Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn nguyễn thị thu huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
****************

TỐNG THỊ MINH

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ

Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Hà Văn Đức

Hà Nội, 2014
0


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 03
1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 03
2.Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 05
3.Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu .......................................................... 10
4.Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 11
5.Cấu trúc luận văn ................................................................................................ 11
CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ...................................................................... 12
1.1.Vấn đề người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.................... 12
1.1.1.Khái lược về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự................................... 12
1.1.2.Người kể chuyện hiện diện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .......... 14
1.1.3.Người kể chuyện tiềm ẩn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ............. 22


1.2.Vấn đề điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .............................. 26
1.2.1. Khái lược về điểm nhìn trong tác phẩm tự sự ............................................ 26
1.2.2. Điểm nhìn bên trong trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ................... 28
1.2.3. Điểm nhìn bên ngồi trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .................. 31
1.2.4. Sự kết hợp và dịch chuyển điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ........................................................................................................................ 35
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ...................................... 37
2.1.Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ ............................................. 37
2.2.Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .............................. 42
2.2.1.Sự phong phú của thế giới nhân vật ........................................................... 44
2.2.1.1.Nhân vật bi kịch. ................................................................................ 44
2.2.1.2.Nhân vật tha hóa ................................................................................. 49
2.2.1.3.Nhân vật vượt lên hoàn cảnh. .............................................................. 53
2.2.2.Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 55
2.2.2.1.Nghệ thuật miêu tả tâm lý ................................................................... 55
2.2.2.2.Nghệ thuật xây dựng tình huống ......................................................... 61

1


CHƯƠNG 3: KẾT CẤU VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ .................................................................................. 64
3.1.Nghệ thuật tổ chức kết cấu ............................................................................... 64
3.1.1.Kết cấu đảo trật tự thời gian của sự kiện. ................................................... 66
3.1.2.Kết cấu tâm lý. ........................................................................................... 71
3.1.3.Kết cấu phân mảnh .................................................................................... 74
3.1.4.Kết cấu mở (kiểu kết thúc để ngỏ).............................................................. 78
3.2.Giọng điệu trần thuật ....................................................................................... 81
3.2.1.Giọng trữ tình đằm thắm, xót xa ................................................................ 82

3.2.2.Giọng chiêm nghiệm, triết lý...................................................................... 85
3.2.3.Giọng suồng sã, hài hước, châm biếm ........................................................ 86
3.2.4.Giọng lạnh lùng vô âm sắc ......................................................................... 89
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 96

2


MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1.Năm 1986 được coi là dấu mốc của sự đổi mới toàn diện đất nước. Nền
kinh tế chuyển từ mơ hình bao cấp sang kinh tế thị trường. Cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa được đẩy mạnh kéo theo đà tăng tốc của quá trình đơ thị hóa. Tinh thần dân
chủ được coi trọng, tạo một luồng sinh khí mới ở nhiều lĩnh vực của đời sống, trong
đó có văn học. Là bộ phận nhạy cảm nhất của xã hội, văn học nghệ thuật hưởng
ứng hết sức mạnh mẽ đường lối cách mạng và thực thi ngay tư tưởng đổi mới trong
sáng tác, trong tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, nhà lý luận phê
bình. Dần dần đến lượt mình, văn học cũng tự biến đổi trong công cuộc đổi mới, có
thêm những tác phẩm mới, có những đặc điểm về phong cách và nội dung khác với
thời kỳ trước, cho phép nói về một giai đoạn mới trong văn học.[41, 16]
Đến lúc này, hiện thực đối với người cầm bút không chỉ là chiến tranh với
những người anh hùng trận mạc. Hiện thực là tồn bộ dịng chảy cuộc sống đời
thường phức tạp, xô bồ, là những con người cá nhân ẩn chứa cả “rồng phượng lẫn
rắn rết”, là những mối quan hệ chằng chịt hay đứt gãy của những số phận nhỏ nhoi.
Sự phong phú, nhiều bí ẩn của đời sống đã khiến nhiều thể loại văn học, đặc biệt là
truyện ngắn phải đổi mới về các phương thức nghệ thuật cấu thành. Trong đó, nghệ
thuật trần thuật đóng vai trò quan trọng làm nên sự mới mẻ của truyện ngắn từ năm
1986 so với thời kỳ trước.
1.2.Từ sau năm 1986, trên văn đàn dân tộc, cùng với sự vững vàng chín chắn

của những nhà văn lớp trước như: Tơ Hồi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang
Sáng, Nguyễn Xn Thiều...là sự xuất hiện của hàng loạt các cây bút mới đầy triển
vọng như: Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan...Đặc
biệt, đây chính là thời kỳ “văn học mang gương mặt nữ” (chữ dùng của Bùi Việt
Thắng), khi sáng lên bên cạnh một Vũ Thị Thường sắc sảo cô đọng, một Nguyễn Thị
Ngọc Tú chân chất mộc mạc, một Lê Minh Khuê giàu chất chiêm nghiệm, một
Nguyễn Thị Ấm với lối viết tài hoa mang chút giễu cợt đầy thiện ý là một Nguyễn
Thị Thu Huệ chao chát dịu dàng và từng trải, một Y Ban đằm thắm và khắc khoải,
một Vàng Anh với lối viết lạnh lùng, trí tuệ và hóm hỉnh, một Lý Lan hồn hậu và sắc
sảo .[46, 35]
Dung nhan của thể loại truyện ngắn đã được tô vẽ bằng những mảng màu của
các cây bút nữ mang phong cách khác nhau. “Găm” lại được trong lòng người đọc

3


là một Y Ban lúc bạo liệt táo tợn, lại có lúc dịu dàng đến bất ngờ; một Phan Thị
Vàng Anh biết lạ hóa những điều quen thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng
chừng nhạt nhẽo; và một Nguyễn Thị Thu Huệ “bụi bặm trong tả chân”, nó toát ra
từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ.
Vừa mới xuất hiện nơi địa hạt văn chương, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sớm
giành được những thành công. Chị giành giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí
Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992-1994 với hai tác phẩm Hậu thiên đường và
Mùa đông ấm áp.
Từ đó đến nay, cây bút ấy vẫn tiếp tục say sưa với từng trang viết. Sáu tập
truyện ngắn lần lượt ra đời đã cho thấy hoạt động nghệ thuật không ngừng nghỉ của
chị. Mới đây nhất, năm 2012, tập truyện ngắn Thành phố đi vắng đã đạt giải
thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. So với năm tập truyện ngắn trước (Cát đợi, Phù
thủy, Hậu thiên đường, Nào, ta cùng lãng quên, 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ), tập Thành phố đi vắng đã thể hiện một ngã rẽ mới của cây bút này khi thay

đổi về vùng hiện thực, cảm hứng sáng tác và bút pháp nghệ thuật. Do vậy, khi tìm
hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi muốn
khám phá sự chuyển đổi về một phương diện trong hình thức nghệ thuật để thấy
được sự tự đổi mới của cây bút vốn lao động nghệ thuật nghiêm túc và đầy trách
nhiệm này.
1.3.Thực tế, từ trước đến nay, khơng ít các nhà nghiên cứu, nhà phê bình và
bạn đọc trong cả nước phân tích truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Thế nhưng,
việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở các bài báo, bài nghiên cứu nhỏ hoặc lấy truyện
của Nguyễn Thị Thu Huệ để làm dẫn chứng cho các luận văn, luận án mang quy mơ
tổng hợp. Vì vậy, các nhà khoa học và bạn đọc mới chỉ dừng lại ở việc phân tích
một số đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, với những ý kiến khen, chê khác
nhau. Mặt khác, xét riêng về góc độ nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ, cho đến nay, chưa có một cơng trình nào lấy đó làm đề tài nguyên cứu
chuyên sâu. Chính điều này là cơ sở để chúng tôi lựa chọn khai thác truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ từ góc độ nghệ thuật trần thuật.
1.4. Với đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ, chúng tơi sẽ phân tích những đặc điểm nổi bật trong bút pháp trần thuật, cho
thấy nét riêng trong phong cách nghệ thuật của nhà văn, từ đó chỉ ra những đóng
góp của nữ tác giả đối với truyện ngắn Việt Nam hiện đại.

4


2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12/8/1966, quê ở xã Thạch Phong, huyện
Thạch Phú, tỉnh Bến Tre, trú quán: Hà Nội. Chị tốt nghiệp Đại học tổng hợp Hà Nội,
khoa Ngữ Văn. Chị là một trong số những tác giả nữ gặt hái được nhiều thành công
khi tuổi đời còn khá trẻ:
-Giải thưởng truyện ngắn Hội văn học nghệ thuật Hà Nội-1986
-Giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong – 1993

-Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội 1992-1994
-Tặng thưởng Hội nhà văn - 1994
-Giải thưởng Hội nhà văn – 2012
Đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ đã cho ra mắt bạn đọc sáu tập truyện ngắn: Cát
đợi, Phù thủy, Hậu thiên đường, Nào, ta cùng lãng quên, 37 truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ, Thành phố đi vắng.
Ngay từ thời kỳ đổi mới, khi xuất hiện không lâu trên văn đàn, Nguyễn Thị
Thu Huệ đã gây một tiếng vang lớn khi giành giải nhất cuộc thi truyện ngắn lần thứ
5 (1992-1994) do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức với hai truyện ngắn: Hậu
thiên đường và Mùa đông ấm áp. Không dừng lại ở các giải thưởng, chị tiếp tục
khẳng định mình bằng một loạt các sáng tác có giá trị khác.
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ đã và đang cuốn hút người đọc bởi một lối
viết riêng, một phong cách riêng. Ngay từ năm 1993, trong bài viết Khi người ta trẻ
đăng trên báo Văn nghệ số 43, nhà phê bình Bùi Việt Thắng đã nhận diện Nguyễn
Thị Thu Huệ là một trong các cây bút làm nên sự khởi sắc của truyện ngắn. Ở đó,
nhà văn nữ trẻ cùng với thế hệ của mình đã “mê say được tham dự, được hòa nhập
vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng của con người. Sự hòa nhập ấy là chất men
nồng ủ ấp trong họ bao yêu thương và cả sự phẫn nộ trong cái xấu cái ác đến ‘thét
lên một tiếng thật to” [37].
Tiếp đó, trong cuốn “Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại”, Bùi Việt Thắng lại một lần nữa khẳng định đối tượng mà Thu Huệ quan tâm
và hướng ngòi bút tới là “những thiên đường và hậu thiên đường của đời sống con
người, đặc biệt là người phụ nữ”. “Truyện ngắn Thu Huệ ln có hai mặt như thế vừa bụi bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, vừa táo tợn vừa thanh khiết”.
“Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt, nó tốt
ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ” [36].

5


Năm 2002, trong bài viết Tứ tử trình làng giới thiệu tập Truyện ngắn bốn

cây bút nữ, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã phát hiện trong tác phẩm của
Nguyễn Thị Thu Huệ một đặc tính “chao chát và dịu dàng, thơ ngây và từng trải,
đớn đau và tin tưởng cứ trộn lẫn trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa cực
của ngịi bút nữ có dun trong lĩnh vực truyện ngắn. Đọc Nguyễn Thị Thu Huệ ta
bị cuốn vào trong niềm vui và nỗi buồn bất tận. Đời sống hiện lên trên từng trang
sách của chị bề bộn, ngồn ngang, ấy vậy mà ngẫm kỹ nó đâu vào đấy. Nhà văn
nghiêng viết về con người trong khối mâu thuẫn vừa cố kết dính với gia đình như
một “hang ổ cuối cùng”, lại vừa bị nhiều ngoại lực giằng xé, lôi kéo...”[38]. Lời
nhận xét ấy đã phần nào khái quát toàn bộ tinh thần truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ.
Ngồi ra, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng cịn chỉ rõ những phương diện nghệ
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Đó là tình huống tuy hẹp nhưng đặc
sắc, ngơn ngữ có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, cấu trúc đơn giản, thông
tin cao hoạt động trong giọng điệu. Đồng thời, ông cũng nhận thấy hạn chế trong
văn của Nguyễn Thị Thu Huệ: Cây bút này hơi tham, chưa dám gạt bỏ, cịn muốn
nói nhiều, nói hết trong truyện.
Nhà nghiên cứu Đồn Hương cũng có bài Những ngôi sao nước mắt (báo
Văn nghệ trẻ ra ngày 25/3/1996). Ở bài viết này, tác giả cũng chỉ ra một số khía
cạnh cơ bản trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ. Nhà nghiên cứu đánh giá đây
là một cây bút tài hoa với cách viết như “lên đồng” mang khuynh hướng hiện đại.
Mặc dù chưa trở thành một “hiện tượng” của văn học nước nhà song Nguyễn Thị
Thu Huệ đã có đóng góp trên nhiều phương diện và đã cho ra đời một số tác phẩm
có giá trị, được nhiều độc giả yêu thích.
Với bài viết Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ được in trên báo
Văn nghệ số 35 ra ngày 21/3/ 2002, tác giả Hồ Sỹ Vịnh đã nhìn nhận và đánh giá
Nguyễn Thị Thu Huệ là một nhà văn “độc đáo tài hoa”. Đồng thời, ông còn cho
rằng: Nếu phong cách nghệ thuật là đại lượng thẩm mỹ, thể hiện sự thống nhất
tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của phương tiện biểu hiện nghệ thuật,
các yếu tố độc đáo lặp đi lặp lại, nói lên cách nhìn, cách cảm trong sáng tạo của một
nhà văn, của một tác phẩm cụ thể...thì ở Thu Huệ người đọc tìm thấy những dấu

hiệu

đó.

Ngồi ra, cịn nhiều bài viết khác về Nguyễn Thị Thu Huệ như bài viết của tác giả

6


Lý Hồi Thu đăng trên Tạp chí văn học với tựa đề Những truyện ngắn hay; bài của
Dương Quỳnh Trang: Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút
nữ đăng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội tháng 6/1994; Kim Dung với bài Đọc hồi
ức binh nhì và Bến trần gian đăng trên Văn nghệ trẻ ngày 25/3/1996; Xuân Cang
với bài viết Nguyễn Thị Thu Huệ nhà văn của những vận bĩ trong “Tám chữ hà
lạc và quỹ đạo đời người”, Nxb Văn hóa thơng tin, (2000)...Các bài viết này đều
đánh giá Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút có tài năng. Tuy nhiên, các bài nghiên
cứu này phần lớn chủ yếu chỉ ra những nét độc đáo về mặt nội dung mà chưa chú
trọng đến nghệ thuật, trong đó, nổi bật là nghệ thuật trần thuật.
Cũng trong xu hướng tương tự, một loạt các luận án, luận văn cũng chú ý đến
Nguyễn Thị Thu Huệ ở góc độ là một đối tượng nghiên cứu nhỏ trong một đề tài
rộng lớn hơn. Cho đến nay, luận án mới nhất đề cập đến Nguyễn Thị Thu Huệ ở góc
độ trần thuật là luận án tiến sĩ của Hồng Dĩ Đình năm 2012 với đề tài Ngơn ngữ
trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (trên tư liệu truyện ngắn ba nhà
văn nữ). Trong đó, truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ được lấy làm dẫn chứng để
phân tích các đặc điểm chung của trần thuật như điểm nhìn, người kể chuyện, nhân
vật, ngơn ngữ. Cơng trình không chỉ ra đặc điểm riêng trong nghệ thuật trần thuật
của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Cùng với đó, các luận văn của Lê Thị Tuyết Nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Hoàng Diệu (2010), Tìm hiểu một
số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ 19862006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy) của Nguyễn Thanh

Hồng (2009), Quan niệm nhân sinh của người phụ nữ qua các sáng tác văn xuôi
thời kỳ đổi mới qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Ngọc Tư của Bùi Phương Anh năm 2009...đều cho rằng, truyện của Nguyễn Thị
Thu Huệ đều tích hợp các loại hình nhân vật lý tưởng, tha hóa, bi kịch, nhân vật nữ
mang màu sắc nữ quyền...Để xây dựng nhân vật, Nguyễn Thị Thu Huệ cũng như
các nhà văn khác đều miêu tả ngoại hình, phân tích tâm lý và xây dựng tình huống.
Giọng điệu trong truyện của các nhà văn nữ đều có giọng hài hước, châm biếm, mỉa
mai, trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm...Như vậy, điểm qua có thể thấy, truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ đã được quan tâm nhiều nhưng cây bút này mới chỉ được nhìn
nhận như một bơng hoa góp chút hương sắc cho một vườn hoa đẹp mà chưa được

7


phân tích ở góc độ một đối tượng nghiên cứu riêng biệt, nhất là về nghệ thuật trần
thuật.
Không chỉ được nhắc đến nhiều trên các ấn phẩm in, các công trình luận văn,
luận án, Nguyễn Thị Thu Huệ cịn là đề tài nhiều sức cuốn hút của bạn đọc trên các
trang mạng điện tử. Ý kiến về tác giả này có thể chia làm giai đoạn, một là nhận xét
về 5 tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ đã xuất bản từ năm 1992 đến 2004,
bao gồm: Cát đợi (1992), Hậu thiên đường (1993), Phù thủy (1995), Nào ta cùng
lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2004); hai là nhận xét về
tập truyện ngắn mới nhất của chị Thành phố đi vắng (2012).
Đối với 5 tập truyện ngắn trước, người đọc trên các trang mạng đều cho rằng
Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút luôn khắc khoải, mạnh mẽ, da diết với số phận
người phụ nữ chới với và tha thiết trong tình yêu, mái ấm gia đình. Trong bài Một
góc nhìn về văn xi nữ đăng trên www.tonvinhvanhoadoc.vn, Trần Thục đã nhận
ra nét riêng biệt về nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Nếu nhân vật của Y Ban
dám lên tiếng đòi quyền hạnh phúc, thì người phụ nữ trong tác phẩm của Nguyễn
Thị Thu Huệ cũng không kém phần táo bạo. Nhân vật nữ của chị khao khát, mong

mỏi có được một tình u đích thực, sống hết mình với nó nhưng kết quả lại khơng
như mong đợi, mà chỉ tồn là bi kịch” [65].
Không chỉ nhạy cảm với những vấn đề về nội dung trong tác phẩn của Nguyễn
Thị Thu Huệ, nhiều người đọc cịn đi sâu phân tích nghệ thuật trong truyện của chị.
Lê Na trong bài viết Ngôn ngữ độc thoại trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
đăng trên website www.vanvn.net đã chỉ ra, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ
sử dụng ngôn ngữ độc thoại đời thường một cách phổ biến. Việc lựa chọn ngôn ngữ
này xuất phát từ tư duy hướng vào đời tư, bám sát hiện thực đời sống. Nguyễn Thị
Thu Huệ đã đưa vào tác phẩm của mình tiếng nói của đời sống thường nhật, dung
nạp nhiều khẩu ngữ tự nhiên, làm độc giả không mấy khó khăn khi tiếp cận tác
phẩm.
Nguyễn Thị Thu Huệ - Nhà văn của nồng ấm tính yêu là một bài viết đáng
chú ý của Nguyên Hương đăng trên www.vanhocviet.org. Viết về phụ nữ hiện đại
với những vấn đề đương đại nhưng Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng lối viết khá
truyền thống. Phần lớn truyện ngắn của chị có kết cấu chặt chẽ, lơ-gích, có thể xáo
trộn về thời gian, khơng gian nhưng vẫn dễ dàng tìm ra trật tự tuyến tính của cốt
truyện. Tính cách nhân vật khá nhất quán, số phận nhân vật thường đặt trong mối

8


quan hệ nhân quả, có thể đốn biết trước. Sự hấp dẫn của truyện ngắn Thu Huệ nằm
ở lối viết đằm thắm, nồng nàn hơi ấm nữ tính. Mỗi truyện như một lời tâm tình, chia
sẻ hướng tới những tri âm. Sôi nổi, nồng nàn, nồng nàn ngay cả trong hoàn cảnh
cay đắng và chua chát nhất là giọng điệu chính chi phối sáng tác Nguyễn Thị Thu
Huệ. Giọng điệu ấy khiến truyện ngắn của chị dù đề cập đến nhiều đổ vỡ, mất mát
nhưng vẫn là sợi dây neo đậu niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu.
Sau 5 tập truyện đầu đã xuất bản, Nguyễn Thị Thu Huệ đã lưu dấu ấn đậm nét,
độc đáo và nữ tính trong lòng người đọc. Thế nhưng, đến tập Thành phố đi vắng,
dư luận lại phân ra hai luồng ý kiến khen chê trái chiều.

Thực hiện cuộc phỏng vấn với nhà văn trên báo Tuổi trẻ, phóng viên Việt
Hồi xa xót: Thành phố cịn đây, nhưng tình người đi vắng. Cùng chung nguồn
cảm xúc ấy, Nguyên Hương tinh tế khi nhận thấy, thay vì kiếm tìm tình yêu, tập
truyện là những ưu tư về tình người ngày một cạn kiệt thậm chí biến mất trong đơ
thành hiện đại.
Dương Thị Thùy Chi trong bài viết Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Lạnh
lùng câu chữ, xa xót tâm can, nhận xét: “Ở Thành phố đi vắng chị sử dụng lối
viết khách quan, trung tính, tiết chế cảm xúc tối đa, mỗi truyện ngắn như một bản
tường thuật đời sống” [54].
Với bài Nguyễn Thị Thu Huệ trở lại, Khải Ly cho rằng, Thành phố đi vắng
được khắc họa bằng lối kể chuyện mang tính giả tưởng, một lối kể đan xen thật, giả
và mở, khơng khí lạnh lùng như một cuộc mổ xẻ của nhà pháp y trên con chữ. Thế
nhưng, đây đó vẫn nhận ra một Nguyễn Thị Thu Huệ đầy nữ tính trong các truyện
ngắn: X-Men có mùi trường đua, Của cha, của con và những cành vạn niên
thanh hết sức ưu ái những người con gái bán thân lấy tiền. Trong khi nhiều bạn đọc
nhận chân các giá trị mới của tập truyện Thành phố đi vắng thì một số độc giả khác
lại cho rằng, tập truyện còn nhiều khiếm khuyết.
Khi Thành phố đi vắng đạt giải thưởng của Hội Nhà văn năm 2012, nhà thơ
Đỗ Hoàng cho rằng, Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ: Đơn sơ, nhiều
lỗi, nhạt nhèo/ Cũ càng con cóc lộn lèo văn chương. Trong đó, truyện cũ kỹ và
lộn xộn nhất là truyện X- Men có mùi trường đua, có chất lượng nội dung, nghệ
thuật rất thấp. Truyện Chúng ta cần suy nghĩ về chuyện này là một mẩu không ra
truyện ngắn, không ra mẩu phóng sự, cảm văn khơng ra cảm văn. Nhạt nhẽo vô
cùng. Truyện Cú mèo và rượu hoa kể dài lê thê, cũ kỹ, rời rạc, vô cảm, vô hồn,

9


khơng có gửi gắm một thơng điệp gì. Truyện lạnh lùng vô cảm nhất là truyện Trong
lúc ăn một bát phở gia truyền. Về nghệ thuật, Thành phố đi vắng khơng mang lại

điều gì mới. Tác giả chỉ thay khi hỏi và đối thoại khơng xuống dịng, viết liền tù tì,
ai hiểu thế nào thì hiểu. Chấm câu lung tung, vơ tội vạ. Tóm lại, Thành phố đi vắng
là một tập truyện ngắn chưa đạt trung bình.
Như vậy, khảo sát hình ảnh truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ở nhiều phương
tiện thơng tin, có thể khẳng định: Đã có nhiều ý kiến phê bình, nghiên cứu về những
đổi mới, cách tân về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu
Huệ. Với các quan điểm khác nhau, các bài viết, cơng trình nghiên cứu dù “khen”,
hay “chê” đều cho thấy Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút có sức thu hút mạnh
mẽ. Thêm vào đó, rõ ràng, việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật vẫn là khía cạnh
nghiên cứu mới ở một ngịi bút đã trưởng thành và dày dạn kinh nghiệm này.
3.ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
-Luận văn tập trung tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ để thấy rõ những nét độc đáo của ngòi bút trên các phương
diện: người kể chuyện và điểm nhìn, quan điểm nghệ thuật và thế giới nhân vật, kết
cấu và giọng điệu. Đây là những đặc điểm cho thấy nét đặc sắc riêng của cách trần
thuật được Nguyễn Thị Thu Huệ vận dụng, góp phần làm nổi bật phong cách nghệ
thuật của nhà văn, đồng thời khẳng định đóng góp truyện ngắn của chị trong dòng
chảy của văn học Việt Nam hiện đại.
- Luận văn tập trung phân tích sáu tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ:
Cát đợi (Nxb Hà Nội, 1992), Hậu thiên đường (Nxb Hội Nhà văn, 1993), Phù thủy
(Nxb Văn học, 1995), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ (Nxb Văn học, 2004); Thành phố đi vắng (Nxb Trẻ, 2012). Do 5 tập
truyện đầu xuất bản có sự lặp lại các truyện nên chúng tôi đã tổng hợp được 45
truyện ngắn được in. Riêng tập Thành phố đi vắng gồm 16 truyện ngắn. Như vậy,
có tất cả 61 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ được nghiên cứu trong luận văn
này.
- Với đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ,
chúng tôi sẽ so sánh giữa bút pháp trần thuật ở 45 truyện ngắn trong 5 tập truyện
đầu với 16 truyện ngắn trong tập truyện mới đây Thành phố đi vắng để chỉ ra sự
chuyển biến trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ. Đây cũng là cách

tự làm mới mình của chị, cho thấy chị ln ln sáng tạo và khơng chịu cũ mịn.

10


4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phối hợp vận dụng các phương
pháp sau:
4.1.Phương pháp thống kê:
-Ở luận văn này, Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
sẽ khai thác khía cạnh người kể chuyện và điểm nhìn trong 61 truyện ngắn. Với
phương pháp thống kê, chúng tôi sẽ xác định được tỷ lệ vận dụng các loại người kể
chuyện và điểm nhìn, từ đó, chỉ ra dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
4.2.Phương pháp so sánh:
Để chỉ ra sự khác biệt trong bút pháp trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ với
các nhà văn khác, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh. Đặc biệt, bởi hành trình
sáng tác của chị có sự gián đoạn và thay đổi, vì vậy, phương pháp so sánh sẽ giúp
người viết khám phá những chuyển biến về phương thức nghệ thuật từ khi cầm bút
đến nay.
4.3. Phương pháp loại hình:
Truyện ngắn với những đặc trưng của nó, vốn đã riêng biệt về hình thức so với
các loại hình văn chương khác như tiểu thuyết, tự truyện...Truyện ngắn hiện đại lại
mang trong mình những nét độc đáo khác. Do vậy, chúng tôi dùng phương pháp loại
hình để làm sáng rõ cách trần thuật trong thể loại truyện ngắn của riêng nhà văn nữ.
4.4.Phương pháp phân tích tổng hợp:
Nghệ thuật trần thuật vốn là vấn đề tổng hợp, tích hợp nhiều biểu hiện khác
nhau như điểm nhìn, người kể chuyện, nhân vật, giọng điệu, kết cấu. Phương pháp
phân tích tổng hợp giúp chúng tơi thấy được sự thống nhất của các phương diện này
để khái quát nên đặc trưng riêng trong ngòi bút trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ.
5.CẤU TRÚC LUẬN VĂN:

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận văn được
tổ chức thành ba chương:
-Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ
-Chương 2: Quan điểm nghệ thuật và thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ
-Chương 3: Kết cấu và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Cuối cùng là mục Tài liệu tham khảo.

11


CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
1.1.Vấn đề người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
1.1.1. Khái lược về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự
Gérard Genette (sinh năm 1930 – một nhà tự sự học hàng đầu của Pháp. Trong
bộ ba “Phương thức tu từ” (FiguresI, 1966; Figures II, 1969, Figures III, 1972),
Genette đi sâu vào các yếu tố tạo thành chất văn học của tự sự. Theo tác giả này,
cấu trúc ngôn bản tự sự do ba lớp tạo thành: cốt truyện (histoire), truyện hay câu
chuyện (récit) và tự sự hay kể chuyện (narration).
Một hàm nghĩa nổi bật nhất, quan trọng nhất và cũng được chú ý nhiều nhất
của tự sự là nó đảm nhiệm bằng miệng hoặc chữ viết cơng việc trình bày về một hay
một chuỗi sự kiện/sự tình. Rõ ràng với nghĩa như thế, tự sự là chỉ hành động trần
thuật. Khơng có hành động trần thuật thì khơng có trần thuật, có khi thậm chí khơng
có nội dung trần thuật. Có hành động trần thuật thì phải có chủ thể trần thuật – đó là
người trần thuật (người kể chuyện). Genette quan niệm, không thể có những tự sự
khơng có người trần thuật. “Nếu khơng có người trần thuật, tự sự sẽ khơng thể thực
hiện được và đó sẽ là một hành động vơ trần thuật, vì thế, nó dứt khốt là một trần
thuật khơng có hành động giao tiếp” [10].

Nhận định của Genette đã khẳng định vai trò quan trọng của người trần thuật –
người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Đây là vai đã để lại nhiều dấu vết trong quá
trình sản sinh ngơn ngữ trần thuật. Nó có thể dễ dàng nhận ra qua các yếu tố như
thời gian trần thuật, cấp bậc trần thuật và ngôi.
Genette đã phân loại người trần thuật – chủ thể của trần thuật dựa trên ngơi/
nhân xưng trong tác phẩm văn học. Theo đó, có thể chia ra hai loại người trần thuật:
(1) Người trần thuật không xuất hiện trong truyện là người trần thuật dị câu chuyện
(tức người trần thuật ngoài câu chuyện). (2) Người trần thuật xuất hiện trong truyện
với tư cách một nhân vật của truyện là người trần thuật đồng câu chuyện (tức người
trần thuật trong câu chuyện). Xét về mặt ngôn ngữ, người trần thuật đồng câu
chuyện thường xưng “tơi” khi kể.
Căn cứ vào vị trí hoặc cấp bậc trần thuật và trình độ tham gia vào truyện của
người trần thuật, có thể chia ra các loại hình người trần thuật khác nhau như:
-Người trần thuật bên ngoài – Người trần thuật bên trong

12


-Người trần thuật hiện diện – Người trần thuật tiềm ẩn
- Người trần thuật đáng tin cậy – Người trần thuật đáng nghi ngờ
Với việc phân chia như vậy, ở luận văn này, chúng tơi phân tích vấn đề người
kể chuyện (người trần thuật) trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ dựa trên
phương diện: Người trần thuật hiện diện và người trần thuật tiềm ẩn.
Người trần thuật hiện diện (overt narrator) chính là người trần thuật đồng câu
chuyện. Người trần thuật xuất hiện trong câu chuyện là một nhân vật tham gia vào
trong truyện. Vai này không chỉ đảm nhiệm chức vụ trần thuật mà còn là một nhân
vật của sự kiện đang được kể, có những hoạt động trong truyện và giao lưu với các
nhân vật khác. Thông thường, kiểu người trần thuật này xuất hiện trong truyện
thường xưng “tơi”, kể về những sự kiện có liên quan đến bản thân mình có mặt
trong ấy. Vì vậy, việc trần thuật của kiểu người trần thuật này thường để lại ấn

tượng chân thực cho người tiếp nhận trần thuật và hình ảnh của người trần thuật
cũng trở nên sinh động hơn.
Lợi thế của người trần thuật hiện diện là người trần thuật có bản ngã cá nhân,
có khi “đột nhập” vào truyện đánh giá một cách công khai về các sự kiện và nhân
vật khác. Tuy nhiên, hạn chế của người trần thuật này là do kể bằng lăng kính cá
nhân nên không thể bao quát hết những nội dung trần thuật vượt qua sự từng trải cá
nhân, vì vậy, truyện mang nặng tính chủ quan.
Xét về phạm vi hoạt động và mức độ hoạt động của người kể chuyện hiện diện,
có thể chia ra hai loại: Người kể chuyện đứng bên trong truyện đóng vai nhân vật
chính và Người kể chuyện đứng bên trong truyện đóng vai người quan sát.
Ngược lại với người kể chuyện hiện diện, người kể chuyện tiềm ẩn (covert
narrator) hay còn gọi là người trần thuật dị câu chuyện, người trần thuật ngôi thứ ba
thường khơng để lại vết tích trong văn bản. Người kể của truyện biết hết nhưng
không xuất hiện, để câu chuyện tự triển khai theo logic tự thân, nhân vật tự hoạt
động. Cũng có khi, người kể chuyện khơng trực tiếp xuất hiện mà như đứng kín đáo
ở một chỗ nào đấy, chứng kiến hết mọi chuyện xảy ra và kể lại. Đó cũng là lý do để
trong bài viết của mình về Sự biến mất của chủ thể phát ngơn và vấn đề người
trần thuật, trích trong cuốn Logic học về các thể loại văn học, Kate Hamburger đã
huyền thoại hóa “người kể chuyện như thượng đế”. Ơng trích dẫn ý của J.Petersen
khi so sánh người trần thuật với người chủ trò đứng trên sàn diễn giữa các nhân vật
của ông ta và chỉ dẫn cho chúng về vị trí, động tác, ngữ điệu. Giống như là họa sỹ

13


sử dụng màu và bút vẽ làm công cụ để tạo nên những kiệt tác nghệ thuật bất hủ,
người kể chuyện cũng điều khiển nhân vật, sự kiện, chi tiết, để làm nên một tác
phẩm tự sự đặc sắc và sinh động.
Honore de Balzac - ngơi sao chói lọi của văn đàn Pháp tác giả đã sáng tác Tấn
trò đời bất hủ đã khơng bỏ sót một hồn cảnh nào, một giới xã hội nào của thời đại

ông. Những Raphaen de Valangtanh, Đơ Raxtinhac, Poline… được kể lại một cách
đầy đủ trọn vẹn, đã hình thành cả một thế giới nghìn lẻ một đêm của phương Tây.
Và ai là người mô tả cái thế giới ấy trong tiểu thuyết của Balzac? Ai là người trần
thuật thông hiểu hết mọi việc, có mặt ở khắp mọi nơi cùng một lúc, ai là người cùng
một lúc nhìn thấy cả mặt phải lẫn mặt trái của các sự vật, ai biết đồng thời cả hiện
tại, quá khứ lẫn tương lai của các cuộc phiêu lưu trong Tấn trị đời? Theo A.Robble
- Grillet: đó chỉ có thể là Thượng đế. Khơng ai có thể nhìn thấy được thượng đế,
nhưng người ta vẫn tin rằng có Thượng đế ở trên đời. Cũng vậy, khơng thấy xuất
hiện cụ thể người trần thuật ngôi thứ ba trong tác phẩm tự sự, song người đọc vẫn
nhận thấy có một người trần thuật ẩn tàng. Vì ẩn tàng nên có khi người trần thuật ở
ngơi thứ ba phải mượn điểm nhìn của nhân vật trong truyện để kể. Người kể chuyện
đã hịa vào nhân vật đến mức ta khó phân biệt giọng kể của anh ta với giọng kể của
nhân vật, và vì thế, giọng nhân vật thường nổi trội hơn.
Nếu như người trần thuật hiện diện đem lại ý nghĩa màu sắc chủ quan thì
người trần thuật tiềm ẩn đem lại ý nghĩa khách quan tối đa. Dung lượng phản ánh
trong truyện cũng không bị hạn chế. Với ưu thế riêng, người kể chuyện tiềm ẩn dễ
dàng thâm nhập vào đời sống nội tâm và các mối quan hệ của nhân vật, tạo cảm
giác trực tiếp, gần gũi với thế giới nhân vật, khiến ta có cảm giác không phải đang
nghe kể mà là đang trực tiếp chứng kiến. Tuy vậy, cách kể này vẫn mắc phải hạn
chế, đó là vấn đề mà nhà văn trực tiếp thực hiện điểm nhìn thì tính thuyết phục
khơng cao.
Ở truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, cả hai loại hình người kể chuyện diện
diện và người kể chuyện tiềm ẩn đều phát huy vai trị của nó để làm nên sức cuốn
hút của những câu chuyện giàu sinh khí đời sống hiện đại.
1.1.2.Người kể chuyện hiện diện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách
“ứng xử” với câu chuyện: chuyện được trần thuật ở góc độ nào, theo lời kể của ai?
Tự sự truyền thống đa số được kể từ người kể chuyện ngôi thứ ba, thông tỏ
mạch truyện và số phận của nhân vật. Quyền phán truyền chân lý vì vậy thuộc về


14


nhà văn – người duy nhất biết trước tất cả và ln ln đúng. (Nguyễn Thị Bình).
Người kể chuyện ln đứng cao hơn bạn đọc. Anh ta không bao giờ kể với thái độ
do dự hay hoài nghi, anh ta tuyệt đối tin vào mình và tuyệt đối khơng để cho người
khác “cãi lại”. Hiện thực trong tác phẩm là hiện thực “hoàn kết”. Cấu trúc trần thuật
như vậy nhiều khi tạo ra cái nhìn áp đặt, thiếu dân chủ trong mối quan hệ nhà văn
và bạn đọc.
Trần thuật hiện đại đã mở ra một chân trời mới cho sáng tạo nghệ thuật. Người
kể chuyện được xây dựng chân dung mang tính cá thể rõ nét, là “tơi” trong câu
chuyện đang diễn biến phức tạp đa chiều. Chính những cái “tôi” đang kể đã đem lại
chiều sâu không cùng cho thể loại truyện ngắn vốn hạn chế về dung lượng.
Sống trong khơng khí của thời đổi mới, trong sự tự do sáng tạo nghệ thuật,
Nguyễn Thị Thu Huệ cùng với nhiều nhà văn nữ khác đã “tự ăn mình” khi khai thác
sâu sắc cái tôi nội cảm, cái tôi nữ giới nhiều đa cảm, đa đoan. Truyện của Nguyễn
Thị Thu Huệ xuất hiện nhiều cái tôi đang kể chuyện. Người kể chuyện ngôi thứ nhất
hiện diện với đầy đủ đường nét về khuôn dạng, tâm hồn đến cuộc đời đã cho thấy ý
thức cá nhân mạnh mẽ trong phương thức trần thuật của chị.
Khảo sát 61 truyện ngắn trong 6 tập truyện đã xuất bản, chúng tơi nhận thấy
có 28/61 truyện ngắn được trần thuật theo lời kể của nhân vật xưng “tơi”, chiếm
46 % tổng số truyện. Trong đó, ở 5 tập truyện đầu, có 24/45 truyện có người kể
chuyện xưng “tôi”. Tỷ lệ này ở tập Thành phố đi vắng là 4/16 truyện.
Xét về sự ra đời của các tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, dựa trên
các sắc thái về vùng hiện thực, nhân vật, vấn đề đặt ra trong truyện, có thế nhận
thấy một Nguyễn Thị Thu Huệ đã thay đổi bút pháp trần thuật từ 45 truyện ngắn
đầu đến 16 truyện ngắn gần đây nhất. Người kể chuyện xưng “tôi” trong tác phẩm
của chị tuy có sự tương đồng về mật độ xuất hiện ở hai giai đoạn sáng tác nhưng
bản chất của mỗi cái tơi kể chuyện ấy lại có sự khác biệt rõ nét.
Người kể chuyện hiện diện trong 24 truyện ngắn thuộc 5 tập truyện đầu đã

định hình những chân dung khá đủ đầy về hình dạng, tính cách.
Đó là “tơi” – một người phụ nữ sau bao năm vẫn giữ cho mình một tình yêu
huyền thoại với một người đàn ông đã có vợ. Thỉnh thoảng, “tôi” lại bay vào Sài
Gịn để gặp anh, chỉ chốc lát thơi nhưng tình u hời hợt từ phía người đàn ơng kia
đủ sức mạnh để khiến “tơi” hàng năm tìm kiếm (Huyền thoại). Trong Nước mắt
đàn ông – người xưng “tôi” là đứa cháu kể về cậu ruột của mình. Dẫu giàu có

15


nhưng ơng lại ln đau đớn vì phải sống trong một gia đình khơng hạnh phúc với
một người vợ ghê gớm đến quá quắt, những đứa con ăn chơi và chỉ biết tiêu tiền.
Tình u của riêng ơng với người phụ nữ khác đã không đủ cho ông sức mạnh để
giữ người ấy ở bên mình. Nước mắt ơng rơi khi con chó – kỷ niệm duy nhất của
người yêu trao lại bị vợ ông giết, ăn uống hỉ hả. Sự trống rỗng, cô đơn bủa vây lấy
con người chỉ cịn biết thả hồn mình vào cánh buồm đỏ cơ đơn trôi trên hồ khi
giông bão. Hậu thiên đường là cái tôi của người mẹ tự kể về cuộc đời của mình sau
những chuỗi dài được sống trong thiên đường ở tuổi hai mươi tư đã rơi xuống một
hậu thiên đường tăm tối, quạnh hiu. Mười sáu năm trước, chị cũng yêu say đắm,
trao thân cho người đó để rồi bẽ bàng nhận ra mình chỉ là cái ơ giữa trời mưa, người
đàn ông tán tận kia vào trú trong chiếc ơ đó, vui say thỏa thích rồi bỏ đi, chỉ cịn lại
mình chị cơ đơn trống vắng. Khi con gái lớn lên, chị vẫn say sưa trong những đêm
nhảy đầm, để rồi chợt nhận ra, con gái mình đã lớn. Đau khổ hơn, khi thấy “con gái
tôi thành đàn bà thật rồi”. Nó giống mẹ ngày xưa, đang ngây ngất trong vịng tay
của người đàn ơng đã có vợ, đi đêm thường xuyên và nở nụ cười hạnh phúc trong
cái nôi thiên đường mà không hề hay biết “hậu thiên đường” sẽ là vô vàn cạm bẫy,
chông gai, là vựa thẳm hố sâu, là muôn vàn nanh độc đang chầu chực nuốt chửng cơ
vào đó. Cái “tơi” kể chuyện muốn cứu con, lôi con ra khỏi cái thiên đường địa ngục
đó nhưng khơng kịp: Cái “tơi” ấy đã chết trên đường đi tìm con. Câu chuyện xót xa
với mn vàn cung bậc của đớn đau, vây bủa trái tim người mẹ đã được trần thuật

lại đầy chân thực và cảm động.
24 truyện ngắn trong 5 tập truyện đầu của Nguyễn Thị Thu Huệ được kể theo
ngôi thứ nhất đã hoàn toàn phát huy ưu thế khi người kể chuyện là những cái tôi
người phụ nữ kể về chuyện của cá nhân mình. 13 truyện được kể bởi những cái tơi
phụ nữ đa sầu, đa cảm, đa đoan. Đó có thể là những người phụ nữ đã trải qua bao
thăng trầm của cuộc sống, bao xa xót của cuộc đời, bao đổ vỡ trong tình yêu và
cũng từng nồng nàn khát khao hạnh phúc như trong Người đi tìm giấc mơ, Người
xưa, Hình bóng cuộc đời, Đêm dịu dàng, Hậu thiên đường.
Mở đầu truyện ngắn Người đi tìm giấc mơ là lời kể của nhân vật “tôi” – một
người con gái nghèo sống đơn độc với bà, chấp nhận lấy một người đàn ơng tật
nguyền nhưng giàu có, mong đổi đời. Do không sinh được con nên cô bị nhà chồng
đuổi đi. “Tôi đi ra đường, trên người là chiếc áo mỏng dính, gần rách. Chiếc quần
tơi mặc co lại vì ngắn và cũ. Tơi chẳng có gì ngồi hai thứ đó. Tơi đi”. Những lời

16


kể đầu tiên đã giúp người đọc hình dung về một người tàn tạ, nghèo khổ đi vô định
hướng. Ngoại hình nhân vật đã tạo ấn tượng mạnh để tiếp nối vào mạch kể về số
phận đắng cay. Tất cả quá khứ đều hiện về trong tâm trí người đàn bà tội nghiệp:
‘Những cái tát, những trận phang gậy vào người gần hai năm nay tôi đã quen”.
Người thân duy nhất của cô là người bà, nhưng “Đêm ấy. Tại tơi nên bà chết”.
Hành trình đi của tơi mà những người xung quanh gọi là “kẻ điên” đã đến nơi “Bờ
sông cao. Khô khốc. Dưới kia. Nước sông Hồng đỏ đặc phù sa. Tôi thường tưởng
tượng ra một ngày nào đó mình sẽ ở trên thiên đường và tự hỏi: Nếu chết linh hồn
mình sẽ đi đâu khỏi cái xác thối rữa?”. Kết thúc truyện là hình ảnh cơ đang ngủ và
tiếp tục mơ về những điều tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Người kể chuyện xưng “tôi” – đồng thời là nhân vật chính trong chuyện, hầu
hết là những phụ nữ bất hạnh trong tình u. Cái tơi kể chuyện và cái tơi từng trải
đã hịa nhập làm một trong những trang văn chất chứa nỗi niềm. Không phải ngẫu

nhiên mà nhà phê hình Bùi Việt Thắng nhận xét: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ ln có hai mặt như thế - vừa bụi bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm,
vừa táo tợn, vừa thanh khiết”. Cái bụi bặm hiện lên qua lời kể của người mẹ trong
Hậu thiên đường về những va vấp của tuổi trẻ để đến 16 năm sau chị phải sống
trong đơn côi lạnh lẽo. Sự tả chân đã đem lại cho người đọc cảm giác vỡ mộng khi
người kể chuyện xưng “em” trong Một chiều mưa đang hụt hẫng, tan nát vì phát
hiện vị cứu tinh của mình đang ngồi cạnh một người con gái khác. “Cơ ta tóc rất
ngắn, cịn ngắn hơn cả tóc em, xinh và tươi rói. Em chết lặng”. Lời kể của nhân vật
xưng “tôi” cũng thắm đượm vẻ trữ tình đằm thắm khi kể về những mong ước,
những khát khao tình u và hạnh phúc rất con gái: “Tơi luôn ao ước được đi chơi
với anh. Tất cả những lần chúng tôi rong ruổi trên các con đường. Lúc sáng tinh
mơ. Lúc nhập nhoạng tối. Tôi đều thấy các con đường, các hàng cây thật đáng yêu
và tuyệt đẹp. Cũng như bây giờ. Suốt thời gian đã qua của tơi chưa bao giờ trăng
đẹp như thế” (Cịn lại một vầng trăng).
Những trang văn của Nguyễn Thị Thu Huệ thanh khiết khi kể về những cái
tôi – những người con gái, những người phụ nữ còn rất trẻ tự kể về mình. Trong 13
truyện có người kể chuyện là nhân vật nữ xưng “tơi” thì có 7 truyện được trần thuật
từ người kể chuyện là những cô gái trẻ tuổi, trẻ lịng, đầy mộng mơ và ước vọng về
tình u. Đó là cơ bé sắp trịn mười tám tuổi vào ngày mai, mơ thấy người mẹ bỏ
hai bố con theo tình cũ. Đơi giày đỏ mẹ chưa kịp đi khi vội vã theo người ta trong

17


dịp sinh nhật con, mẹ tặng lại cho con (Đôi giày đỏ). Trong Biển ấm, người kể
chuyện là cô gái mới hai mươi tuổi, dám tự tìm đến với người yêu – người đàn ông
hơn cô mười hai tuổi. Đất Quảng Ninh với những hầm than là thế giới của anh. Với
cô lúc ấy tất cả thấm đẫm một sắc màu huyền ảo bởi “tơi” nhìn chúng bằng ánh mắt
kẻ đang u. “Tơi” trong Cịn lại một vầng trăng cũng hồn nhiên bày tỏ niềm hạnh
phúc của mình: “Tơi biết mơ mộng từ ngày yêu anh. Biết nhớ mong, dỗi hờn từ ngày

có anh. Và đêm nay. Biết trăng đẹp vì đi bên anh”. Hồng hơn màu cỏ úa lại là
cảm nhận của người kể chuyện xưng ‘tôi” trong một buổi chiều chia tay cuối cấp ba
đong đầy bao kỷ niệm. Thành phố không mùa đông là câu chuyện của cô gái trẻ
ngỡ ngàng biết tin cha mẹ chia tay nhau, cô theo người bạn lên công viên...để khuây
khỏa những nỗi buồn vẫn nghẹn thắt con tim. Cát đợi là lời kể của người con gái đã
trao thân mình ở một vũng cát bên bờ biển khi đang ở độ tuổi học trò. Trong Một
chiều mưa, “em” đứng dưới gốc dâu da con con có mấy chùm hoa trắng như hoa
sấu để đợi anh mà không thấy anh đến. Chợt gặp anh tình tứ với người con gái khác,
“em” mới biết mình bị mắc lừa một kẻ Sở Khanh.
Khơng đi vào những chuyện quá lớn lao, nhân vật con gái – đàn bà trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tự kể về câu chuyện nhỏ bé rất riêng của mình.
Là tình yêu trong sáng nguyên sơ nhưng bị lừa lọc bởi những người đàn ông
từng trải. Là khát khao hạnh phúc vừa trẻ con, vừa ngây thơ lại rất đỗi đàn bà.
Là sai lầm vì bồng bột và cả tin. Tất cả những trái ngang, những mộng mơ,
những hụt hẫng và đau đớn sâu kín nhất của người phụ nữ đều được những nhân
vật xưng “tôi” tỏ bày trên trang viết. Truyện thiên vể kể, tâm sự nên lời văn
thấm đẫm cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Đối thoại trong truyện ít. Những sự
kiện, biến cố xảy ra chỉ là “cái cớ” để người kể chuyện bộc lộ tâm trạng và suy
tư cá nhân. Có lẽ vì thế mà ở một số truyện, người đọc có cảm giác đọc truyện
như đang bước vào những trang nhật ký của người phụ nữ đầy chân thực, chân
thành, cảm động. Nói lúc này, Nguyễn Thị Thu Huệ đang “rút ruột” ra để viết
cũng không sai. Nữ giới – viêt văn là họ “tự ăn mình”.
Trong 24 truyện ngắn được trần thuật từ ngơi thứ nhất tập hợp từ 5 tập truyện
trước, ngồi 13 truyện được kể bằng lời nhân vật nữ, còn 11 truyện có người kể
chuyện xưng “tơi” là nhân vật nam. Trong đó, người kể chuyện đứng bên trong
truyện đóng vai nhân vật chính xuất hiện ở 5 truyện (Người đàn bà ám khói, Sơ-ri
đắng, Ám ảnh, Minu xinh đẹp, Những đêm thắp nắng). Người kể chuyện đứng

18



bên trong truyện đóng vai người quan sát xuất hiện ở 6 truyện (Nước mắt đàn ông,
Dĩ vãng, Chị tôi, Một chuyến đi, Cõi mê, Màu ngả sắc đỏ).
Với vai trị là một nhân vật chính của truyện, người kể chuyện là một nhân vật
nam xưng “tôi” thường kể về những câu chuyện của bản thân có liên quan đến nhân
vật khác là người phụ nữ. Đối thoại trong truyện được xây dựng nhiều hơn nhằm
bộc lộ suy nghĩ và tính cách, bản chất của người đàn ơng. Người đàn bà ám khói là
hình ảnh của người tình cũ trong mắt người kể chuyện là “tôi” khi gặp lại trong một
đám tang. Người kể chuyện bộc lộ là một kẻ nghiệt ngã, vơ tình, sĩ diện và tàn nhẫn.
Sơ-ri đắng là cảm nhận của người kể chuyện xưng “tôi” khi giữ mãi tình yêu với
người con gái đã chết vì một kẻ vơ lại, vơ tình. Trong Những đêm thắp nắng –
nhân vật “tơi” kể về câu chuyện của chính mình khi bị một phụ nữ có gia đình bội
bạc và dối trá ngay trước mặt. Riêng hai truyện Ám ảnh và Minu xinh đẹp, người
kể chuyện lại kể về câu chuyện khác, khơng phải là tình u. Ám ảnh là câu chuyện
của chàng trai tên Thành mơ về người cha tàn nhẫn, hắt hủi mẹ để đi với người tình,
anh vừa qua tuổi vị thành niên đã bắn chết hai mẹ con người tình của bố. Anh bị kết
tội tử hình, lúc chết chỉ kịp gọi hai tiếng “Mẹ ơi”. Minu xinh đẹp được kể bằng lời
của nhân vật xưng “tôi” – một thiếu tá đã về hưu, mong đổi đời nhờ ni chó nhưng
thất bại. Những nhân vật này góp phần khắc họa thế giới đàn ơng đa dạng trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Đối với hình tượng người kể chuyện xưng “tơi” chỉ đóng vai trị là người quan
sát, 6 truyện được trần thuật lại một cách tương đối khách quan. Trong Nước mắt
đàn ông, “tôi” – một đứa cháu ruột kể về nỗi đau riêng của cậu mình khi khơng
hạnh phúc trong cuộc sống gia đình, khi người yêu bỏ đi và vật chứng của tình yêu
bị giết bởi chính tay người vợ. Dĩ vãng được kể bằng nhân vật “tơi” – một anh lính
đến thăm thủ trưởng của mình – ơng Xung đang sống trong cô đơn tột độ. Nhờ
người kể chuyện là người chứng kiến ở hai khoảng đời của nhân vật chính nên
những thay đổi của nhân vật chính được trần thuật lại rất chi tiết, cụ thể. Chị tôi là
câu chuyện của người kể chuyện xưng “tôi” – một sinh viên đại học sống nhờ đồng
tiền buôn thuốc lá dạo của chị ở bến tàu. Chị chết vì tại nạn lúc qua đường, để lại

nỗi ân hận và thương xót vơ bờ trong lịng “tơi”. Người kể chuyện hiện diện trong
Một chuyến đi là chàng trai vừa tròn 18 tuổi, kể về người cậu đi bộ đội, lúc trở về
đã là thương binh. Cõi mê là câu chuyện về người cô bị điên được một người đàn
ơng khỏe mạnh, bình thường cưới làm vợ. Người trần thuật trong truyện là đứa cháu

19


ruột của cô. Người kể chuyện xưng “tôi” trong Màu ngà sắc đỏ là một người đã
cứu vớt một người con gái tên Hạnh phải nạo phá thai vì yêu Hưởng. Câu chuyện
chủ yếu diễn ra trong đối thoại giữa tơi và Hưởng, từ đó những vấn đề của câu
chuyện tình yêu tình yêu riêng tư, bản chất của người đàn ơng làm Hạnh khổ lộ diện.
“Tơi” đóng vai trị là người cật vấn, nói lên tiếng nói của cá nhân nhưng cũng là băn
khoăn và cảm nhận của số đơng khi biết chuyện này. Thương Hạnh và trách móc,
giận người đàn ông bao nhiêu, “tôi” càng hỏi dồn dập bấy nhiêu. Lúc đầu, cán cân
đối thoại nghiêng về “tôi” vì tơi là là kẻ nắm bằng chứng, “tơi” đã làm một hành
động cao thượng là cứu Hạnh. Hưởng lúc này là kẻ tội đồ. Thế nhưng dần dần, qua
sự kể lể giải thích của Hưởng, cán cân ấy lại nghiêng về phía người đàn ơng đã có
vợ và vơ trách nhiệm với người tình. “Tơi” từ bực bội đã chuyển sang thương cảm
cho anh.
Khảo sát một loạt hình ảnh người kể chuyện xưng “tơi” với vai trị là nhân
chứng ở 5 tập truyện đầu, dễ nhận thấy, những cái tôi trần thuật này dù chỉ là kể lại
câu chuyện theo sự chứng kiến của mình nhưng với cách nhìn riêng đầy nhân bản,
với sự rung động chân thực nên câu chuyện vẫn cuốn hút người đọc. Người kể
chuyện xưng “tơi” vẫn bộc lộ, suy nghĩ của mình về nhân vật chính và câu chuyện
mà anh ta được chứng kiến, vì vậy truyện được kể lại khơng phải chỉ là cái vỏ sự
kiện mà còn chứa đựng nhiều tâm tư, nỗi niềm của nhân vật chính do nhân vật này
có giao tiếp với người kể chuyện. Người kể chuyện hiện diện tinh tế, đồng cảm và
chân thành với mỗi câu chuyện kể ra, vì vậy mà người kể chuyện ngơi thứ nhất
đóng vai trị quan sát cũng cho thấy tính cá nhân hóa của mình.

Sau 5 tập truyện đầu ra đời, đến năm 2012, tập Thành phố đi vắng mới ra mắt
độc giả. Cách viết khác về một vùng hiện thực mới đã khiến năm truyện được trần
thuật theo ngôi thứ nhất mang một màu sắc khác. Cũng là những cái tơi kể về câu
chuyện của mình hoặc của người khác nhưng thay vì kể những câu chuyện là tình
yêu, là khát khao, là mong ước một gia đình, một sự giàu sang hay giản đơn là sống
cho tốt, nhân hậu và đơn giản thì người kể chuyện ở 4 truyện trong Thành phố đi
vắng lại kể những chuyện trong cuộc sống chốn thị thành đang trôi như con thoi,
trong đó, con người hoạt động nhanh, suy nghĩ nhanh, ít khi có thời gian ngừng lại
để mộng mơ hay ngẫm nghĩ sâu xa về một điều gì đó. Khơng cịn những trang văn
rất nữ tính, rất đàn bà, khơng cịn những cái tôi phụ nữ chia sẻ về mọi ngõ nẻo trong
tâm hồn mình. Những cái tơi kể chuyện tham gia vào câu chuyện, hoạt động bề

20


ngồi như nhiều nhân vật khác, rất ít suy tư, rất ít cảm xúc và rất ít khi rung động.
“Tơi” kể về những việc mình làm và những việc người khác làm thản nhiên, có khi
lạnh lùng và lạnh nhạt. Đó có phải là chân dung của con người ngày nay? Con
người hiện đại? Hời hợt và vô cảm?
Rồi cũng tới nơi thôi – tiêu đề truyện được lấy từ lời nói của nhân vật bố cục
chặt – một người đàn ơng ở một một mình nơi miền núi sương lạnh. “Tơi” – người
phụ nữ chốn thị thành, vì nhớ ông mà tìm lên, cùng tâm sự những chuyện chẳng đâu
vào đâu. Rồi ơng bỏ đi nơi khác vì khơng chịu nổi nỗi nhớ nhân vật “tôi” vu vơ xâm
chiếm.
Câu chuyện đại chiến được trần thuật lại từ người kể chuyện xưng “tơi” có
biệt danh ở nhà là “lười”. Ở nhà, “tơi” đảm nhận cho cá, mèo, chó của anh trai ăn.
Rồi anh rủ “tơi” đi xem phim Xích Bích với ba người bạn gái khác. Sau đó, “tơi” đi
du học ở Thụy Điển. Anh trai lấy chị Hường – người phụ nữ có máy chạy tim trong
lồng ngực vì nếu anh không, ai lấy chị ấy.
Không thể kết thúc qua lời kể của nhân vật “tôi”, bức tranh của một gia đình

rạn vỡ về tình cảm và đạo đức được khắc họa một cách sinh động. Chỉ vì nhà có bọ
chét mà khơng ai dám dọn. Họ quan tâm đến bọ chét nhiều hơn là bệnh tật của
người mẹ già nay đã phó thác cho người giúp việc. Bán nhà, mỗi người một nơi,
người cô đơn, người phát điên là hậu quả tất yếu của sự đứt đoạn sợi dây liên kết
gia đình.Vợ chồng, tiền bạc và sự nguội lạnh tình người tự nó kéo con người ra xa
nhau, tự đưa con người vào bi kịch.
Thu xếp cuối đời là đối thoại giữa “tơi” và Hoa trong phịng xơng hơi về
những thường nhật trong cuộc sống bộn bề. Không cịn những đoạn độc thoại nội
tâm kéo dài, khơng cịn những tâm sự thiết tha, da diết mà không kém phần chua
xót, tất cả bức tranh cuộc sống hiện lên rõ ràng như một cuốn phim thời sự. Trong 4
truyện ngắn ở tập Thành phố đi vắng, khơng cịn dạng người trần thuật xưng “tơi”
tự kể về mình với những trở trăn, những yêu thương, những ước ao, mong đợi, hụt
hẫng, tuyệt vọng, đớn đau. Người trần thuật – hiện diện là nhân vật tham gia vào
câu chuyện chỉ đóng vai trò đồng đẳng với những nhân vật khác. Trần thuật về
mình, về gia đình mình nhưng chủ yếu đi vào sự kiện, biến cố mà ít bày tỏ suy nghĩ
và cảm xúc cá nhân, nếu có bảy tỏ thì cũng khơng sâu sắc. Người kể chuyện lúc này
góp phần xây dựng chân dung của đời sống đô thị phồn hoa, lạnh lẽo, nhạt nhẽo
tình người, thậm chí trơ lì cảm xúc.

21


Như vậy, phân tích 28 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ được trần thuật từ
người kể chuyện ngôi thứ nhất, có thể nhận thấy sự khác biệt trong người kể chuyện
xưng “tôi” ở 45 truyện đầu và 16 truyện sau. Người kể chuyện đã làm tốt vai trị của
mình trong việc kể chuyện với từng bối cảnh khác nhau.
1.1.3. Người kể chuyện tiềm ẩn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Khác với người kể chuyện là một nhân vật trong truyện, xuất hiện trực tiếp,
được nói năng, chia sẻ mọi vấn đề thuộc về mình, người kể chuyện ngơi thứ ba –
người kể chuyện tiềm ẩn chỉ thực hiện hành vi kể lại. Lúc này, người kể chuyện ẩn

đi, đứng đằng sau nhân vật và các sự kiện để kể, bằng cách đẩy nhân vật ra trước
độc giả. Vì thế, trước mắt độc giả, khơng thấy người nói, chỉ thấy hiện thực được
trình bày.
Khảo sát 61 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, kết quả cho thấy: người kể
chuyện tiềm ẩn chiếm số lượng tương đương với người kể chuyện xưng “tôi” (33/61
truyện, chiếm 54%).
Ở 5 tập truyện đầu của Nguyễn Thị Thu Huệ, truyện kể có người kể chuyện
tiềm ẩn gồm 21/45 truyện (chiếm 46,6%). Trong 21 truyện ngắn này, người kể
chuyện thường mượn điểm nhìn nhân vật để kể chuyện. Chính vì thế, người kể
chuyện tiềm ẩn đã hòa vào nhân vật khiến mỗi trang văn dường như là lời của nhân vật
đang tự kể về mình. Bằng sự nhạy cảm của một ngịi bút nữ có thế mạnh rất riêng khi
viết về những câu chuyện liên quan đến nữ giới, Nguyễn Thị Thu Huệ “thất thường,
lóe sáng và tý chút đỏng đảnh” ấy đã đưa người đọc vào một đời sống hiện thực giàu
cảm xúc, nghĩ suy của người phụ nữ về tình u, về hơn nhân, hạnh phúc.
“Đừng đi anh.Hãy tin em.Hãy tha lỗi cho em. Em yêu anh!” Lời của người
con gái tên Hoài với trạng thái đang nức nở, ánh nước loang loáng hiện ra trên
khn mặt có những nét rất đẹp nhưng thống vẻ nhầu nhò đã mở đầu truyện Xin
hãy tin em rất tự nhiên mà xúc động. Người kể chuyện ngôi thứ ba đã mượn điểm
nhìn của Hồi để kể về đời sống và tính cách của cơ ấy. Hồi – một cơ sinh viên
vốn cá tính “uống hàng lít rượu trắng không say, hút thuốc lào không mệt mỏi, nhảy
đầm thâu đêm và đánh đu với những người đàn ông nào chịu được cơ”. Hồi chỉ
thay đổi khi tình u với Thắng – chàng kỹ sư vô tuyến điện cứ lớn dần. Trong lần
đầu về ra mắt gia đình Thắng đúng dịp sinh nhật mẹ anh, Hoài đã bộc lộ bản chất
thớt-trơ vốn đã giấu kỹ hơn một năm nay. Tình u tan vỡ. Hồi cố níu kéo. Nhưng

22


anh khơng tin cơ, vì “Tơi định lấy vợ chứ không định lấy…đĩ”. Rốt cuộc, cô lại trở
về bên chén rượu.

Cũng tựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể, người kể chuyện tiềm ẩn trong
Phù thủy đã dễ dàng thâm nhập vào đời sống của một cô bé mười hai tuổi. Cơ bé
sống trong một gia đình bố mẹ sắp ly hôn, ngày nào cũng cãi nhau và đánh mắng
con. Trong mắt họ, cô là yêu tinh, là con quái thai. Tất cả mọi suy nghĩ của cô bé về
bố mẹ thay đổi khi ban đêm, cô phát hiện ra họ ngủ với nhau êm đềm. Họ chính là
phù thủy.
Hiện rõ trên trang truyện khơng cịn là cái tơi đang kể chuyện, Nguyễn Thị
Thu Huệ đã trao quyền cho nhân vật để nhân vật dường như tự kể, tự sẻ chia. Người
kể chuyện đã ẩn tàng sau trang viết, để trong Cầu thang, Trân như đang trải lòng về
cuộc sống mỏi mệt, xô bồ. Ngày nào cô cũng cố leo lên sáu mươi tám bậc cầu thang
để đến với người yêu, leo đủ bảy tầng gác để tới phòng làm việc. Tâm lý của cô chỉ
hồi sinh khi anh bạn đồng nghiệp đặt một chiếc hôn lên môi cô.
Với lối trần thuật từ người kể chuyện ngôi thứ ba, những dịng chảy cảm xúc
của nhân vật vẫn được tn chảy dạt dào trên câu chữ. Đây là thế mạnh của Nguyễn
Thị Thu Huệ khi chị viết về những mảnh đời, những người phụ nữ say đắm hay
tuyệt vọng trong tình yêu, đổ vỡ trong cuộc sống gia đình.
Sao – nhân vật chính trong truyện Giai nhân được khắc họa dường như bằng
chính lời của cơ. Cơ sống trong một khơng gian nhộn nhạo, nơi là đám tang khói
hương nghi ngút, nơi là quán bún chả với khói thịt mỡ bốc lên. Cô – một người phụ
nữ luôn chiến thắng trong những cuộc tình, thích tự do, giờ đây mới thấm thía cái
cảm giác cơ đơn của một giai nhân khơng cịn được ai để ý tới. Cơ nức lên: “Khốn
nạn. Sao người mỗi ngày một đông như kiến mà tơi thì cơ đơn thế này. Ai đến với tơi
bây giờ. Chẳng lẽ. Cuộc đời của tôi. Một người đàn bà 38 tuổi thế này mãi
sao?”.Trong những dòng độc thoại nội tâm này, người kể chuyện tiềm ẩn đã im bặt, để
không gian nghệ thuật trong truyện là không gian riêng cái tơi đang cảm xúc tột độ.
Khơng cịn bóng dáng người kể chuyện trong những dòng văn miêu tả suy
nghĩ của nhân vật một cách trực tiếp và sâu sắc như thế này: “Mại nghĩ - Ai lại có
thể ngủ với một người đàn ơng chỉ gặp nhau lống thống trong những cuộc họp
cơng ty. Ngày mai, ngày kia và sau này nữa, mỗi lần gặp Hưng, mình sẽ thế nào?
Và nhỡ mình u Hưng thì sao?” Cái tơi nội cảm của nhân vật như những con sóng

trào lên, cuộn xuống, khi mạnh mẽ khi bấy yếu, khi sôi nổi nồng nàn, khi dịu dàng

23


trầm lặng. Người kể chuyện tiềm ẩn đã phát huy vai trò khi tạo cảm giác cho người
đọc về một cuộc sống mà ở đó, chính con người khơng ngại giãi bày, tâm sự, sẻ
chia, như muốn kiếm tìm một sự đồng cảm trong chuỗi bất hạnh của thân phận.
Trong tập Thành phố đi vắng, người kể chuyện ngôi thứ ba đặc biệt chiếm ưu
thế. Trong 16 truyện ngắn có 12 truyện được trần thuật người kể chuyện tiềm ẩn,
chiếm 75%. Nếu như trong 5 tập truyện đầu, người kể chuyện ngơi thứ ba thường
mượn điểm nhìn của nhân vật chính để tự kể về câu chuyện của cá nhân nhân vật ấy
cùng đủ đầy những suy nghĩ phức tạp, những rung động tế vi trong tâm hồn thì
người kể chuyện tiềm ẩn ở 12 truyện mới đây lại mang một khn hình khác. Ở đây,
chúng tơi phân chia người kể chuyện trong 12 truyện thành 2 loại: người kể chuyện
tiềm ẩn dựa vào điểm nhìn của nhân vật đẻ kể (Một đời sống khác, Trong lúc ăn
một bát phở gia truyền, Coi như không biết, Chúng ta cần suy nghĩ về chuyện
này, Chủ nhật được xem phim hoạt hình, Với tay là đến, Của cha của Con
những cành vạn niên thanh, Thành phố đi vắng); người kể chuyện tiềm ẩn dựa
vào điểm nhìn của chính mình (X-Men có mùi trường đua, Sống gửi thác về,
Phòng chiếu phim số 9, Cú mèo và rượu hoa).
Dù cùng sử dụng chung người kể chuyện tiềm ẩn dựa vào điểm nhìn của nhân
vật nhưng ở hai thời điểm sáng tác khác nhau, truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ lại
mang những sắc màu riêng biệt. Khơng cịn những trang viết mà ở đó nhân vật giãi
bày những góc khuất ẩn sâu trong tâm hồn, những rung động thầm kín, những ước
ao bỏng cháy về tình u hơn nhân, hạnh phúc. Thay vào đó, người kể chuyện tiềm
ẩn lại mượn điểm nhìn nhân vật để kể về cuộc sống bộn bề, đầy ắp sự kiện, dồn dập
hành động, chằng chịt các mối quan hệ nhưng lại thiếu tình người. Chính bản thân
nhân vật được người kể chuyện đặt điểm nhìn để kể cũng là những con người hiện
đại thiếu sâu sắc trong cuộc sống. Truyện chỉ kể những cơn đau đầu do những giấc

mơ vặt vãnh của Mai (Một đời sống khác), chuyện một cô gái vừa ăn phở vừa
chứng kiến cảnh bát vỡ, rồi sợ hãi một đám thanh niên có vẻ cướp giật mà mấy
ngày sau cơ biết trong bọn chúng có kẻ giết người (Trong lúc ăn một bát phở gia
truyền). Một cô gái xa thành phố ba năm, khi quay trở lại, tất cả như đông máu
(Thành phố đi vắng).
Trong tập Thành phố đi vắng, bên cạnh những câu chuyện quá lạnh lùng, vẫn
có những trang viết rưng rưng tình người – tình đời dẫu mn vàn đắng cay. Người
kể chuyện ngôi thứ ba kể những chuyện đầy xúc động. Của cha của Con những

24


×