng trở nên chật vì già, trẻ,
gái, trai. Việt kiều đến quá đông. Không chút do dự, Bác bước ra bãi cỏ rộng phía trước, rút dép cao-su, ngồi bệt xuống,
kiều bào ta quây quần quanh Bác. Một nhà thơ Indonesia chứng kiến cảnh đó đã viết bài thơ có tựa đề (dịch) "Vẻ đẹp bên
trong của viên ngọc", trong đó có những câu:


Người khơng thích ngồi ghế danh dự, suy tơn
Ngồi vào đó, với Người, khơng có nghĩa.


Về lĩnh vực văn nghệ, Bác rất giản dị ở sự nhìn nhận, đánh giá bản thân. "Ngâm thơ ta vốn khơng ham", ấy là lời Bác nói
rõ rằng mình khơng lấy sáng tác văn chương làm lẽ sống, mặc dầu chúng ta biết Bác rất yêu quý nghệ thuật, quý trọng
người làm nghệ thuật. Người là nhà thơ, nhà văn lớn. Bác chưa một lần nhận mình là nhà thơ, nhà văn. Có thể do Bác
khiêm tốn, tự thấy mình chỉ là "người học trị nhỏ của nhà văn vĩ đại Tolstoi" (lời Bác), chưa xứng đáng danh hiệu cao quý
nhà văn, nhà thơ. "Ngục trung nhật ký" gồm những bài thơ chữ Hán sáng tác trong nhà tù Tưởng Giới Thạch từ tháng
8-1942 - 9-1943, Bác viết cho Bác đọc. Ông Vũ Kỳ kể: Ðọc bản dịch thơ Bác cho Bác nghe, Bác khơng nói gì chỉ tủm tỉm
cười. Ðánh bạo hỏi Bác, Bác nói: "Các chú quý thơ, yêu thơ Bác nên dịch thơ Bác. Nhưng dịch thế nào được thơ Bác.
Chính Bác cũng khơng dịch được thơ Bác, giây phút đó qua rồi. Thơi thì các chú cùng Bác sáng tác vậy". Có cái hóm hỉnh,
đùa vui nhưng ngẫm kỹ thì vẫn là thái độ, cách nhìn nhận mình và người rất giản dị.


Viết thơ, văn, Bác không câu nệ về đề tài, những gì có trong cuộc đời, đến như mất cái gậy, rụng chiếc răng... Người đều
đưa vào thơ. Bởi cũng như C.Mác và các bậc hiền triết xưa nay, khơng có gì liên quan đến con người mà xa lạ với Bác.
Bác cũng rất giản dị về việc lựa chọn thể loại, không nhất thiết là truyện, ký, kịch hay thơ...; thơ thì thơ luật hay thơ tự
do, làm thơ luật nhưng đâu có bị khn vào niêm luật, dùng cả văn ngơn lẫn bạch thoại, thơ tứ tuyệt mà vẫn viết quá
bốn câu... (tập “Nhật ký trong tù”). Trong truyện, kết hợp nhiều yếu tố, đưa vào cả huyền thoại, viễn tưởng chính trị
(“Lời than vãn của bà Trưng Trắc”, “Con người biết mùi hun khói”...). Có thể nói, Bác viết văn, làm thơ một cách giản dị,
làm chủ nghệ thuật như đã làm chủ thời gian, sinh hoạt, tiện nghi, tình thế, lịch sử... Người phá bỏ các quy phạm nghệ
thuật gị bó mà chỉ giữ lại quy luật chung nhất của nghệ thuật mà thôi. Giọng điệu văn thơ cũng giản dị, chẳng thấy Bác
cao đạo, đại ngơn, khẩu khí "vĩ nhân" bao giờ.


Có những bài thơ của Bác ngay cả người giàu trí tuệ, am hiểu văn hóa, văn học, vẫn chưa hiểu hết. Ðể dịch "Ngục trung
nhật ký" của Bác, Viện Văn học đã tập trung những nhà Hán học uyên thâm, những nhà thơ xuất sắc do ông Nam Trân


đứng đầu, thế mà dù đã cố gắng, nhưng khơng ít bài dịch vẫn lạc giọng nguyên tác. Không phải là nhà nghiên cứu phê
bình, dịch thuật thiếu tài năng, càng khơng phải thiếu tình với thơ Bác, mà chỉ do thơ Bác giản dị quá, tự nhiên đến mức
khơng ngờ; thơ là, "văn tức là người" là thế.


Cịn có thể chỉ ra sự giản dị trong thơ, văn Bác ở lời, ở chữ, ở câu và nhiều chỗ khác nữa như sự giản dị có ở mn nơi
trong đời sống phong phú của Bác. Nhưng nói đến cùng giản dị, đơn giản trong cuộc sống, trong văn nghệ ... ở Bác là do
cội nguồn: giản dị của cách cảm, cách nghĩ.


Nghệ sĩ Ưu tú Kim Liên, người vinh dự được nhiều lần gặp Bác, kể lại trong bữa cơm Bác mời ngày 17-7-1969, thấy Bác
ăn ít quá, chị cố nài, Bác nói: "Khi Bác ăn được thì khơng có cái để mà ăn. Khi có cái ăn thì ăn khơng được". Có lẽ khơng
cần nói gì thêm về sự trung thực, giản dị của ý nghĩ, lời nói của Bác. Một đoạn khác, khi theo Bác lên nhà sàn - chị kể:
"Tôi không ngờ Bác Hồ, vị Chủ tịch nước kính yêu và vĩ đại của dân tộc, lại ở trong một gian phòng nhỏ, tiện nghi quá
giản đơn, của cải chẳng có gì! Như hiểu được ý nghĩ của tơi, Bác nói giọng trầm buồn:


- Bác chẳng có gì cho cháu cả! Bác chỉ có cái thước mà lúc cịn trẻ bơn ba qua các nước, Bác có nhặt được mảnh gỗ, tự
tay đẽo thành một cái thước kẻ để dùng, nay Bác cho cháu để làm kỷ niệm.


Tôi cầm cái thước mà rơm rớm nước mắt vì khơng ngờ Bác lại sống giản dị đến thế. Tôi phát hiện trên cái thước có ghi ba
chữ cái: S - N - K (Suy nghĩ kỹ). Ðến uyên thâm và vĩ đại như Bác mà khi viết và nói gì cũng phải: "Suy nghĩ kỹ" (bài
“Ðóa sen hồng”, báo Văn nghệ số 16, 17 ra ngày 28-4-1990).


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×