Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

QUAN ĐIỂM VỀ NHÂN SINH TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.77 KB, 58 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------

VÕ THÁI BẢO

QUAN ĐIỂM VỀ NHÂN SINH
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2021


MỤC LỤC


3

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong thế giới tự nhiên và xã hội, con người là giá trị cao nhất. Với
con người là mục tiêu, động lực và là chủ thể của mọi hoạt động sáng tạo ra
nền văn hóa, văn minh của nhân loại. Cho nên, trong tư duy nhân loại, con
người không những là vấn đề thực tiễn mà còn là vấn đề cốt lõi của các lý
luận xã hội, nhân văn, kinh tế, chính trị…


Vào thời kỳ trước đổi mới, nước ta do những hạn chế của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung trong quản lý nhà nước và xã hội, vấn đề con người
đặc biệt là những lợi ích chính đáng của cá nhân chưa được chú trọng đúng
mức. Chính vì vậy, việc vun đắp bồi dưỡng đào tạo đến việc sử dụng, phát
huy nhân tố con người cịn nhiều hạn chế, gặp nhiều khó khăn. Nên đây là
một trong những nguyên nhân cơ bản làm nền kinh tế nước ta rơi vào tình
trạng trì trệ, khủng hoảng, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, nhà nước, với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Với tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, còn là kết quản của sự vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể ở
nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Dưới ánh
sáng tư tưởng của Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến
lên, giành được thắng lợi có ý nghĩa lịch sử mang tầm thời đại.
Do đó, trong quá trình hiện nay, với quá trình đổi mới, do u cầu
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như yêu cầu
của quá trình hội nhập kinh tế với thế giới. Vì thế, hơn lúc nào kết, vấn đề


4

con người được đặt ra một cách cấp bách. Bởi vì, mọi cuộc cải biến cách
mạng sẽ khơng đạt kết quả, nếu như mục tiêu của nó khơng phải vì con
người, với tất cả nhu cầu và lợi ích thiết thực của nó. Do đó, việc nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân sinh
quan nói riêng là cần thiết, giúp soi sáng, nhận diện đúng vấn đề con người.
Từ đó, góp phần vận dụng thực hiện chiến lược về con người nhằm phát
huy cao nhất yếu tố con người, cũng cố lòng tin trong quần chúng nhân dân

vào sự lãnh đạo của Đảng ta, vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dụng chủ nghĩa xã hội cũng như phấn đấu đấu tranh cùng với nhân dân
tiến bộ trên thế giới vì sự nghiệp giải phóng con người và quyền con người.
Từ đó, xây dựng nên một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, còn xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Xuất phát từ những lý do trên nên tác giả chọn “Quan điểm về nhân
sinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh và ý nghĩa lịch sử” làm đề tiểu của mình.
2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đối với vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân sinh quan nói riêng từ trước đến nay thì có
nhiều cơng trình nghiên cứu ở những phương diện khác nhau được đăng tải
lên các tạp chí, sách tham khảo, chun khảo, giáo trình, luận văn thạc sĩ,
luận án tiến sĩ hay những cơng trình nghiên cứu khoa học đã bảo vệ thành
cơng. Các cơng trình nghiên cứu đã luận giải vấn đề này một cách hết sức
đa dạng và sâu sắc trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, có thể khái quát
thành những hướng nghiên cứu chủ yếu sau:


5

Thứ nhất, những cơng trình nghiên cứu theo hướng lý luận về tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người nói chung. Có thể thấy rằng vấn đề về
con người trong tư tưởng hồ chí minh được rất nhiều tác giả quan tâm bàn
luận và cũng đã có những cơng trình tiêu biểu lớn có khái quát như: Tác

phẩm Về phát triển tồn diện con người thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá, cuốn sách do GS,VS. Phạm Minh Hạc chủ biên; Cuốn Mấy vấn đề
triết học về xã hội và phát triển con người của tác giả Nguyễn Văn Huyên;
cuốn Tư tưởng triết học về con người của Vũ Minh Tâm chủ biên; cuốn Tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người của tác giả
Nguyễn Thái Sơn; cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách
đối với con người; Luận án tiến sĩ Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
giải phóng con người của tác giả Nguyễn Trung Dũng; Luận văn thạc sĩ
Quá trình hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về con người của
tác giả Đặng Hữu Sửu.
Tại Hội thảo do Viện nghiên cứu Con người thuộc Viện Khoa Học
Xã Hội Việt Nam tổ chức năm 2001, kỷ yếu xuất bản năm 2003 có hai bài
lấy tiêu đề Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Trong đó, chuyên gia cao cấp
Việt Phương có nhận xét: “nhắc đến Hồ Chí Minh là chúng ta liên tưởng
ngay đến tư tưởng nhân văn...Hồ Chí Minh là người trong suốt đời mình
tìm kiếm giá trị con người... Một trong những cống hiến to lớn của Hồ Chí
Minh đối với lồi người là chủ nghĩa nhân văn về con người được thể hiện
rõ nét mang đậm tính dân tộc". Bài thứ hai mang tiêu đề: Chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu con người. Trong bài viết
này, tác giả đã nêu lên bốn nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh,
như lịng u thương con người, ai trong con người, giải phóng con người,
con đường thực hiện triết lý nhân văn.


6

Thứ hai, hướng nghiên cứu liên qua trực tiến đến vấn đề nhân sinh
của Hồ Chí Minh có thể khái qt một số cơng trình như sau: GS Trần Văn
Giàu trong bài Nhân cách của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong kỷ yếu “Hồ Chí
Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa, đã nhấn mạnh một

số nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh , như “ thương người,
quý người, nâng đỡ con người..., khiêm tốn, giản dị..., yêu thiên nhiên , hòa
hợp với thiên nhiên”, Tinh thần cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn - nhân đạo
chính là con người - yêu thương con người, quý trọng con người, giúp đỡ
lẫn nhau, tất cả vì con người,
Trong tác phẩm Tư tưởng nhân văn trong di sản qn sự Hồ Chí
Minh của Trần Đình Châu, đã phân tích về nguồn gốc chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh, nêu lên một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa
nhân văn là lòng yêu thương con người, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh
và phẩm giá con người. Tác phẩm Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với
việc giáo dục đội ngủ cán bộ, đảng viên hiện nay của Hoàng Trung Và
Phạm ngọc Anh đồng chủ biên, cũng khẳng định: tư tưởng nhân văn của
Hồ Chí Minh khơng chỉ biểu hiện ở tình thương u con người, thương yêu
nhân dân hết sức rộng lớn và sâu sắc, mà còn biểu hiện ở việc chăm lo, bồi
dưỡng, sử dụng phát huy sức mạnh của con người, của nhân dân và giải
phóng con người, mang lại hạnh phúc cho con người.
Đặc biệt trong hướng nghiên cứu này còn thể hiện ở những bài báo
khoa học được đăng trên Tạp chí t như: Quan điểm về dân sinh và triết lý
nhân sinh Hồ Chí Minh của tác giả Đặng Hữu Tồn được đăng trên tạp chí
Triết học, số 3 (214), tháng 3 – 2009. Trong bài viết này, tác giả đã luận
giải và khẳng định cái làm nên giá trị tinh thần lớn lao và có ý nghĩa cải tạo
thực tiễn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm vì con người và
giải phóng con người - quan điểm dân sinh thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo


7

cao cả và tư tưởng nhân văn sâu sắc, là triết lý nhân sinh. Quan điểm dân
sinh đó, triết lý nhân sinh đó lấy thực tiễn cuộc sống làm điểm xuất phát,
lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu. Đó là quan điểm hành

động, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mỗi con người, cho dân
tộc và cho cả cộng đồng nhân loại mà hành động, là triết lý của cuộc sống,
là đạo lý làm người, đạo lý làm việc. Hồ Chí Minh về dân sinh của tác giả
Nguyễn Đình Hịa được đăng trên Tạp chí Triết học, số 1 (212), tháng 1 –
2009. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một tư tưởng khoa học và đầy
tính nhân văn của Hồ Chí Minh - tư tưởng về dân sinh. Trong quan niệm
của Người, chủ nghĩa xã hội gắn chặt với vấn đề dân sinh, luôn coi trọng và
thực hiện ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng
nêu rõ phương thức, biện pháp để giải quyết một cách hiệu quả vấn đề dân
sinh. Đó là thực hành tiết kiệm, phát triển sản xuất, gắn phát triển kinh tế
với chăm lo cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Nhìn chung cho đến nay thì quan điểm về nhân sinh trong tu tưởng
Hồ Chí Minh đã cũng có nhiều cơng trình của nhiều tác giả nghiên cứu có
liên quan. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào trình bày
nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống quan điểm về nhân sinh trong tư tưởng Hồ
Chí Minh và ý nghĩa lịch sử.
3.
3.1.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Từ góc độ triết học, tiểu luận làm rõ những nội dung cơ bản về vấn
đề nhân sinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó rút ra được ý nghĩa lịch
sử của vấn đề.

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu



8

Nhằm để đạt được mục đích trên, trong q trình nghiên cứu tiểu
luận phải tập trung giải quyết nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, khái quát điều kiện lịch sử - xã hội và tiền đề lý luận hình
thành quan điểm về nhân sinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, tập trung phân tích những nội dung cơ bản về quan điểm
nhân sinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó rút ra ý nghĩa lịch sử của
vấn đề.
4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận, tiểu luận dựa trên cơ sở của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
nói chung và cụ thể là nhân sinh quan của Hồ Chí Minh. Tiểu luận cịn
tham khảo, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu lý luận đã đạt được của
các cơng trình có liên quan trực tiếp đến đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu, tiểu luận sử dụng phương pháp luận
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả
cịn sử dụng tổng hợp các phương pháp như: Phương pháp lịch sử - logic,
phân tích và tổng hợp, so sánh, hệ thống, liệt kê,…

5.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tác giả không nghiên cứu tồn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh mà chỉ tập
chung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm nhân sinh.

6.


Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa khoa học, tiểu luận trình bày quan điểm về nhân sinh trong
tư tưởng Hồ Chí Minh .
Ý nghĩa thực tiễn, thơng qua việc trình bày, phân tích những nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm nhân sinh, tiểu luận góp phần rút ra


9

được ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển đời sống xã hội của
con người. Ngoài ra, kết quả của đề tài tiể luận có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các mơn tư tưởng Hồ Chí
Minh, mơn khoa học xã hội, mơn lý luận chính trị trong những trường đại
học hay những đọc giả quan tâm đến vấn đề này.
7.

Kết cấu của luận văn
Tiểu luận được kết cấu thành: Phần mở đầu, phần nội dung gồm 2
chương, 5 tiết và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.


10

Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI, TIỀN ĐỀ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM VỀ NHÂN SINH
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
GIAI ĐOẠN THẾ KỶ XIX ĐẾN THẾ KỶ XX CHO SỰ HÌNH THÀNH
QUAN ĐIỂM VỀ NHÂN SINH TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới giai đoạn thế kỷ XIX đến
thế kỷ XX với sự hình thành quan điểm về nhân sinh trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
Vào những năm cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở
trình độ cao và chuyển biến mạnh mẽ từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền, tức là chủ nghĩa đế quốc. Để góp phần phát triển mở
rộng thị trường, chủ nghĩa tư bản tiến hành xâm lược các nước phương
Đông, các nước lạc hậu ở châu Phi, châu Mỹ Latinh và chỉ có một số đế
quốc là Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Mỹ… nơ dịch và bóc lột đa
số nhân loại. Chính vì điều này tạo nên sự tác động trực tiếp đến đời sống
xã hội Việt Nam. Càng làm cho cuộc sống của nhân dân các nước thuộc địa
bị bóc lột, quyền con người bị xâm phạm thơ bạo. Cùng với đó mâu thuẫn
cơ bản trong xã hội tư bản: mẫu thuẫn giữa vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế
quốc đã làm sản sinh một mâu thuẫn mới ngày càng phát triển gay gắt là
mẫu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Từ
đầu thế XX, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa bùng nổ
mạnh mẽ nhưng chưa nơi nào giành được thắng lợi.
Vào chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) đã càng làm
thêm cho mẫu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa và làm cho chủ nghĩa


11

tư bản bị suy yếu, tạo điều kiện cho Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười Nga (1917) do V.I.Lênin và Đảng Bơnsơvích lãnh đạo giành được
thắng lợi. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành V.I.Lênin và
Quốc tế Cộng sản chủ trương phong trào cộng sản thế giới cần phải giúp đỡ
một cách thiết thực các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trong cuộc đấu tranh
đòi độc lập tự do của họ. Chính vì vậy, với thắng lợi của Cách mạng xã hội
chủ nghĩa tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã tạo ra

những tiền đề và điều kiện thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước phát triển mạnh mẽ trong đó có Việt Nam.
Tóm lại, tình thình thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã có
nhiều chuyển biến to lớn, trong đó chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh
chống, chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền của
chủ nghĩa đế quốc và trở thành một hệ thống thế giới. Trong tình hình mà
nhiều phong trào đấu tranh giành độc lập ở các nước thuộc địa nổ ra và mở
rộng trên phạm vi thế giới. Hơn nữa là, sự thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga đã góp phần cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Với những điều kiện lịch sử đó là hiện thực đã ảnh hưởng đến
quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng của Người về nhân sinh quan nói riêng.
1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam giai đoạn thế kỷ XIX đến
thế kỷ XX với sự hình thành quan điểm về nhân sinh trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
Bên cạnh, thực tiễn lịch sử - xã hội thế giới cuối kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đã ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng đối với Người thực
tiễn của đất nước Việt Nam là quan trọng nhất lúc bấy giờ. Chính từ thực
tiễn của dân tộc lúc bấy giờ mới là yêu cầu quan trọng và động lực thôi


12

thúc Hồ Chí Minh khơng ngừng nỗ lực hoạt động và tích cực tìm ra lý luận
chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn cách mạng của Việt Nam.
Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX là một xã hội phong kiến
nơng nghiệp lạc hậu, trì trệ. Do đó, mà nền phong kiến Việt Nam do triều
đình Nguyễn đang trong giai đoạn khủng hoảng và bắt đầu suy yếu. Một
mặt, với tính chất bảo thủ, độc đốn, mặt khác nhà Nguyễn lại không thay
đổi quan hệ sản xuất lỗi thời mà cịn duy trì bằng mọi biện pháp. Bằng

chính sách quản lý lạc hậu, mà nhà Nguyễn đã dẫn đến nền kinh tế nước ta
rơi vào tình trạng suy thối về mọi mặt: nơng nghiệp, cơng nghiệp và
thương nghiệp càng khơng thể nào phát triển. Với tính chất của chế độ
phong kiến nhà Nguyễn vẫn muốn duy trì bảo vệ, đặc lợi ích của mình mà
nhà Nguyễn đã cố ra sức cũng cố trật tự bằng mọi cách: về chính sách đối
nội thì ra sức bóc lột và đàn áp quần chúng nhân dân; Về chính sách đối
ngoại thì bế quan tỏa cảng, hạn chế việc giao lưu kinh tế với các nước bên
ngoài, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển, làm cho nền kinh tế
nước ta ngày càng trở nên suy yếu. Với pháp luật hà khắc của chế độ phong
kiến triều Nguyễn cùng với tư tưởng lạc hậu đã tạo nên sự kìm hãm nhân
dân trong trật tự của nền chuyên chế cực đoan làm cho đời sống nhân dân
cực khổ, nạn đối thì tràn lan, nhân dân rơi vào trình trạng ngày càng đâu
khổ, lầm than.
Sau khi thực dân Pháp chiếm được Việt Nam đã liên kết với giai cấp
địa chủ phong kiến Việt Nam nhằm giữ vững với việc thống trị của mình.
Nhằm để thực hiện điều này thì thực dân Pháp tiến hành nhiều chính sách
duy trì phương thức sản xuất phong kiến kết hợp đan xen với phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong kinh tế, thì thực dân Pháp độc quyền và
đưa ra chế độ thuế khóa bóc lột nặng nề cho nên chính sách kinh tế Việt
Nam đều phụ thuộc vào thực dân Pháp càng làm cho kinh tế không thể phát


13

triển được.Việc thực hiện xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp khơng chỉ
nắm tồn bộ về kinh tế chính trị - xã hội đồng thời cịn thực hiện chính sách
văn hóa nhằm đạt mục đích ngu dân, chúng đã tiến hành đưa văn hóa ngoại
lai để loại bỏ văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam để thực hiện điều này
thực dân Pháp truyền bá văn chương yêu đương ủy mị của văn hóa phương
Tây vào Việt Nam và tiến hành thủ tiêu Nho học. Với chính sách kìm hãm

mà thực dân Pháp thực hiện càng làm cho xã hội Việt Nam ngày càng lạc
hậu, bế tắc, suy tàn, khơng lối thốt.
Với việc xâm lược và những hiểm họa mà thực dân Pháp đem lại
cho đất nước Việt Nam thì ý thức về quyền tự do dân tộc, truyền thống
u nước, ý chí của dân tộc Việt Nam khơng hề bị khuất phục, không chịu
sự áp bức, nô dịch và lệ thuộc các khác xâm lược; giải phóng dân tộc, độc
lập dân tộc và tự do là yêu cầu bức thiết của nhân dân. Vì vậy, mà từ Bắc
đến Nam ở đâu cũng nổi dậy nhiều phong trào chống Pháp và chống cả
triều đình phong kiến liên kết với Pháp. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước và cách mạng ở nước ra nổ
ra, phát triern mạnh mẽ và lan rộng trong cả nước đã thể hiện tinh thần
yêu nước mãnh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và phong kiến đã lỗi thời của triều đình nhà Nguyễn. Với cuộc
nổi dậy được thúc đẩy tinh thần yêu nước mãnh liệt và lòng căm thù giặc
sục sôi lúc nào cũng sẳn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh nhưng các
cuộc khởi nghĩa thời kỳ đều lần lượt thất bại vì chưa có một đường lối
chính trị đúng đắn và khơng phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Những phong trào vũ trang kháng chiến thất bại do các sĩ phu vẫn còn
mang ý thức hệ phong kiến, chưa tin vào lực lượng của nhân dân nên đã
bất lực trước sức mạnh của thực dân xâm lược.


14

Mặc dù, phong trào khởi nghĩa chống thực dân Pháp ngày càng phát
triển rộng khắp nhưng lần lượt bị dập tắt vì chưa lơi cuốn được tầng lớp
nhân dân và phong trào đó chủ yếu do các sĩ phu phong kiến truyền bá,
dẫn dắt không tránh khỏi những hạn chế. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước lúc bấy giờ là do đường lối cứu
nước chủ yếu dựa trên lý luận dân chủ tư sản đã lỗi thời về mặt lịch sử,

không thể là thứ lý luận đúng đắn có thể vạch ra con đường giải phóng
cho dân tộc ta. Vì vậy, cách mạng Việt Nam địi hỏi phải có một trình độ
tư duy lý luận cao hơn. Chính vì, điều kiện thực tiễn của phong trào đấu
tranh yêu nước Việt Nam phong phú đã đưa đến những nhận thức cho Hồ
Chí Minh và tạo nên cơ sở cho Người tiếp cận chính xác con đường cứu
nước đúng đắn. Từ đây, Hồ Chí Minh mới có thể đưa ra những lý luận
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam thực hiện sự nghiệp giải phóng đất
nước, giải phóng dân tộc.
Chính trên những cơ sở đó, sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cho cả dân
tộc, cho mỗi người Việt Nam lúc bấy giờ là phải tìm ra con đường để cứu
nước, cứu dân thốt khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai. Với
thực trạng và thực tiễn xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã
quyết định ra đi tìm đường cứu nước và từ đó Người đã tìm thấy con
đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT
TRIỂN QUAN ĐIỂM VỀ NHÂN SINH TRONG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
1.2.1. Tiền đề lý luận cho sự hình thành quan điểm về nhân sinh
trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa yêu nước và văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam


15

Dân tộc Việt Nam ta với hơn bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước.
Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử xã hội, cha ông ta đã hun đúc
những truyền thống quý báu, trong đó chủ nghĩa yêu nước giữ vị trí rất
quan trọng. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước chính là ý thức bảo tồn và phát
triển bản sắc văn hóa dân tộc, khơng để bị sáp nhập lại hay đồng hóa. Cịn
là tư tưởng đại đồn kết dân tộc, kiên quyết chống xâm lược, lấy yếu thắng

mạnh, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, là tư tưởng hiếu sinh, không hiếu sát.
Hơn nữa, tư tưởng yêu nước Việt Nam phải gắn liền nước với dân, dân
với nước. Vào thời chiến thì thương người, thương dân, dựa vào sức dân
để chiến đấu giành độc lập, bảo vệ nước nhà, cịn vào thời bình thì kế giữ
nước hay nhất là ni dưỡng sức dân, làm cho dân khơng cịn tiếng oán
hờn, mọi người ấm no hạnh phúc.
Với những giá trị truyền thống q báu đó đã được Hồ Chí Minh kế
thừa, tiếp thu và phát triển. Người thường trích dẫn tục ngữ, ca dao, để diễn
đạt, nhất là nêu những tấm gương lịch sử, những chuyện người tốt, việc tốt
rất phong phú trong cuộc sống đời thường để giáo dục lịng u nước,
thương dân. Hồ Chí Minh viết:
“Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sống vơ cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và lũ cướp nước…Chúng ta có quyền tự hào vì những
trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ cơng lao của các vị
anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”
(Hồ Chí Minh, 2001e, tr.171).


16

Hơn nữa, từ thực tiễn đất nước bị đô hộ, nhân dân lầm than, tủi nhục
đã càng làm thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu
dân. Vì vậy, mà Người đã đặt cho mình tên Nguyễn Ái Quốc cũng để nhắc
nhở và cổ vũ bản thân trong cuộc hành trình gian nan ấy. Chính điều đó, là
cơ sở tư tưởng đã dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh
viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng

sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” (Hồ Chí Minh,
2002i, tr.128).
Như vậy, với chủ nghĩa yêu nước là một trong những nguồn gốc chủ
yếu tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân sinh quan.
Tinh hoa văn hóa phương Đơng, phương Tây tiền đề quan trọng cho
sự hình thành quan điểm về nhân sinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh, xuất thân từ một gia đình nhà Nho, từ thuở bé được
học chữ Hán với các thầy vốn là những nhà nho yêu nước, Nguyễn Tất
Thành đã chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa Trung Quốc, nhất là Nho giáo,
Lão giáo. Cùng với nền tảng cơ bản của văn hóa Việt Nam, ngay thời trẻ,
Nguyễn Tất Thành đã được trang bị một số kiến thức nhất định về đạo làm
người, quan tâm đến con người, nhất là những con người lao khổ, bị đoạn
đầy, bị áp bức, bóc lột. Hơn nữa, Người cịn tiếp thu tư tưởng nhân ái của
Phật giáo là tinh hóa của nền văn hóa Ấn Độ. Với Người cảm nhận ở Đức
Thích ca lịng thương cảm sâu sắc đến số phận chúng sinh và ý muốn tha
thiết xây dựng cuộc sống cho mọi người hướng tới chân, thiện, mỹ, xóa bỏ
mọi bất hạnh trong cuộc sống…
Bên cạnh đó, trong q trình bơn ba ra đi tìm đường cứu nước Người
đã am hiểu nhiều thứ tiếng: Hán, Pháp, Anh, Nga và đến các thư viện đọc
sách, đi thăm các viện bảo tàng, các di tích lịch sử. Hồ Chí Minh cịn quen
biết nhiều nhà văn hóa có tên tuổi và hịa mình vào cuộc sống của những


17

người lao động. Cho nên, Người càng cảm thông sâu sắc hơn nỗi khổ đau,
bất hạnh của nhân dân lao động, của người nơ lệ bị mất nước và lịng căm
thù sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu tìm hiểu tư tưởng dân chủ, nhân văn
của văn hóa Phục hưng, của thế kỷ Ánh sáng, chủ nghĩa Tam dân của Tôn

Trung Sơn (Trung Quốc), tư tưởng dân chủ của cách mạng tư sản Pháp,
Mỹ…
Người viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giêsu có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa
Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước.
Khổng Tử, Giêsu, Tơn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó
sao? Họ đều muốn “mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho
xã hội”…nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với
nhau rất hồn mỹ…Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy”
(Nguyễn Hữu Đức và Lê Văn Yên, 2002, tr.31). Với lời nói trên nhân loại
để làm giàu cho tư tưởng của mình và nâng cao một trình độ mới trên cơ
sở phương pháp luận mácxít.
Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân sinh quan là biểu hiện sự kết
tinh tư tưởng nhân văn của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác – Lênin tiền đề lý luận cơ bản cho sự hình thành
quan điểm nhân sinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Từ chủ nghĩa u nước, tiếp thu văn hóa phương Đơng – phương
Tây, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin như một tất yếu lịch
sử. Đây là bước ngoặt cơ bản trong quá trình tìm đường cứu nước và quá
trình phát triển tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.


18

Với Người đã coi chủ nghĩa Mác – Lênin như “cẩm nang” thần kỳ là
kim chỉ nam cho con đường giải phóng của dân tộc và đi đến chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản. Người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Mác – Lênin”. “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải

phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” (Hồ Chí Minh, 2001b,
tr.289).
Hơn nữa, với hoạt động trong Đảng cộng sản Pháp, trong Quốc tế
cộng sản và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, phong trào dân tộc,
Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với văn kiện Quốc tế cộng sản được trực
tiếp đọc các tác phẩm của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin tham gia các lớp
học lý luận của Quốc tế cộng sản nhờ vậy, Người nhận thức sâu sắc hơn về
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là lý
luận về con người, về vấn đề dân tộc, chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản…
Trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí
Minh đã đánh giá, so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp những tư tưởng về
con người mà Người đã tiếp thu được, và từng bước hình thành nên hệ
thống những luận điểm về nhân sinh quan một cách triệt để hơn. Như vậy,
có thể nói chủ nghĩa Mác – Lênin là một trong những nguồn gốc chủ yếu
của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân sinh quan.
1.2.2. Tiền đề chủ quan đối với sự hình thành quan điểm về nhân
sinh trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
Người vốn có tư chất thơng minh và được giáo dục cơ bản trong một
gia đình có truyền thống yêu nước, thương dân. Ngay từ lúc còn trẻ, Hồ
Chí Minh đã có tư duy sáng tạo, độc lập và giàu nhân ái, có chí hướng lớn


19

muốn cứu nước, cứu dân thốt khỏi cảnh nơ lệ. Do đó, dù rất khâm phục
lịng u nước của cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, nhưng Người khơng
đồng tình với đường lối cứu nước của họ, mà chọn con người sang Pháp để
thực hiện hồi bão của mình đó là tìm đường cứu nước, cứu dân. Điều này,

cũng khơng phải ngẫu nhiên, mà trong hàng vạn người Việt Nam và người
dân các nước thuộc địa đang sống tại Pháp, Hồ Chí Minh là người Việt
Nam đầu tiên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng là người duy
nhất phát hiện ra con người để giải phóng các dân tộc thuộc khi Người đọc
được bản sơ khảo Luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của V.I.Lênin
vào năm 1920.
Bên cạnh đó, với nhân cách Hồ Chí Minh càng được bổ sung, phát
triển hoàn thiện từ hoạt động thực tiễn hết sức rộng lớn và sinh động – điều
mà hiếm có nhà hoạt động cách mạng hiện đại nào có thể thực hiện được.
Trong đó, Người có 30 năm hoạt động ở nước ngoài, đã sống, làm việc và
đặt chân lên khoảng 26 nước, nhưng phải hoạt động trong điều kiện hết sức
khó khăn, nguy hiểm. Điều đặt biệt, Người đã phải nhiều lần thay tên đổi
họ với 160 bí danh, bút danh. Trong q trình hoạt động của Người đã phải
làm nhiều nghề lao động chân tay để kiếm sống. Chính điều kiện đó, trong
q trình bơn ba ra nước ngồi Người đã thơng thạo nhiều ngoại ngữ. Hồ
Chí Minh là người giữ nhiều cương vị, phụ trách nhiều công việc và nhiều
năm đứng đầu Đảng và nhà nước, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Hơn nữa,
Người thường đến thăm và tiếp xúc với mọi thành phần người dân ở nông
thôn, thành thị, miền núi, trung du, hải đảo… Chính từ thực tiễn phong phú
và sinh động đó mang lại cho Người nhiều vốn sống, vốn hiểu biết về con
người vô cùng sâu sắc, phong phú và đầy tính nhân văn.
1.2.3. Q trình hình thành phát triển quan điểm về nhân sinh
trong tư tưởng Hồ Chí Minh


20

Giai đoạn tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân sinh quan ảnh hưởng
chủ nghĩa yêu nước (1890 – 1920)
Trước bối cảnh đất nước, quê hương bị dày xéo, chia cắt ngay lúc đó

Nguyễn Tất Thành càng nung nấu ý chí muốn giải phóng dân tộc, giải
phóng cho những thân phận nô lệ với nổi đau đẫm máu và nước mắt mà
Người trực tiếp chứng kiến của những người đi phu, người nông dân chống
thuế và người yêu nước bị tàn sát, khủng bố hết sức man rợ. Ở Nguyễn Tất
Thành thì lịng u nước gắn bó chặt chẽ với lịng u thương con người,
khát vọng giải phóng dân tộc gắn liền với khát vọng giải phóng con người.
Với tư tưởng đấu tranh để tự giải phóng dân tộc, giải phóng con
người đã được xác định, nhưng đấu tranh như thế nào và bằng con đường
nào thì Người chưa tìm ra. Thế nhưng, chính từ thực tiễn của phong trào
cơng nhân ở nhiều nước đế quốc chống lại giai cấp tư sản, và bằng tai nghe
mắt thấy. Trước sự chứng kiến cảnh thống khổ, bị áp bức, bóc lột nặng nề
của quần chúng lao động ử nhiều nước thuộc địa, bước đầu Người đã nhận
thức được mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng dân chủ với cách mạng
giải phóng dân tộc, đồng thời thấy được tính chất quốc tế của những cuộc
cách mạng đó ở những nước thuộc địa. Hồ Chí Minh xác định con người
giải phóng dân tộc không thể đi theo con đường cách mạng dân chủ tư sản,
muốn giải phóng triệt để thì phải tìm một con đường khác. Từ đó, ý thức
giai cấp ở Người từng được hình thành và phát triển ngày càng cao.
Từ những khát vọng cháy bỏng phải tìm được con đường cứu nước,
cứu dân mà Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp Luận cương về các vấn đề thuộc
địa và dân tộc của V.I.Lênin, Người đã tìm thấy ánh sáng và đường lối cách
mạng đúng đắn giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Chính trong Luận cương
của V.I.Lênin đã chỉ rõ trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải
phóng dân tộc phải đi theo cách mạng vô sản, những người Cộng sản phải


21

ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Với sự giúp đỡ của giai cấp
vô sản các nước tiên tiến, giai cấp vô sản ở các nước chậm tiến sau khi

hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội. Trong Luận cương của V.I.Lênin đã phản ánh tập trung nhất tư tưởng
về giải phóng con người của chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới và đã làm
sáng tỏ những nhận thức trước kia của Người. Do đó, từ quan điểm con
người thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc tiếp cận quan điểm con người của giai
cấp tư sản với vẻ hào nhoáng. Và rốt cuộc, sự thật lịch sử đã phơi bày cái
“tự do tư sản” trên thực tế khơng có ý nghĩa đối với nhân dân lao động, nên
đối với Hồ Chí Minh khi đến với con người hiện thực, người lao động và
với tư tưởng giải phóng con người của chủ nghĩa Mác – Lênin đó là giải
phóng dân tộc chính là tiền đề cho việc giải phóng con người.
Giai đoạn tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân sinh quan ảnh hưởng
chủ nghĩa Mác – Lênin (1920 – 1969)
Với khả năng cũng như trí tuệ sắc xảo và óc quan sát thiên tài Hồ
Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể ở nước ta bằng một loạt những luận điểm về cách mạng giải phóng dân
tộc, giải phóng con người trong thời đại cách mạng vơ sản. Trong đó, với
Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930), Người chủ trương làm cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người cịn
ví mối quan hệ khăng khít của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
vơ sản như hai cánh của một con chim, cách mạng thuộc địa không những
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Hơn nữa, Người
cũng làm rõ sâu sắc hơn mối quan hệ giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với
giai cấp vơ sản ở các thuộc địa.
Hơn nữa, Người đã vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin
để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí


22

Minh khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải

phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nơ lệ” (Hồ Chí Minh, 2001i, tr.128). “…Chủ nghĩa xã hội trước
hết nhằm làm cho nhân dân lao động thốt nạn bần cùng, làm cho mọi
người có cơng ăn việc làm, được ấm nô và sống một đời hạnh phúc” (Hồ
Chí Minh, 2001i, tr.17). Do đó, giành độc lập rồi, phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội, chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho nhân dân ngày một
ấm nô thêm. Sự gắn bố thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh một mặt phản ánh quy luật khách
quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản,
mặt khác, là sự phả ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng
dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Từ đó,
Người đã phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu
nước hiện đại: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
khơng những đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà cịn đấu tranh cho
độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Kết luận chương 1
Có thể nói rằng, bất cứ một học thuyết khoa học hay lý luận nào cũng
được hình thành và phát triển từ chính trên những điều kiện lịch sử - xã hội
nhất định và kế thừa những tư tưởng và tinh hoa văn hóa trước đó. Hơn
nữa, cũng từ những điều kiện lịch sử - thế giới và Việt Nam cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa Việt Nam, tiếp
thu văn hóa nhân loại, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và đặc biệt là
nhân cách, trí tuệ và hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh từ
những cơ sở đó chính là nguồn gốc và những tiền đề của tư tưởng Hồ Chí
Minh nói riêng và tư tưởng của Người về nhân sinh quan nói riêng. Bên
cạnh đó, với cơ sở xây dựng và thành công của tư tưởng Hồ Chí Minh về


23


nhân sinh quan đó chính là điểm xuất phát, lấy làm cải tạo biến đổi hiện
thực Việt Nam làm mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng, đồng thời lấy
thực tế cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể của Việt Nam và thế giới xây
dựng đường lối và thực hiện đường lối cách mạng Việt Nam. Từ những
điều kiện lịch sử, chính trị - xã hội trong Việt Nam và thế giới cũng như là
điều kiện tiền đề lý luận hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân sinh quan cho chúng ta thấy được rằng ở
Người có một tư tưởng sâu sắc, một cách triệt để và có hiệu quả. Hơn nữa,
với tư tưởng của Người đó cịn là sự kế thừa và phát triển truyền thống Việt
Nam, tinh hoa văn hoa tri thức văn hóa của nhân loại. Chính vì những điều
đó đã tạo nên năng lực cho tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí
Minh, từ đó đã giúp Người tiếp thu một cách có hiệu quả, vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học vào chính trong
hồn cảnh cụ thể ở Việt Nam từ đó đã góp phần tạo điều kiện phát triển,
càng làm thêm phong phú lý luận ở nước ta.


24

Chương 2
NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA QUAN ĐIỂM VỀ NHÂN SINH
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ, VAI TRỊ VÀ BẢN
CHẤT CỦA CON NGƯỜI
2.1.1. Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng
Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ
không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải u dân, q
dân, trọng dân, vì “có dân là có tất cả”. Do đó, “trong xã hội khơng có gì tốt

đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Quan điểm tin vào dân,
vào nhân tố con người của Người dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nhân tố con người là vốn quý nhất, quyết định mọi thắng lợi, điều
này được Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời khơng gì q bằng
nhân dân” (Hồ Chí Minh, 2001g, tr.276) hay “Chúng ta phải quý trọng con
người, nhất là cơng nhân, vì cơng nhân là vốn q nhất của xã hội” (Hồ Chí
Minh, 2001h, tr.373)... Nhân tố này được đề cập ở ba cấp độ: Nhân dân nói
chung, công nhân, nông dân, tri thức, bộ đội, cán bộ, mỗi một con người cụ
thể - tức là nhân dân lao động (trừ bọn Việt gian, phản động). Theo Người,
dân (nhân dân lao động - cơng nhân, nơng dân, trí thức...) là chủ thể tích
cực của lịch sử, tài dân, sức dân là nguồn lực quan trọng nhất của phát
triển. Khơng có dân ủng hộ, giúp đỡ thì cách mạng khơng có sức mạnh,
khơng thể thành cơng. Khơng có dân thì Đảng khơng có lực lượng. Có dân,


25

được dân tin, dân yêu, dân phục, lại có đường lối đúng đắn để dẫn dắt đấu
tranh thì việc khó mấy cũng giải quyết được...
Tóm lại, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
xây dựng đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu từ vốn con
người, từ việc phát huy nhân tố con người. Nếu khinh dân, xem thường việc
sử dụng và phát huy nhân tố con người sẽ là một sai lầm rất to, rất có hại và
có liên quan mật thiết đến thành hay bại của sự nghiệp cách mạng. Cũng
chính vì thế, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lịng u thương vơ hạn
đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con
người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức,
bất cơng, đói nghèo, lạc hậu.
2.1.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng

Tiếp nối truyền thống tư tưởng của dân tộc và tiếp thu, vận dụng
sáng tạo những quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lênin về con
người, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh chỉ có
một “… ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”(Hồ Chí Minh, 2001c, tr.161). Người là hiện
thân của lý tưởng vì con người trong thời đại mới. Mọi hành động và suy
nghĩ, mọi nỗ lực và trăn trở của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng,
một cách trực tiếp hay gián tiếp, đều toát lên một tư tưởng bao trùm, có ý
nghĩa cách mạng và nhân văn sâu sắc – tư tưởng coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan
điểm xem con người như là cơng cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách
tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con
người. Người nói: “Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho


×