Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh cho sinh viên trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.4 KB, 105 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giáo dục đạo đức là một trong những vấn đề nổi bật trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trị của đạo đức và ln
quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong sự nghiệp trồng người. Công cuộc đổi
mới ở nước ta hiện nay đang cần những thế hệ công dân tốt và đội ngũ CB có đủ
cả đức lẫn tài. Cho nên, việc tăng cường công tác giáo dục đạo đức là một trong
những yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, là đòi hỏi cấp thiết của sự
nghiệp phát triển con người trong giai đoạn mới ở nước ta.
1.2. Bác Hồ kính u của chúng ta đã từng nói: “Có tài mà khơng có đức
thì là người vơ dụng. Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”[27,
tr106]. Đạo đức ngày nay càng được coi trọng hơn, nhất là trong thời kì nước ta
đã chuyển đổi từ chế độ bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Mọi lứa tuổi từ già
tới trẻ đều bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế này. Khi Việt Nam mở cửa giao lưu
bn bán với bạn bè bốn phương thì cũng mở ra cho văn hóa Việt Nam rất nhiều
vấn đề. Bên cạnh mặt tích cực mà cơng cuộc giao lưu với nước ngoài mang lại
cho chúng ta như giúp kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ, tạo cho chúng ta
những con người năng động thì nó cũng làm cho thuần phong mỹ tục, những
truyền thống tốt đẹp mà chúng ta đã xây đắp và giữ gìn hàng nghìn năm có xu
hướng dần mai một. Những thói hư tật xấu ảnh hưởng đến tất cả mọi người và
sẽ tác động đến nền tảng của đất nước. Không ai khác mà chính thế hệ trẻ,
những SV - trụ cột của đất nước trong tương lai sẽ là những con người giữ vững
và xây dựng nền móng ấy thêm vững chắc.
1.3. Thanh Hóa là tỉnh có bề dày truyền thống cách mạng và cũng là cái
nôi sản sinh ra biết bao anh hùng dân tộc, nhân tài cho đất nước nên việc đào
tạo thế hệ trẻ hôm nay càng được lãnh đạo và nhân dân tỉnh nhà quan tâm đặc
biệt. Tuổi trẻ Thanh Hóa đã và đang đi đầu trong rất nhiều phong trào để xây

1



dựng tỉnh nhà giàu mạnh hơn cũng như góp phần vào quá trình phát triển của đất
nước. Với truyền thống anh hùng và vẻ vang đó, ngày nay, trong vận hội mới
của dân tộc và của tỉnh, vai trò của thanh niên, SV càng được coi trọng đồng
thời với nhiệm vụ của họ cũng càng nặng nề hơn. Do đó, vấn đề giáo dục đạo
đức, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho HS, SV của
tỉnh trở thành một trong những nhiệm vụ được quan tâm hàng đầu.
1.4. Hiện nay, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thanh Hóa đang
được quan tâm, đầu tư để xây dựng thành trường trọng điểm của nền giáo dục
tỉnh Thanh Hóa. Chính vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, vấn đề đạo đức, giáo dục
đạo đức cho SV của nhà trường cần phải được quan tâm, chú trọng nhiều hơn
nữa. Do vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Trường Cao
đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thanh Hóa” làm luận văn tốt nghiệp Cao học.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh cho SV Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thanh
Hóa.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh cho SV Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thanh Hóa.
3.2 Khách thể nghiên cứu
Công tác giáo dục đạo đức cho SV của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ
thuật Thanh Hóa thơng qua việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài

2



Nghiên cứu một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật
Thanh Hóa bằng cách học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về đạo đức, giáo dục đạo đức và tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với giáo dục đạo đức cho SV.
- Khảo sát thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV Trường Cao đẳng
Văn hóa Nghệ thuật Thanh Hóa.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp logic – lịch sử
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát,
phương pháp điều tra, khảo sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp tọa
đàm…
- Phương pháp thng kờ toỏn hc: Sử dụng phơng pháp này để xử lý các số
liệu thu đợc.
7. úng gúp ca tài
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về đạo đức và tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp.
- Đề tài đề xuất một số giải pháp cần thiết và có tính khả thi nhằm nâng
cao hiệu quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV
Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thanh Hóa
8. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:

3



Chương 1: Lý luận chung về đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ
thuật Thanh Hóa
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật
Thanh Hóa

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC
VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1. Lý luận chung về đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Xét về mặt từ nguyên, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos
(moris) - lề thói. Điều đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến
những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người
trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, những nguyên tắc
quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Đạo đức
là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn đạo đức của
một giai cấp nhất định” [35].
Theo Giáo trình “Đạo đức học”: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội” [16, tr816].

Theo quan điểm của học thuyết Mac - Lênin: “Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại
xã hội. Vì vậy tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội (đạo đức) cũng thay đổi
theo. Như vậy đạo đức xã hội ln mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân
tộc” (Dẫn theo Nguyễn Kim Bôi).
GS - TS Phạm Minh Hạc quan niệm đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lí,
những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng
bên trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và

5


đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với
con người, với công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và với môi
trường sống. Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm
trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách,
phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hóa. Đạo đức được
biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh trong sáng, ở hành động giải quyết
hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn.
Như trên đã trình bày, có nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức. Tuy
nhiên ta có thể hiểu khái niệm này dưới 2 góc độ:
- Góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt phản ánh
dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh (hoặc chi phối)
hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa
con người với xã hội, giữa con người vời nhau và với chính bản thân mình.
- Góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những phẩm chất, nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí hành vi, thói quen và cách ứng xử của
họ trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân
họ với người khác và với chính bản thân mình.

Đạo đức quy định các chuẩn mực hành vi mà con người cảm nhận rõ mình
có nghĩa vụ phải tự giác tn theo dù có hay không trong quy định của pháp
luật.
1.1.2. Nguồn gốc của đạo đức
1.1.2.1 Các quan niệm trước Mác về nguồn gốc của đạo đức
Trước Mác, Ăngghen, những nhà triết học (kể cả duy tâm lẫn duy vật) đều
rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không
thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói
chung và đạo đức nói riêng. Do vậy, đạo đức với tính cách là một lĩnh vực hoạt
động đặc thù của con người, của xã hội được nhìn nhận một cách tách rời cơ sở

6


kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các nhà triết học, đạo đức trước Mác đã
tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở ngay chính bản tính của con người,
hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên ngoài xã hội. Nét chung
của các lý thuyết này là không coi đạo đức phản ánh cơ sở xã hội, hiện thực
khách quan.
Các nhà triết học, thần học coi con người và xã hội chẳng qua chỉ là
những hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó.
Những chuẩn mực đạo đức, do vậy là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra để
răn dạy con người. Mọi biểu hiện đạo đức của con người đều là sự thể hiện cái
thiện tối cao từ đấng siêu nhiên và tiêu chuẩn tối cao để thẩm định thiện - ác
chính là sự phán xét của đấng siêu nhiên đó.
Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy
không mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ tới “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối”
và về cách lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự
như vậy. Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng
lực "tiên nghiệm" của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là "thiện ý" theo cách

gọi của Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm
và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con người.
Những nhà duy vật trước Mác, mà tiêu biểu là L.Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy
đạo đức trong quan hệ người với người. Nhưng với ông, con người chỉ là một
thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên
giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan điểm của Đác Uyn xã hội đã tầm thường hóa chủ
nghĩa duy vật bằng cách cho rằng những phẩm chất đạo đức của con người là
đồng nhất với những bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức về
thực chất cũng chỉ là những năng lực được đem lại từ bên ngoài con người.
1.1.2.2 Quan niệm Mácxit về nguồn gốc của đạo đức

7


Quan niệm khoa học về nguồn gốc của đạo đức là quan niệm của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Khác với tất cả những quan niệm trên, Mác và Ăngghen đã
quan niệm đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự
phát triển lịch sử.
Theo Mác, Ăngghen, sự tác động lẫn nhau giữa người với người là hệ quả
của hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực tiễn
và hoạt động nhận thức.
Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển
của xã hội loài người, Mác, Ăngghen cho rằng “lao động là điều kiện cơ bản đầu
tiên của toàn bộ đời sống loài người”, “người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại trước khi
làm chính trị, khoa học và nghệ thuật...”[9, tr306]. Xuất phát từ con người thực
tiễn, chứ không phải con người thuần túy ý thức hay con người sinh học, hai ông
đi đến quan niệm về phương thức sản xuất quyết định đối với toàn bộ hoạt động
của con người, xã hội loài người. Như vậy, đạo đức không là biểu hiện của một
sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người. Với tư

cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. “Xét cho cùng, mọi học thuyết về
đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội
lúc bấy giờ” [9, tr307].
Xã hội Cộng sản nguyên thủy là bước đầu tiên con người thoát khỏi trạng
thái động vật. Hoạt động thực tiễn của xã hội hết sức thấp kém, chưa tạo nên sản
phẩm thặng dư và do đó, tư hữu và chế độ tư hữu chưa có tiền đề khách quan để
xuất hiện. Trong xã hội chưa có hiện tượng áp bức xã hội nhưng con người vẫn
bị nô dịch bởi những lực lượng tự phát của tự nhiên. Tuy nhiên, xã hội nguyên
thủy đã đem lại nội dung “ngây thơ”, “thuần phác” nhưng “tốt đẹp mơ mộng”
cho đạo đức người nguyên thủy. Đạo đức này chưa biết nói đến thói xấu, cái ác

8


trong xã hội văn minh. Đây là “ý thức bầy đàn đơn thuần” của “bản năng được ý
thức”. Ý thức đạo đức chưa tách ra thành hình thái độc lập.
Những hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp tạo nên những cơ
sở kinh tế, xã hội và tinh thần cho sự phát triển ý thức đạo đức. Những hệ thống
đạo đức của các giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy “những quan
niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai
cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao
đổi”. Những hệ thống đạo đức đó phản ánh và điều chỉnh những quan hệ xã hội
đa dạng, phong phú và phức tạp, trong đó ý thức nói chung và đạo đức nói riêng
của người nguyên thủy chỉ phản ánh hoàn cảnh gần nhất có thể cảm giác được.
Đạo đức đã tự khẳng định mình là một hình thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản
xuất tinh thần của xã hội. Đây là một bước tiến, làm đạo đức phát triển so với xã
hội nguyên thủy. Tuy nhiên, bước phát triển này cũng làm nảy sinh những cái ác,
tham lam, ích kỷ, lừa dối...mà loài người phải đấu tranh hàng ngàn năm nay để
chống lại nó.

Nội dung của đạo đức được thể hiện dưới những hình thức cụ thể. Tuy
nhiên, trong xã hội có giai cấp, nội dung và hình thức của đạo đức phát triển
nhưng chưa thật nhân đạo, chưa hoàn thiện. Sự hoàn thiện của nội dung đạo đức
(thật sự nhân đạo) chỉ có thể đạt được khi con người chiến thắng được tình trạng
đối kháng giai cấp và tạo ra những điều kiện có thể “quên được tình trạng đối
kháng giai cấp”. Điều kiện đó chỉ có thể bắt đầu có được bằng đạo đức cộng sản
trong xã hội cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự hoàn thiện
đạo đức được bắt đầu từ đạo đức của giai cấp công nhân “có nhiều nhân tố hứa
hẹn” để dẫn tới một kiểu đạo đức “thật sự có tính nhân đạo”. Như vậy, xã hội
cộng sản nguyên thủy với trình độ bắt đầu làm nảy sinh đạo đức do hoạt động
thực tiễn và nhận thức đã phát triển đạo đức. Xã hội cộng sản chủ nghĩa trong

9


tương lại mà hiện thực hôm nay đang bắt đầu xây dựng sẽ hoàn thiện đạo đức cả
về nội dung lẫn hình thức.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra
trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất,
trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát
triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan
hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát
triển, ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.
1.1.3. Bản chất của đạo đức
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định về nguồn gốc của đạo đức không
phải là từ sự “tiên nghiệm” càng không phải là lực lượng từ bên ngoài ấn vào xã
hội. Đạo đức là lĩnh vực của quan hệ thật sự con người. Trong khi phát triển với
tích cách là thực thể xã hội, con người chịu trách nhiệm với sự lựa chọn, với hậu
quả của những sự lựa chọn đối với hành vi ứng xử người - người.
Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức mang bản chất xã hội.

Bản chất xã hội của đạo đức được hiểu theo nghĩa:
- Nội dung của đạo đức là do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội quyết định.
- Nhận thức xã hội đem lại các hình thức cụ thể của phản ánh đạo đức,
làm cho đạo đức tồn tại như một lĩnh vực độc lập về sản xuất tinh thần của xã hội.
- Sự hình thành, phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được
quy định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội
của con người. Nói cách khác, nội dung khách quan của quan niệm, quan điểm,
các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện của trạng thái, một
trình độ phát triển nhất định của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội,
của cơ sở kinh tế.
Việc khẳng định tính quy định của cơ sở kinh tế đối với đạo đức cho phép
nhìn nhận sự biến đổi của đạo đức theo sự biến đổi của cơ sở kinh tế. Phân tích

10


mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng mà trong đó đạo đức là
một yếu tố của nó.
Tiếp tục và cụ thể hóa tư tưởng của Mác về tính quy định của cơ sở kinh
tế đối với ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng, Ăngghen đã luận chứng
cho bản chất xã hội của đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và
tính giai cấp của đạo đức. Phê phán quan điểm của Đuyrinh về những chân lý
đạo đức vĩnh cửu, Ăngghen đã khẳng định rằng, thực chất và xét đến cùng, các
nguyên tắc, các chuẩn mực, các quan điểm đạo đức chẳng qua là sản phẩm của
các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế mà thôi. Lấy ví dụ về nguyên tắc không
được ăn cắp, Ăngghen cho rằng đó không phải là một nguyên tắc, một chân lý
vĩnh cửu gắn liền với bản chất trừu tượng của con người. Nguyên tắc này có cơ
sở kinh tế của nó và nó sẽ mất ý nghĩa khi cơ sở kinh tế của nó khơng còn nữa.
Ơng viết “từ khi sở hữu tư nhân về động sản phát triển thì tất cả các xã hội có
chế độ sở hữu tư nhân ấy, tất phải có một lời răn chung về đạo đức: không được

trộm cắp” [10, tr32].
Tính quy định của thời đại đối với đạo đức cho ta quan niệm khoa học về
loại hình đạo đức. Mặc dù đạo đức có quy luật vận động nội tại, có sự kế thừa,
có sự lệch pha nào đó đối với cơ sở sản sinh ra nó nhưng về căn bản, tương ứng
với một chế độ kinh tế, mỗi phương thức sản xuất và do đó mỗi hình thái kinh tế
- xã hội là một hình thái đạo đức nhất định. Đạo đức nguyên thủy, đạo đức
chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản và sau đó, đạo đức cộng
sản chủ nghĩa là những thời đại tiến triển dần dần của đạo đức nhân loại.
Cùng với tính thời đại, tính dân tộc là một trong những biểu hiện bản chất
xã hội của đạo đức. Có thể nhìn nhận tính dân tộc như là sự biểu hiện đặc thù
tính thời đại của đạo đức trong các dân tộc khác nhau. Không phải các học
thuyết đạo đức trước Mác không thấy sự khác biệt trong đời sống đạo đức của

11


các dân tộc, có điều, việc giải thích sự khác biệt ấy hoặc là dựa trên cơ cở tôn
giáo hoặc là dựa trên các quan niệm duy tâm triết học khơng đúng đắn…
Coi đạo đức như là một hình thái ý thức xã hội, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác đã đặt cơ sở khoa học cho việc luận chứng tính dân tộc của đạo đức.
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức vừa bị quy định bởi tồn tại xã
hội, vừa chịu ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác (chính trị, triết học,
nghệ thuật, tôn giáo). Tổng thể những nhân tố ấy trong mỗi dân tộc là sự khác
biệt nhau, làm thành cái mà ngày nay chúng ta gọi là bản sắc dân tộc. Bản sắc ấy
được phản ảnh vào đạo đức nên tính độc đáo của các quan niệm, các chuẩn mực,
cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên tính độc đáo trong đời sống đạo đức của
mỗi dân tộc. Nhìn nhận tính độc đáo và sự khác biệt ấy về mặt dân tộc trong các
cặp khái niệm cơ bản của đạo đức, Ăngghen chỉ ra sự biến đổi của chúng qua
các thời đại và dân tộc. Ông viết: “Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại
này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến

mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”[10, tr43].
Khơng thể thổi phồng tính nhân loại chung của đạo đức để đi đến những
quan niệm sai lệch về đạo đức trừu tượng, về đạo đức phổ biến phi lịch sử,
chẳng có tác dụng gì trong thực tiễn. Nhưng cũng khơng được phủ nhận tính
nhân loại của đạo đức. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức thấp là
biểu hiện của những quy tắc đơn giản, thông thường nhưng lại cần thiết để bảo
đảm trật tự bình thường cho cuộc sống hàng ngày của con người. Biểu hiện cao
hơn trong tính nhân loại của đạo đức lại ở những giá trị đạo đức tiến bộ nhất
trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, những giá trị đạo đức này thường
thường là những giá trị đạt được ở giai cấp tiến bộ nhất trong từng giai đoạn
phát triển của lịch sử nhân loại. Đi đến tột đỉnh các giá trị đạo đức của giai cấp
tiến bộ của từng thời kỳ lịch sử, nhân loại sẽ bắt gặp đạo đức của mình tương
ứng với các thời kỳ lịch sử đó.

12


1.1.4. Chức năng của đạo đức
1.1.4.1 Chức năng điều chỉnh hành vi
Sự điều chỉnh hành vi được thực hiện bằng hai hình thức chủ yếu. Một là,
thơng qua dư luận xã hội, ca ngợi, khuyến khích cái thiện, cái tốt, lên án, phê
phán cái ác, cái xấu. Trong trường hợp này, giá trị đạo đức phụ thuộc vào sức
mạnh và tính đúng đắn của dư luận. Mỗi khi dư luận xã hội được củng cố và
phát triển, được mọi người đồng tình ủng hộ, nó sẽ trở thành sức mạnh to lớn
trong việc điều chỉnh đạo đức.
Do đó, nếu dư luận xã hội mỗi khi được hướng dẫn bởi những học thuyết
đạo đức tiên tiến, sẽ góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức, làm cho nó phù hợp
với sự tiến bộ xã hội, tạo nên những giá trị đạo đức đích thực. Hai là, bản thân
chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi của mình theo những chuẩn mực đạo
đức xã hội. Cách thức điều chỉnh này phụ thuộc vào việc giáo dục, giác ngộ của

chủ thể đạo đức. Bởi lẽ, trong quan hệ đạo đức chủ thể đạo đức vừa tham gia
vào hành vi ứng xử, vừa là người phán xét hành vi ứng xử của chính mình.
Khi thực hiện hành vi ứng xử, chủ thể đạo đức dựa vào các chuẩn mực
được hình thành trong bản thân họ (chuẩn mực này đã tiếp thu chuẩn mực đạo
đức xã hội và do điều kiện sinh sống và các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân
chủ thể tạo thành). Nếu các chuẩn mực đó phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã
hội, nó sẽ trở thành cơ sở khách quan làm cho hành vi đạo đức của cá nhân phù
hợp với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình ủng hộ. Ngược lại, mỗi khi chuẩn
mực cá nhân sai lệch chuẩn mực xã hội sẽ dẫn đến những hành vi đạo đức cá
nhân không phù hợp với lợi ích xã hội. Trong trường hợp này, dư luận xã hội sẽ
lên án, phê phán. Khi phán xét hành vi ứng xử của mình, chủ thể đạo đức căn cứ
vào chuẩn mực đạo đức của cá nhân họ. Nếu như vì thiếu nhiệt tình, chưa cố
gắng hết sức mình, nên khơng thực hiện được một quan hệ đạo đức nào đó đúng
như chuẩn mực của bản thân, thì lương tâm họ bị cắn rứt, họ cảm thấy ân hận,

13


xấu hổ về hành vi của mình. Ngược lại mỗi khi họ thực hiện được những quan
hệ đạo đức đúng như chuẩn mực đã hình thành ở họ, thì lương tâm họ cảm thấy
thanh thản, họ tự hào về hành vi của mình. Như vậy, với cách thức điều chỉnh
này, giá trị đạo đức phụ thuộc vào các chuẩn mực đạo đức được hình thành
trong mỗi chủ thể đạo đức đó là cơ sở cho hành vi đạo đức của mỗi cá nhân phù
hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã hội.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi
làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá
nhân và cộng đồng.
1.1.4.2 Chức năng giáo dục
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con
người tạo ra hồn cảnh đến mức nào thì hồn cảnh cũng tạo ra con người đến

mức ấy.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá
nhân chịu sự tác động. Ở đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá
nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để
chuyển hóa đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là
hiện thực hóa nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp
đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội
được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.
Chức năng giáo dục được thực hiện thông qua sự giáo dục của xã hội và sự
tự giáo dục của mỗi cá nhân. Giáo dục đạo đức là quá trình tuyên truyền những
tư tưởng, nhưng chuẩn mực đạo đức xã hội, biến nó thành thước đo đánh giá,
điều chình hành vi của mỗi cá nhân nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành vi cá
nhân với lợi ích xã hội.
Trong quá trình hoạt động sinh sống, mỗi cá nhân khơng chỉ mưu cầu lợi
ích vật chất, lợi ích tinh thần, mà còn mưu cầu sự tiến bộ của bản thân và đều

14


muốn được dư luận xã hội ca ngợi, biểu đương. Do đó, những tư tưởng và
những chuẩn mực đạo đức xã hội trở thành mục tiêu, thành những định hướng
cho hoạt động cá nhân của nó. Những hành vi đạo đức có tính chất lặp đi lặp lại,
tạo nên các quan hệ đạo đức tương đối ổn định và nó thường xuyên được duy trì,
củng cố bằng dư luận xã hội sẽ trở thành thói quen, tập quán, truyền thống đạo
đức trở thành nhân tố trực tiếp tác động đến sự hình thành đạo đức của thế hệ
người tiếp theo. Như vậy, giá trị đạo đức trong trường hợp này được hình thành,
phát triển ra sao ln phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của những tư tưởng
và những chuẩn mực đạo đức được tuyên truyền, giáo đục trong xã hội.
Tự giáo dục đạo đức của cá nhân, trước hết thế hiện ở chỗ, môi cá nhân
thông qua sự tự phán xét của lương tâm về hành vi của mình để củng cố các

chuẩn mực đạo đức cá nhân, để đạt tới hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức đó. Mặt khác, dựa vào dư luận xã hội, họ tự điều chỉnh hành vi và
điều chỉnh ngay cả những chuẩn mực đạo đức cá nhân khi nhận thấy nó sai lệch
với chuẩn mực xã hội. Giá trị đạo đức trong trường hợp này được xác định phụ
thuộc vào sự nhạy cảm, sự cầu thị của chủ thể trong việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cho phù hợp với tư tưởng, chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Giáo dục đạo đức gắn liền với tiến bộ đạo đức. Nhân đạo hóa các quan hệ
xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ xã hội; sự hoàn thiện của
cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá
mức đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của
cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, u cầu, nhiệm vụ,
nội dung, phương thức, hình thức và các bước đi của quá trình giáo dục sẽ giúp
mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các hành vi và thực tiễn đạo đức đúng.
1.1.4.3 Chức năng nhận thức
Những tư tưởng đạo đức và chuẩn mực đạo đức xã hội có trở thành các
quan hệ đạo đức trong đời sống xã hội hay khơng, điều đó khơng chỉ phụ thuộc

15


vào tính đúng đắn, tư tưởng đạo đức, của các chuẩn đạo đức, vào việc tuyên
truyền, giáo dục trong xã hội, mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng tiếp nhận
và chuyển hố nó trong hoạt động nhận thức và trong hành vi của mỗi chủ thể
đạo đức. Thông qua sự lựa chọn, đánh giá của các chủ thể đạo đức về những tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức, trong bản thân họ hình thành niềm tin, lý tương đạo
đức và các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong quan hệ ứng xử của chính họ.
Hoạt động nhận thức đạo đức cũng bao gồm hai trình độ: tình cảm và tư
tưởng đạo đức, kinh nghiệm và lý luận đạo đức.
Thông qua quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, chủ thể đạo
đức phân tích, đánh giá, lựa chọn các tư tưởng đạo đức và các chuẩn mực đạo

đức trong xã hội để trên cơ sở đó, chứng minh, lý giải các tư tưởng đạo đức và
các chuẩn mực đạo đức được hình thành trong bản thân nó là đúng đắn và hợp
lý, để tiếp thu cái đúng, cái hợp lý và phê phán những sai trái trong các tư tưởng
và chuẩn mực đạo đức khác.
Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các
hình thái ý thức khác. Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế
giới con người. Nếu xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức
đạo đức) không tách rời thực tiễn, hành động của con người. Do vậy, đạo đức là
hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực.
Từ nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng
để hồn thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vơ số những trách nhiệm như
vậy, nó ln đặt trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia
đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, giai cấp, tổ quốc.
Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân,
nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức cá
nhân). Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội trở

16


thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo
đức).
Như vậy, có thể nói, giá trị đạo đức được hình thành ở mỗi cá nhân luôn
phụ thuộc vào việc các cá nhân ấy được giáo dục và tiếp nhận những tư tưởng
và các chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã hội.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.2.1. Hồ Chí Minh với nền đạo đức mới Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vơ giá, đó là tư
tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm,

bài nói, bài viết chuyện về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người
viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường kách
mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập vẫn là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm
sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm
ngày thành lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là bài: Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói
về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho CB, Đảng viên.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển
những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây
mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao,
thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.

17


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và
toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trị, nội dung của đạo đức; những
phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu
cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách
mạng. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư
cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể
hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc.
- Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn ni dưỡng và phát
triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sơng suối. Người viết:

“Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [28, tr205].
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách: “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại
không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo
hồn thành nhiệm vụ cho tốt chứ khơng kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công
thần, không quan liêu, khơng kiêu ngạo, khơng hủ hóa” [20, tr58].
- Với u cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra 5 điểm đạo đức mà người Đảng viên
phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vơ luận trong hồn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu
cúi đầu.
+ Vô luận trong hồn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.

18


+ Hịa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng
Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường
nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của dân tộc và thời đại.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu
yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh

vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan
hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí
Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của CB, Đảng viên, nhất là
khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và CB phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư”.
1.2.2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người Việt Nam trong thời đại mới
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có 4 chuẩn mực đạo đức cơ bản:
- Trung với nước, hiếu với dân là chuẩn mực đạo đức nền tảng, điều chỉnh
hành vi giữa cá nhân với cộng đồng. Trung, hiếu là các khái niệm đạo đức
truyền thống, nhưng được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào những nội dung
mới.
+ Trung với nước: yêu nước, gắn liền với yêu Chủ nghĩa xã hội; trung
thành với lý tưởng, con đường cách mạng mà đất nước, dân tộc đã lựa chọn; có
trách nhiệm bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

19


+ Hiếu với dân: Thương dân, quý dân, lấy dân làm gốc; chăm lo mọi mặt
đời sống nhân dân một cách tự giác; đấu tranh giải phóng quần chúng nhân dân
để dân trở thành người chủ và làm chủ.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư: Đây là chuẩn mực đạo đức trung
tâm, điều chỉnh hành vi ứng xử trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.
Cần: Cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, biết phân công, tổ chức hoạt
động hợp lý, lao động với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
Kiệm: Tiết kiệm, khơng hoang phí, tiêu dùng hợp lý; không chỉ tiết kiệm
của cá nhân mà cịn tiết kiệm của cơng; tiết kiệm tồn diện: tiền của, nguyên vật
liệu, thời gian, sức lao động.

Liêm: Liêm khiết, trong sạch, khơng tham tiền tài, địa vị, danh vọng.
Chính: Chính trực, ngay thẳng, thật thà đối với mình, đối với người, đối với
việc.
Chí cơng vơ tư: Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết,
hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Các tiêu chuẩn đạo đức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề cho
nhau. Hồ Chí Minh xác định cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức thực sự cần thiết
của một con người, là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc.
- Yêu thương con người: Yêu thương tất cả mọi người, trước hết là người
lao động nghèo khổ, bị bóc lột, áp bức, những người dễ bị tổn thương nhất
trong xã hội: trẻ em, người già, phụ nữ; yêu thương con người trên lập trường
của giai cấp công nhân; chăm lo mọi mặt đời sống con người để con người
được thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân...
- Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung: Chuẩn mực đạo đức này điều
chỉnh hành vi ứng xử của con người trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc.
Nó có cơ sở từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Về nội dung, chuẩn mực đạo đức này bao gồm: Tôn trọng, thương yêu

20


các dân tộc; ủng hộ, giúp đỡ các dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng;
xây dựng khối đồn kết quốc tế trên cơ sở cùng có lợi, có lý, có tình.
1.2.3. Những ngun tắc xây dựng đạo đức mới
Những phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh nêu ra phù hợp với từng đối
tượng. Hơn nữa Người nhấn mạnh những phẩm chất này là nhằm đáp ứng yêu
cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định. Trung với nước, hiếu
với dân; yêu thương con người; Cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư và tinh
thần quốc tế trong sáng là bốn phẩm chất chung, cơ bản nhất trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chi Minh.

Để xây dựng một nền đạo đức mới, Chủ tịch Hồ Chi Minh đưa ra những
nguyên tắc cơ bản để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cho việc
rèn luyện của mỗi người. Chính Người đã suốt đời khơng mệt mỏi tự rèn mình,
giáo dục, động viên CB, Đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là:
- Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức
+ Đối với mỗi người, lời nói phải đi đơi với việc làm.
+ Nói đi đơi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế
hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng.
Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông
bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho CB, nhân viên...
+ Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt
quần chúng, khơng phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu
mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. “Muốn hướng
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
- Xây đi đôi với chống
+ Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt
đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với
những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với

21


chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
+ Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ
gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất
phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể
hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và
nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện.

+ Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ
nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
+Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong
trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát
động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên
truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
+ Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
+ Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng
nhất định hơm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[26, tr184].
+ Tự rèn luyện có vai trị rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người
thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong
mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, khơng tự lừa dối, huyễn
hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái

22


ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động
thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan
hệ của mình.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và sự nghiệp đổi mới hiện nay
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thanh niên
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất,
Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức và có nhiều cống hiến trong việc

phát triển những tư tưởng đạo đức mới. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tấm
gương đạo đức trong sáng của Người có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng, là nhân tố có ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng con
người mới ở Việt Nam hiện nay.
Trong đó, đặc biệt chú ý là những quan điểm của Người về đạo đức thanh
niên và giáo dục đạo đức cho thanh niên. Người luôn coi đây là một vấn đề có ý
nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Điều này
được Người căn dặn rất rõ trong Di chúc: “ Thanh niên ta nói chung là tốt, mọi
việc đều hăng hái xung phong, khơng ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần
phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Quan điểm
của Hồ Chí Minh về đạo đức thanh niên được đề cập nhiều trong các bài nói và
bài viết của Người. Người phân tích một cách rõ ràng vị trí và vai trò quan trọng
của thanh niên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước trong
thời kỳ mới. Chính vậy, việc nghiên cứu các quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo
đức thanh niên và vận dụng các quan điểm đó vào việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho thế hệ thanh niên là một yêu cầu quan trọng trong việc đào tạo, bồi
dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.

23


Nhìn nhận và đánh giá đúng thanh niên, điều quan trọng trước hết là phải
xác định cho đúng vị trí, vai trị của lực lượng thanh niên trong tiến trình phát
triển của xã hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tác dụng chỉ
đạo và định hướng cho công tác giáo dục và chuẩn bị hành trang vào đời cho
thanh niên. Ý thức được điều này, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của
mình, ngay từ những ngày đầu, Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trò đặc biệt quan
trọng của thanh niên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Sau này, Người vẫn ln chăm lo giáo dục thanh niên, mạnh dạn giao
nhiệm vụ và từng bước dìu dắt họ tham gia đấu tranh cách mạng. Đúc rút từ
thực tiễn những năm tháng khó khăn, gian khổ đầy thử thách của bản thân, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận ra những phẩm chất tuyệt vời của thanh niên, đánh giá
cao vị trí, vai trị của họ đối với vận mệnh của dân tộc và cách mạng. Hồ Chí
Minh thường xuyên quan tâm đến thanh niên, biểu dương những việc làm tốt,
những hành động anh hùng, dũng cảm, sáng tạo của họ. Người nói: “Khắp thành
thị, nông thôn, miền xuôi, miền núi, thanh niên ta ngày nay đã thành một đội
quân to lớn, hăng hái tiến lên, quyết tâm phấn đấu, hy sinh vì Tổ quốc thân u,
vì tiến bộ xã hội”[21, tr13]. Chính vì vậy, thanh niên xứng đáng là cánh tay đắc
lực của Đảng, là lực lượng luôn luôn đi đầu trong việc thực hiện đường lối do
Đảng đề ra và là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ của Đảng: “... thanh niên ta luôn
luôn hăng hái xung phong và họ xứng đáng là cánh tay đắc lực của Đảng” [21,
tr14].
Với lòng yêu thương, tin tưởng và hy vọng to lớn ở thanh niên nước ta, Hồ
Chí Minh cũng khơng qn việc cần phải chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế mà
thanh niên ta còn mắc phải và Người đưa ra những yêu cầu, nhiệm vụ đối với
thanh niên để khắc phục những hạn chế đó. Người nhận xét: “Ưu điểm của
thanh niên ta là hăng hái, giàu tinh thần xung phong. Khuyết điểm là ham
chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng. Rất mong toàn

24


thể nhân dân ta ra sức phát triển những ưu điểm, tẩy sạch những khuyết điểm
ấy”[32, tr12]. Người thường ân cần nhắc nhở thanh niên đấu tranh khắc phục
những khuyết điểm, nhược điểm và ln khun thanh niên phải có chí tiến thủ
vươn lên, ham làm việc, tích cực làm việc và khi đã làm gì thì phải làm cho kỳ
xong.
Trên cơ sở nhìn nhận cả hai mặt của vấn đề, Người đã đề ra những yêu cầu

về phẩm chất đạo đức đối với thanh niên trong công cuộc xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa, bao gồm cả các yêu cầu đối với từng đối tượng, từng thế
hệ và ở tùng thời điểm khác nhau. Trong vấn đề học tập, rèn luyện, tu dưỡng,
hoàn thiện nhân cách của người thanh niên, Hồ Chí Minh ln đề ra u cầu
thanh niên phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và học tập, trau dồi đạo
đức cách mạng. Người đưa ra những phẩm chất cần thiết trong giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên, đó là: Trung với nước, hiếu với dân;
tinh thần dũng cảm, hăng say trong lao động; tinh thần đoàn kết, chống chủ
nghĩa cá nhân.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, trước những ảnh hưởng ngày càng to
lớn của nền kinh tế thị trường và xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá, bên cạnh
những tác động tích cực thì cũng có khơng ít những tác động tiêu cực đến một
bộ phận không nhỏ thanh niên như: biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống, nhạt
phai lý tưởng, thiếu chí tiến thủ, khơng quan tâm đến tình hình đất nước...Vì
vậy, hiện nay, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo
dục đạo đức cách mạng cho thanh niên ngày càng trở nên có ý nghĩa hơn bao
giờ hết. Việc phấn đấu tu dưỡng bản thân là một quá trình lâu dài, nhận thức và
thực hiện tốt trách nhiệm của bản thân đối với tập thể, với cộng đồng, với đất
nước và với chính bản thân mình cịn là một quá trình rèn luyện và phấn đấu lâu
dài hơn, địi hỏi ở mỗi người phải có một ý chí, nghị lực, quyết tâm cao để chiến
thắng chính bản thân mình, chiến thắng mọi cám dỗ của đồng tiền, của tâm lý

25


×