Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN tư tưởng triết học của démocrite

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.04 KB, 22 trang )

Tư tưởng Triết học của Démocrite

1


Tư tưởng Triết học của Démocrite

MỞ ĐẦU

Hy lạp là một trong những cái

nôi của nền văn minh

nhân loại thời cổ đại, l à thời

kì phát triển rực rỡ

của xã hội lồi người. Hy lạp

cổ đại khơng chỉ l à

một trung tâm kinh tế - xã hội mà còn là một trung tâm văn hố. Thời kì cổ đại ở đây đã tích
trữ được một khối lượng tri thức khổng lồ tr ên nhiều lĩnh vực: toán học, vật lý, thi ên văn
học, thuỷ văn... đặc biệt không thể không nhắc tới chính l à triết học. Triết học thời kì này
được đánh giá là rất phát triển, với những cái tên hết sức nổi tiếng: Acsimet, Thales,
Héraclite, Platon, Aristote… Chính các đại biểu này đã tạo lên một nền triết học phát triển rực
rỡ mà ngày nay chúng ta đã được thừa hưởng. Nổi bật lên giữa các nhà triết học lỗi lạc là một
triết gia với rất nhiều phát minh mà phải đến hàng ngàn năm sau, khoa học mới có thể chứng
minh được. Đó là nhà triết học Démocrite. Ông đã để lại cho nhân loại rất nhiều cơng trình vĩ
đại cũng như tầm ảnh hưởng lớn đến các nhà triết học sau này


2


Tư tưởng Triết học của Démocrite
I. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC THỜI KỲ HY LẠP CỔ ĐẠI
Hy Lạp cổ đại là một vùng đất vô cùng rộng lớn, thiên nhiên ban cho đất nước Hy Lạp một
vị trí vơ cùng thuận lợi. Khí hậu, đất đai, biển cả v à lòng nhiệt thành của con người là những
tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối giao bang và phát triển kinh
tế. Vào thế kỷ XV cho đến thế kỷ IX Tr.CN, xu h ướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ
đã hiện dần và ngày càng rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp, thủ công nghiệp từ
cuối thế kỷ thứ VII Tr.CN l à lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu trong khu
vực, đẫn đến sự ra đời các thành bang (polis) và các trung tâm văn hóa như Athène, Sparte,
Thebes,... Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhi ên mà là kết quả
tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh t úy của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong
thần thoại, trong các hình thái sinh hoạt tôn giáo, trong các mầm mống của tri thức khoa học
và là kết quả của đời sống kinh tế xã hội. Đứng trước thế giới bao la và đầy bí ẩn với tư duy
non trẻ của mình, con người khơng thể có được lời giải đáp thuyết phục. Vì vậy, con người
phải viện dẫn đến năng lực tưởng tượng để diễn giải những kỳ bí của thi ên nhiên. Thần thoại
trở thành sự đối diện đầu tiên của con người với tự nhiên. Sự xuất hiện của các nhà triết học
đầu tiên đã làm thành bước rẽ trong phát triển của thần thoại. Những viễn cảnh bóng bẩy do t
ư duy của con người tạo ra đã bớt đi sự hấp dẫn trong khi những nhu cầu của đời sống th
ường nhật đã trở nên bức bách đòi hỏi phải được cắt nghĩa bằng tri thức châ n thực. Niềm tin
chất phác, ngây th ơ vào sự tồn tại của thần thánh đã được thay thế bằng những luận giải sâu
sắc của lý tính, của sự thơng thái. Đó là lý do vì sao các nhà triết học được gọi là những người
yêu mến sự thông thái. Vào thế kỷ IX cho đến thế kỷ VII Tr.CN, đó là thời kỳ nhân loại
chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Bằng chất liệu sắt, ng ười Hy Lạp đã đóng
được những chiếc thuyền lớn cho phép họ vượt biển Địa Trung Hải để tìm kiếm những miền
đất mới. Nhờ đó mà lãnh thổ Hy Lạp được mở rộng. Do như cầu mua bán, trao đổi hàng hóa
mà các chuyến vượt biển đến các nước phương Đông đã trở nên thường xuyên. Khi những


3


Tư tưởng Triết học của Démocrite
con thuyền tung mình lướt sóng thì tầm nhìn của những người Hy Lạp cổ đại cũng được mở
rộng, các thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babylon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên.
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp,... và cả
những yếu tố huyền học cũng được người Hy Lạp đón nhận. Các nhà triết học đầu tiên của
Hy Lạp thường là người đã nhiều lần du lịch sang phương Đông, hoặc sinh ở khu vực cận
Đông như Thales, Hy Lông, Pit-tax, Sôlông,... Tuy vậy không nên hiểu một cách đơn giản
triết học Hy Lạp chỉ là sự kế thừa thuần túy những tư tưởng ở bên ngoài mà điều kiện quyết
định sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp là kết quả nội sinh tất yếu của cả một
dân tộc, một thời đại. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại đ ược chia làm ba thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Socrate: bước đầu lý giải những vấn đề của t ư duy và tồn tại vì vậy
chưa thốt khỏi sự ảnh hưởng của thần thoại và tôn giáo. Các trường phái tiêu biểu là Milet,
Pythagore, Héraclite, ... Các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên - Triết học
thời kỳ Socrate: tư tưởng chính của triết học thời kỳ n ày là triết học phải xuất phát tự con
người. Cùng với Pythagore – người đã khẳng định: ”Con người – thước đo của vạn vật”,
Socrate đ ã tấu lên bài ca về con người. Đây là thời kỳ của những triết học gia lừng danh, l àm
rạng rỡ nền văn hóa Hy Lạp như Platon, Aristote, Démocrite,... và tất nhiên không thể thiếu
Socrate. - Thời kỳ Hy Lạp hóa: triết học của thời kỳ n ày khơng cịn sôi nổi như thời kỳ trước.
Các triết gia bàng quan, lảng tránh những vấn đề trung tâm của triết học mà hướng vào thế
giới bên trong, chìm đắm với những suy tư về định mệnh, ngập chìm trong đời sống tình cảm,
những ham muốn...
II. TIỂU SỬ CỦA NHÀ TRIẾT GIA DÉMOCRITE
Démocrite (Đềmơcrít) (khoảng 460 – khoảng 370 TCN) là một triết gia lỗi lạc của nền văn
minh cổ Hy Lạp. Ông sinh trưởng ở Abdere (Apđerơ), một trung tâm buôn bán sầm uất của
Hy Lạp cổ đại ở xứ Thrace (Tơraxia) (phần đất thuộc Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), ven
bờ phía Bắc của biển Égée (Êgiê) trong một gia đình giàu có.


4


Tư tưởng Triết học của Démocrite
Ơng là học trị của triết gia Leucippe (Lơxíp) và đã cùng với Leucippe tạo ra thuyết nguyên tử
(atomism); các học giả thời nay gọi đó l à thuyết ‘ngun tử thơ sơ’ Sinh thời Démocrite từng
từ bỏ cuộc sống giàu sang, chu du khắp nơi, có mặt ở Ai Cập, Ba Tư, tranh luận với các giáo
sĩ Đạo Hồi, đàm đạo với các triết gia khổ hạnh Ấn Độ. Tiếp thu nhiều kiến thức bổ ích về
tốn học, thiên văn học và triết học. Trở lại Hy lạp, Ông đến Anaxagore gặp gỡ Socrate,
nhưng không tán thành quan đi ểm của ai cả. Tác phẩm quan trọng và cũng rất có giá trị về
khoa học mà ông đã viết ra là “Cấu trúc vĩ đại của thế giới”. Nhưng tiếc rằng, sau này người
ta chỉ có thể phỏng đốn lại được nội dung của cuốn sách này mà thơi. Vì ngay trong khi ơng
cịn đang sống, thì các tác phẩm do ơng viết ra đã bị các học sinh của nhà triết học đối lập
Platon (Pla-tơng) phá hủy theo u cầu của thầy mình và cuốn sách trên cũng không tránh
được số phận nghiệt ngã đó. Thật là bất hạnh cho riêng ơng và cũng là một tổn thất nặng nề
vô giá cho cả sự tiến bộ của nền khoa học chân chính của nhân loại. May mắn làm sao, sau
này, nhà triết học Diogène Laerce (Điôgen Laecxơ) (sống vào nửa đầu thế kỉ thứ III sau công
nguy ên) đã viết lại được những quan điểm về vũ trụ của Démocrite trong bộ sách lớn gồm 10
tập của mình “Tiểu sử các nhà triết học”. Diogène Laerce gọi ông là nhà triết học lỗi lạc,
Aristote coi ông l à người điều khiển được tư duy của mình trên mọi lĩnh vực. Marx – Anghen
thừa nhận ơng là bộ óc bách khoa đầu tiên trong những người Hy Lạp. Démocrite là người
đầu tiên giải thích cơ cấu của tự nhiên là nguyên tử. Theo ông đó là những hạt nhỏ mà mắt
người khơng thấy được, không thể phân chia được nữa và sự vận động của các hạt là sự vận
động của tự nhiên. Ông nói rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ đều là kết quả do sức hấp dẫn
của các nguy ên tử ảnh hưởng lẫn nhau mà sinh ra. Ông cho rằng mọi biến động trong thế
giới vật chất đều l à những hiện tượng tự nhiên và hợp với quy luật. Bức tranh mơ tả sự hình
thành và phát triển Vũ trụ của Démocrite có rất nhiều nét chung với ý tưởng được Kant
(Căng) và Laplace (Laplaxơ) nêu ra sau hai nghìn năm sau. Ơng cịn đưa ra một loạt các dự
đoán thiên tài và lỗi lạc vào lúc mà khoa học thực nghiệm còn quá mờ nhạt, phải chờ nhiều


5


Tư tưởng Triết học của Démocrite
trăm năm sau nữa mới đ ược chứng thực. Theo suy luận của ơng thì kích thước thực của Mặt
Trời lớn hơn Trái Đất rất nhiều lần (trên thực tế, bán kính của Mặt Trời lớn h ơn Trái Đất
khoảng 109 lần). Mặt Trăng thực ra là một thiên thể khơng tự mình phát sáng, nó chỉ phản xạ
lại ánh sáng của Mặt Trời mà thơi. Cịn dải Ngân Hà mờ sáng vắt ngang trên bầu trời chính là
một quần thể sao rất lớn (theo dự đốn hiện nay có khoảng h ơn 100 tỉ ngôi sao) Démocrite
đã áp dụng học thuyết nguyên tử của mình vào tốn học. Ơng cho rằng mọi đại lượng hình
học đều gồm những đại lượng - ban đầu là những "ngun tử hình học". Ơng đã cống hiến
cho lịch sử toán học một thành tựu to lớn khi là một trong những người đầu tiên nghiên cứu
vấn đề thể tích và chủ trương sử dụng một phương pháp nghiên cứu tốn học, mà sự phát
triển tiếp theo của nó đ ã đưa đến việc sáng lập lý thuyết các đại lượng vơ cùng bé. Ơng cũng
là người đầu tiên chứng minh thể tích hình trịn bằng 1/3 thể tích hình trụ có cũng đáy và
chiều cao; thể tích hình chop bằng 1/3 thể tích của lăng trụ có c ùng đáy và chiều cao.
Démocrite đã có nhiều cơng trình về khoa học tự nhiên. Luận văn "Về bản chất con người của
ơng" có những kiến thức giải phẫu sinh lý con ng ười rất có giá trị. Ơng đã thu nhập được
những tài liệu phong phú về động vật học và thực vật học. Ông được Marx (Mác) và
Ăngghen đánh giá là "trí tuệ vạn năng đầu tiên trong những người Hy Lạp". Démocrite là
người khơng tin có thần thánh. Ông bác bỏ nguồn gốc thần thánh của vũ trụ. Ông cho bản
chất của vạn vậ t là các ngun tử và các khoảng chân khơng. Ơng cho nguồn gốc của những
quan niệm tôn giáo l à sự sợ hãi và dốt nát của con người. Démocrite đã giải quyết được
những thiếu sót của các nhà duy vật trước ông và đã căn bản phê phán được học thuyết duy
tâm cổ đại. Trước những cảnh nhiễu nhương của cuộc đời, ơng đã tự làm mù mắt mình bằng
cách đặt một lá chắn bằng đồng hướng ánh sang mặt trời lúc hồng hơn chiếu vào mắt. Cả đời
ơng sống trong túng bấn v à nghèo khổ.
III. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA DÉMOCRITE

6



Tư tưởng Triết học của Démocrite
Démocrite viết khoảng hơn 70 tác phẩm trên nhiều lĩnh vực khác nhau như bàn về các vấn đề
đạo đức, mỹ học, khoa học tự nhi ên, toán học, y học, kỹ thuật… Một số tác phẩm cịn lưu
giữ lại những trích đoạn, như “về tự nhiên”, “về lý trí”, “về trạng thái cân bằng của tinh thần”,
“về bản tính con người”, “về hình học”, “về nhịp điệu và hoà hợp”, “về thi ca”, “về hội hoạ”,
“về binh nghiệp”, “khoa chữa bệnh”… III.1 Thuyết nguyên tử Cách đây hàng nghìn năm, các
nhà hiền triết, các nhà Bác học từ Đông sang Tây đã hằng cố gắng đi tìm lời giải đáp cho câu
hỏi: vật chất cấu tạo nh ư thế nào, vạn vật xung quanh ta thiên hình vạn trạng nhưng phải
chăng đều do một số yếu tố n ào đấy cấu tạo nên. Các triết gia thời trung Quốc Cổ đại đề
xướng thuyết Âm Dương Ngũ hành (Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ). Thời Ấn Độ Cổ đại có
thuyết lơcaita cho rằng vạn vật đều do bọn nguyên tố ban đầu là lửa, nước, không khí và đất
cấu tạo nên. Các triết gia thời Hy Lạp cổ đại mà người chủ trương một thuyết Héraclite (thế
kỷ VI Trước Công nguyên) cho rằng bản chất của thế giới là lửa. Anaximène (Anaximen),
người đồng thời với Héraclite, cho rằng bản chất của thế giới l à không khí. Thalès (640 - 546
Tr. CN) được mệnh danh là một trong bấy "người hiền" thời Hy Lạp Cổ đại chủ trương rằng
bản chất của thế giới là nước. Ông lập luận nước đơng lại thì thành chất rắn, nước bốc hơi thì
thành chất khí, tóm lại tất cả đều có căn nguy ên từ nước. Ơng cịn nói: "Vũ trụ được nâng đỡ
bởi nước, quả đất được mọng bởi nước, ngọn lửa của mặt trời và các sao được nuôi dưỡng
bởi thời bốc lên của nước". Trong số các nhà triết học và khoa học thời xưa bàn về cấu tạo
của vật chất, người phát biểu đúng đắn hơn cả là nhà Bác học thời Hy Lạp cổ đại Démocrite.
Triết học của Démocrite là triết học duy vật và thuyết nguyên tử mà ông cùng Leucipe sáng
lập nên là nền tảng của triết học đó. Thuyết nguyên tử đã được Leucipe nêu lên từ trước.
Nhưng phải đến Démocrite học thuyết đó mới trở lên chặt chẽ. Ơng đã xây dựng quan điểm
cơ bản mà theo đó tất cả sự vật được hình thành từ những phần tử bé nhất, đơn giản, không
phân chia, gọi l à atomos (những nguyên tử), và kènon (khoảng không). Nguyên tử và khoảng
không đối lập nhau: khoảng không thiếu một kết cấu bền vững, tồn tại có tính chất bền vững;

7



Tư tưởng Triết học của Démocrite
khoảng không thống nhất, đâu đâu cũng vậy, tồn tại đa dạng, mỗi nơi một vẻ; khoảng không
vô định, tồn tại xác định; khoảng không bất động, tồn tại vận động. Tồn tại l à tổng thể số
lượng lớn vô hạn những nguyên tử cực bé, khơng phân chia, si êu cảm tính, khơng xun
thấu, vĩnh cửu, bền vững, bất biến. Sự thống nhất tồn tại và không tồn tại như những mặt đối
lập tạo nên cơ sở của mọi sự vật. Ý tưởng táo bạo đó xuất phát từ chính những chi êm nghiệm
về những hiện tượng hàng ngày – sự đông đặc và nóng chảy, sự khác nhau về trọng lượng của
các vật thể cùng khối lượng…Có những biến đổi ta khơng thấy ngay đ ược, nhưng nó vẫn xảy
ra, khơng tức thời, mà từ từ, như hiện tượng ăn mòn, sự bốc hơi, sự phân hủy…Mắt ta không
thấy chúng, nhưng chúng vẫn hiện diện khắp nơi, quy định sự tồn tại của thế giới này. Chúng
– những cái bé nhất, không phân chia, khơng chuyển hố v ào nhau, khơng phẩm tính, khác
nhau về hình dáng, kích thước, trật tự và vị trí. Tính đa dạng của các nguyên tử là sự lý giải
đầy đủ và xác đáng nhất tính đa dạng của thế giới vật chất. Các nhà nghiên cứu lịch sử triết
học không so sánh nguy ên tử luận của Démocrite với quan niệm về hành chất của Thales
(nước), Anaximène (khí), Héraclite (lửa), vì sự khác nhau giữa họ q rõ ràng. Thời sơ khai
Anaximandre (Anaximanđơrơ) là người nêu ra quan điểm độc đáo nhất về bản nguyên
(apeiron). Apeiron thể hiện sự chuyển hố khơng ngừng c ùa vũ trụ, nhưng hãy còn rất mơ hồ.
Ngược lại, nguyên tử của Démocrite là một yếu tố vật chất có tính quy định v à tính tích cực
nội tại. "Trong nguyên tử luận, chúng ta tìm thấy ngay quan điểm về tồn tại tự nó của thế giới
tự nhiên”. Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, khơng nh ìn thấy được, không thể phân
chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn v à vận động không
ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chú ng có mùi vị, âm thanh và màu sắc. Nguyên
tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng. Mọi vật thể
đều do sự kết hợp giữa các nguy ên tử nên nếu tách rời chúng ra thì vật thể bị tiêu diệt. Theo
ơng tồn bộ sự vật trong thế giới kể cả linh hồn con người chỉ là các hạt nguyên tử đang vận
hành trong thế giới trống rỗng. Tất cả đều là sự vận hành của nguyên tử. Những “hiện tượng”

8



Tư tưởng Triết học của Démocrite
như xanh, đỏ hay ngọt chua, lạnh hay nóng đều chỉ là cảm giác, là “ý kiến” của con người khi
bị tác động lên. Trong thực tại các cảm giác đó khơng hề tồn tại hiện hữu. Một vật nặng là do
có nhiều nguyên tử cấu kết lại, trong khi ở vật nhẹ, các nguy ên tử được sắp xếp thưa thớt.
Ông tin rằng các nguyên tử tuy có thành phần bên trong là đồng nhất, song chúng có các đặc
tính riêng của chính chúng về vị trí phân bố, hình dạng, kích thước; tất cả đều là những vật
thể khơng gì có thể xun qua và vận động liên tục trong không gian rỗng. Các nguy ên tử
của nước có hình cầu, bề mặt trơn nhẵn, khơng có khả năng gắn chặt vào nhau cho nên chúng
có thể len lỏi qua lại giữa chúng. Các nguyên tử tạo ra các chất rắn có dạng góc cạnh với
nhiều các khớp nên chúng có thể ghép nối chặt xít với nhau. Tư tưởng triết học của
Démocrite đã là tiền đề cho rất nhiều các lý thuyết p hát triển rực rỡ sau này như các luận
thuyết về sự tồn tại khách quan của vật chất v à vận động, vật chất là vô cùng và vô tận cùng
các học thuyết về nguyên tử, luật bảo tồn năng lượng chi phối các vận động,…
II.2 Tư tưởng Démocrite về chân không
Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Démocrite, chân không cũng cần thiết
như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các ngun tử thì
sẽ khơng có điều kiện cho vận động. Khác với nguy ên tử có kích thước, hình dáng, chân
khơng thì vơ hạn và khơng có hình dáng. Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận
động theo nhiều hướng, khi thì tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm
vào nhau tạo thành một cơn xốy trịn (cơn lốc ngun tử). Cơn lốc này đẩy những ngun tử
nhỏ, nhẹ ra ngồi chu vi, cịn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các hành tinh, kể
cả trái đất được hình thành. Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do
thần thánh hoặc một ai tạo ra. Những phán đốn trên đây về ngun tử tuy cịn nhiều điểm
hạn chế (hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản chất
của thế giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Démocrite chưa giải thích
được nguyên nhân của vận động, nhưng ông đã gắn liền vận động với nguyên tử, và nó cũng

9



Tư tưởng Triết học của Démocrite
vô cùng, vô tận như nguyên tử. Đó là một đóng góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của khoa học tự nhi ên và triết học duy vật. Chính vì quan niệm duy vật và vô thần ấy, ông đã
bị tầng lớp thống trị coi là phủ nhận thần linh và trục xuất ông khỏi quê hương
III.3 Lý luận về nhận thức
Démocrite đã có cơng đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ơng và tiếp theo ơng là
Aristote, kể cả Platon đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến lơgíc học. Giải thích của
Démocrite về tư duy của con người chúng ta cũng mang tính rất mực duy vật. Theo ông, suy
nghĩ của con ng ười được tạo bởi một dạng nguyên tử hình kim, rất mực năng động và linh
hoạt trong cơ thể con người; ông gọi các nguyên tử này là ‘nguyên tử tâm hồn’ (soul atom).
Ơng giải thích rằng khi bạn nhìn thấy một vật nào đấy có nghĩa rằng một dịng các ngun tử
‘tâm hồn’ này đã chạy vào đôi mắt bạn. Démocrite cũng tin chắc rằng các nguyên tử tồn tại
khách quan và vĩnh cửu, chúng không thể được sinh thêm và bất hoại hoặc không bao giờ
biến mất được. Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác động
v ào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác n ày có nội dung chân thật,
nhưng khơng đầy đủ, khơng sâu sắc, nó chỉ l à sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa
phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi v ì, nó chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, màu sắc,
hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được nguyên tử và chân không. Hơn nữa, mọi
nguyên tử đều giống nhau về chất, bản thân chúng khơng có mùi vị, màu sắc, âm thanh và
không trông thấy được. Bởi vậy, những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người. Theo
ông, muốn nhận thức đ ược nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận thức bản chất của sự
vật, con ng ười ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy nạp, so sánh, phán đoán,
tức l à phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ơng chia nhận thức l àm hai dạng: dạng nhận
thức "mờ tối" (nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ” (nhận thức lý tính). Loại mờ
tối bao gồm các kiểu nhận thức sau: thị giá, xúc giác. Còn nhận thức chân lý thì nó hồn tồn
khác với nhận thức mờ tối. Khi nhận thức mờ tối đã khơng cịn khả năng nhìn thấy cái quá

10



Tư tưởng Triết học của Démocrite
nhỏ bé, không nghe, không ngửi thấy, không nếm thấy, không sờ thấy, nhưng việc nghiên cứu
cần phải thâm nhập tới cái nhỏ bé hơn mà trực giác cảm tính khơng đạt tới, thì khi đó loại
nhận thức chân lý bước lên diễn đàn, vì nó, qua tư duy, có một cơ quan nhận thức tinh vi hơn.
Như vậy theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu và đáng tin cậy hơn. Việc chia nhận
thức làm hai giai đoạn cho thấy Démocrite đã xác định được tính thống nhất khơng thể chia
cắt của một quá tr ình. Nhận thức mờ tối là nhận thức trực tiếp thơng qua các giác quan vì vậy
chỉ dừng lại ở những cảm nhận b ên ngoài; chưa làm sáng tỏ được sự vật và thường chịu áp
lực của số đông dư luận chi phối. “Một số người cảm thấy mật ngọt, một số khác lại cảm thấy
đắng, từ đó dẫn đến kết luận là mật khơng ngọt và cũng khơng đắng” Mặt tích cực trong quan
điểm tr ên đây là ở chỗ, ông coi đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan do nguyên tử
và chân không tạo ra. Tuy chưa nhận thức được sự chuyển hố giữa nhận thức cảm tính v à
nhận thức lý tính, nhưng ơng đã thấy được vị trí của từng dạng nhận thức, đặc biệt l à nhận
thức lý tính. Song mặt hạn chế trong quan niệm này là ở chỗ, ơng coi các thuộc tính khách
quan của sự vật nh ư âm thanh, mùi vị, màu sắc chỉ là những quy ước chủ quan của con
người. Hạn chế này đã mở đường cho những quan niệm duy tâm cho rằng chất tách rời sự
vật, chất có trước và chất có sau của sự vật v.v…
III.4 Tất yếu và ngẫu nhiên
Leucipe và Démocrite cho rằng các nguyên tử và khoảng không - “bể chứa các ngyên tử” - là
bản nguyên thế giới và tính đa dạng của các nguyên tử dẫn đến tính đa dạng của thế giới, kể
cả thế giới con người. Nguyên tử luận cũng được triển khai vào việc giải thích mối quan hệ
tất yếu - ngẫu nhiên - một trong những mối quan hệ nền tảng của các sự vật, hiện t ượng, quá
trình diễn ra khắp nơi. Trước nay, nhiều nhà viết sử cổ đại vẫn cho rằng, Démocrite loại bỏ
khái niệm “ngẫu nhiên” ra khỏi học thuyết của mình, căn cứ vào nhận định: “không một sự
vật nào sinh ra một cách vô nguyên cớ mà tất cả đều tuân theo mối quan hệ nhân quả v à tính
tất yếu”. Trên thực tế Démocrite không phản bác khái niệm ngẫu nhi ên, mà chỉ loại ra khỏi

11



Tư tưởng Triết học của Démocrite
đời sống cái ngẫu nhiên - số mệnh mang tính chất tơn giáo - thần thoại. Từ gốc độ triết lý
ngẫu nhi ên, theo Démocrite, là cái gì đó xảy ra khơng theo tự nhiên, khác với tất yếu là cái
tồn tại theo tự nhiên. Những gì diễn ra khơng theo tự nhiên thường thuộc về trạng thái ban
đầu của sự vật. Trong “Thần khúc” A.Dante, nhà thơ và nhà tư tưởng cuối thời Trung viết:
“Démocrite - người chủ trương vũ trụ tuân theo may rủi”. Sự đối lập tất yếu - ngẫu nhiên, xét
cho cùng, là sự đối lập cái xảy ra “theo tự nhiên” với cái xảy ra “khơng theo tự nhiên”, cái
đóng vai trò là kết quả của những nguyên nhân bên trong với cái biểu thị sự trùng hợp các sự
kiện “khơng chủ đích”, kết quả của những nguy ên nhân bên ngoài. Nguồn gốc thế giới cũng
được lý giải theo quan hệ tất yếu - ngẫu nhiên. Trước khi có thế giới như tình trạng hiện tại
các ngun tử cịn vận động hỗn độn trong chuỗi thời gian bất tận. Thế giới xuất hiện, chấm
dứt sự ngự trị của cái hỗn độn, ngẫu nhiên. Tất cả giờ đây đều diễn ra theo tính tất yếu, d ịng
xốy lốc các ngun tử trở thành nguyên nhân xuất hiện các vật thể. Khơng cịn tự do theo
nghĩa tuỳ tiện; tất cả đều tuân theo tính tất yếu. Nhưng trên nền chung của tính tất yếu, cái
ngẫu nhi ên vẫn hiện diện dưới những hình thức khác nhau. Sự tồn tại cái ngẫu nhi ên trong
bức tranh về thế giới được quy định bởi tính đa dạng các khuynh h ướng vận động ban đầu
của nguy ên tử, bởi số lượng vô cùng lớn của chúng, và bởi sự tồn tại một không gian rỗng vĩ
đại. Nói đến vận động của vũ trụ, Démocrite ln nhấn mạnh tính quy luật và tính tất yếu của
nó. Bản thân từ “vũ trụ” (theo tiếng Hy Lạp kosmos) đ ã hàm chứa một cái gì đó chuẩn xác,
trật tự, là môi trường rộng lớn, nơi mỗi thực thể điều chiếm một vị trí nhất định.

III.5 Quan niệm về con người
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên bằng lửa trong cơ
thể; nó cũng được cấu tạo từ các ngun tử hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn
hơn các nguyên tử khác. Tiếp nối tư tưởng của Anaximandre, Démocrite cho rằng sự sống bắt
nguồn từ những vật thể ẩm ướt. Ông khẳng định: “Con người lúc đầu được tạo ra từ nước và

12



Tư tưởng Triết học của Démocrite
bùn” và là kết quả biến đổi lâu dài của bản thân giới tự nhiên. Những sinh vật đầu tiên sống ở
dưới nước là những cơ thể có cấu trúc hết sức đơn giản, tiến dần lên thành sinh vật có vú sống
trên cạn. Quá trình phát triển lâu dài đã làm cho chúng có tay, có chân, có mắt, có tai. Trong
đó, con người là sinh vật hoàn thiện nhất. Sự phân biệt giữa sinh vật n ày với sinh vật khác
dựa trên nguyên tắc đồng nhất và đồng loại, vì đó là điều kiện để cái nguyên tử kết hợp với
nhau. Cái để phân biệt giữa sinh vật và đồ vật là sinh vật có vận động và có linh hồn. Đồ vật
chỉ là những vật vô tri vô giác Sở dĩ con người vận động, có hưng phấn là nhờ linh hồn châm
ngòi, cho nhiệt. Linh hồn của con người được cấu thành từ những nguyên tử, nhưng đó là
những nguyên tử hết sức bé nhỏ, mong manh, nhanh nhạy, giống nh ư những nguyên tử của
lửa. Những nguyên tử của lin hồn chúng chứa đầy nhiệt, nhờ nhiệt của c húng mà con người
làm ấm, có hưng phấn và vận động. Démocrite đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng
đế và thần linh; thần chỉ là sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con
người. Khác với quan niệm của tôn giáo, linh hồn của Démoc rite không bất tử. Linh hồn của
ông là nguyên tử, là một dạng của vật chất, chứ không phải l à hiện tinh thần. Linh hồn chết
cùng với cái chết của cơ thể vì thế các quan điểm cho rằng có thi ên đường và địa ngục chỉ là
huyễn hoặc không đáng tin.
III.6 Quan điểm về logic học
Về logic học, Aristote được coi là cha đẻ của logic hình thức, người đã đặt nền móng vững
chắc cho bộ mơn khoa hoc n ày lại tuyên bố Démocrite là tiền bối của mình về logic học. Với
tác phẩm Canon hay cịn gọi là “Bàn về logic học”, Démocrite đã trở thành chủ nhân của
cuốn sách đầu tiên viết về logic học. Ở trong tác phẩm n ày, ông đã bàn đến hàng loạt các vấn
đề về trọng tâm của logic nh ư: định nghĩa, khái niệm, so sánh, giả thiết, đặc biệt ơng tập
trung trình bày về phương pháp quy nạp. Vì thế Aristote tơn ơng là người sáng lập ra logic
học quy nạp.

13



Tư tưởng Triết học của Démocrite
Xuất phát từ quan niệm logic học là công cụ để nhận thức tự nhiên, Démocrite đã bút chiến
với liên minh Pythagore, với trường phái Élée để làm sáng tỏ logic học khách quan, các
nguyên tác của logic quy nạp và chống lại phương pháp nhận thức chủ quan của Sophiste
Đến thời kỳ cận đại, F. Bacon nh à khoa học thực nghiệm nổi tiếng người Anh, trong tác
phẩm Công cụ mới (Novum – Organum), một lần nữa đánh giá cao các quan điểm logic học
của Démocrite. Theo ông , logic của Démocrite “đã đi vào tận chiều sâu thăm thẳm của giới
tự nhi ên”.
III.7 Quan điểm về hạnh phúc
Démocrite được mọi người biết như là triết gia cười của cổ đại Hy Lạp vì trong chủ thuyết
của ông, ông đề cao giá trị của sự vui t ươi. Theo Démocrite, mục đích của triết học là duy trì
hạnh phúc, một cuộc sống thanh bình mà khơng có nỗi đau và sự sợ hãi, là sống một cuộc
sống tự tại cùng những người bạn xung quanh. Ông cho rằng niềm vui và nỗi đau là những
thước đo của điều tốt và điều xấu, cái chết là sự chấm dứt của thể xác và tâm hồn, vì vậy cái
chết khơng đáng sợ, ơng cũng chỉ rằng ‘những vị chúa trời, giả dụ có tồn tại, th ì cũng không
ban thưởng hay trừng phạt con người’, trái đất là vô tận và vĩnh cửu, và các sự kiện trên trái
đất rốt cuộc đều dựa vào những sự vận động cũng như sự tác động qua lại lẫn nhau của các
nguyên tử di chuyển quanh khoảng không rỗng. “Hạnh phúc đó là tinh thần thoải mái, khỏe
khoắn, sung túc, h ài hồ, cân đối và khơng giận dữ”. “Thái độ ơn hịa làm tăng niềm vui của
cuộc sống và làm cho nỗi vui mừng trở nên lớn hơn” “Người khôn ngoan là người không
buồn rầu về cái không có, m à vui mừng với cái có”
III.8 Quan điểm đạo đức – chính trị – xã hội
Đạo đức học của Démocrite là sự thể hiện ý chí của giai cấp chủ nơ, nh ưng cũng hàm chứa
nhiều điểm có giá trị. Trong quan hệ xã hội Démocrite đánh giá cao lịng nhân ái, tình bạn.
Con người khơng thể sống thiếu bạn bè, nhưng một người bạn thông minh vẫn tốt hơn nhiều
người bạn ngu đần, một người bạn chân chính đáng giá hơn ngàn người bạn giả dối. Bạn tốt

14



Tư tưởng Triết học của Démocrite
là người xuất hiện khi được mời trong những ngày vui, chủ động đến trong những ngày đầy
thử thách, bạn xấu là người đặt tiền bạc lên trên hết. Ai khơng có bạn thì đó là người xấu, vì
khơng biết u ai, khơng ai u mình.
Con người thiện, theo Démocrite, trước hết phải là con người sống có đức hạnh. Để phân biệt
Thiện - Ác, Démocrite nêu ra những cách ngôn như “nhận ra người trung thực và người
không trung thực không nên chỉ căn cứ vào việc làm của họ, mà tỏ tường cả ý muốn của họ”,
“cái quý của gia súc ở tố chất cơ thể, cái quý của con người ở tính cách tinh thần”, “con
người tốt không làm điều phi nghĩa ngay cả trong ý nghĩ”, “chính trong bất hạnh ta cần trung
thành hơn với nghĩa vụ thiêng liêng”. Nhưng đức đạt được không bằng cưỡng chế, mà bằng
thuyết phục với những chứng lý của trí tuệ, bằng giáo dục, học vấn. Giáo dục tốt nhất là giáo
dục trong môi trường gia đình, tấm gương tốt nhất là người cha. Giáo dục không dành cho tất
cả, cũng như sự cao thượng chỉ dành cho những ai biết và hướng đến nó. Giáo dục thống nhất
với học vấn. Trình độ học vấn là thứ trang sức cho người hạnh phúc, là chốn nương thân của
kẻ bất hạnh. Để có học vấn cần hội đủ ba điều kiện: năng lực thi ên phú, rèn luyện và thời
gian. “Sự cao thượng được đem đến bằng con đường học tập và cái giá của những nỗ lực phi
thường, cịn cái xuẩn ngốc thì tự nó hiện diện, tìm kiếm khơng mấy khó khăn”. Triết lý đạo
đức của Démocrite xây dựng mẫu người hiền nhân, tương tự như mẫu người quân tử trong
triết học Nho giáo ph ương Đông. Hiền nhân không màng danh lợi, không ham của cải, cảm
nhận hạnh phúc n ơi tâm hồn. Con người hơn con vật ở “nguồn lực tâm hồn”. Démocrite
đánh giá cao trung dung và điều độ trong thái độ sống: “hãy sử dụng mọi thứ vừa đủ”, “chớ vì
khao khát biết tất cả mà tỏ ra ngu dốt trước tất cả”. Nếu đạt được những điều ấy, con người sẽ
có khối cảm tinh thần, sự tự do. Hiền nhân của Démocrite quả là mẫu người lý tưởng, nhưng
xa lạ. Hình ảnh hiền nhân thể hịên một triết lý sống của Démocrite vào thời điểm nền dân chù
đạt được những thành quả nhất định tại Aten. Démocrite là người ủng hộ nền dân chủ chủ nơ,
xem nó nh ư hình thức cai trị ưu việt nhất thời ấy - một cách tiếp cận các vần đề chính trị -xã

15



Tư tưởng Triết học của Démocrite
hội hoàn toàn đối lập với Platon. Sự nghèo khó trong nhà nước dân chủ, theo Démocrite, còn
đáng quý hơn cái mà người ta gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ quân chủ, bởi sự tự do
vẫn tốt hơn nô lệ. Démocrite xây dựng học thuyết về tiến bộ lịch sử tự thân của lo ài người từ
trạng thái thú vật sang trạng thái văn minh. Tôn giáo cũng là sản phẩm lịch sử, xuất hiện do
nỗi sợ hãi của con người trước các hiện tượng bí hiểm của tự nhiên. Sấm sét, mây mưa, bão
tố, lụt lội, núi lửa, nhật thực, nguyệt thực… - những hiện tượng đó người ngun thuỷ khơng
giải thích được, nên gán cho chúng sức mạnh thần linh, siêu nhiên.Thực ra thần linh chỉ là
những ngẫu tượng. Nếu có thần linh thì đó là lý trí con người đã được thần linh hoá. Mối
quan hệ thần linh - tự nhiên - con người được Démocrite rút xuống chỉ còn là mối quan hệ tự
nhiên - con người, trong đó con người từ chỗ bắt chước giới tự nhiên đã dần dần tạo ra thiên
nhiên cho mình, tức xã hội loài người. Con người học được nhiều điều ở tự nhiên, chẳng hạn
dõi theo những động tác của vật mà nhảy múa, quan sát loài nhệnh chăng tơ mà nghĩ cách dệt
và đan, nhìn tổ chim mà xây nhà…, nhưng lửa và ngơn ngữ là phát minh của lồi người, ghi
dấu giai đoạn phát triển từ tiền sử sang lịch sử. Trong quan niệm về phát triển, Démocrite chú
ý đến vấn đề nhu cầu. Nhu cầu sống buộc con ng ười quây quần bên nhau chống thú dữ, nhu
cầu phát triển xã hội và văn hoá khiến con người hợp tác, giúp đỡ nhau, truyền thụ kinh
nghiệm v à khiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngơn ngữ xuất hiện trong q tr ình lao
động và giao tiếp giữa người với người. Lúc đầu giọng nói ngọng nghịu, khơng phân âm; dần
dần hình thành những từ ngữ, ký hiệu, chỉ ra từng sự vật, tiến tới xác lập hệ thống ký hiệu
chung. Trong tác phẩm “Về sự đặt tên, hay về những tên gọi”, Démocrite cho rằng tên gọi
(khái niệm) xuất hiện lúc đầu một cách “ngẫu nhi ên”, chứ khơng sẵn có ở sự vật, nhằm
chống lại học thuyết Pythagore về bản chất v à ý nghĩa của tên gọi. Có thể nói quan niệm đó
của Démocrite là tiền thân của chủ nghĩa duy danh.
III.9 Quan điểm về các giấc mơ

16



Tư tưởng Triết học của Démocrite
Phát triển các ý tưởng của Leucipe, Démocrite đã đưa ra một lý thuyết về các giấc mơ. Theo
ơng, các ảo ảnh thốt ra từ cơ thể chúng ta khi chúng ta ngủ mang theo các dấu ấn về các
xung động tinh thần của chúng ta , về các phẩm chất đạo đức và xúc cảm của chúng ta.
Chúng tỏ ra thực đối với người ngủ và choán đầy các giấc mơ của anh ta. Như vậy, trong
bóng tối hồn tồn, các lớp mỏng ngun tử thoát ra từ bề mặt của các vật xung quanh để
nuôi dưỡng các giấc mơ đêm của chúng ta.
III.10 Quan điểm về ánh sáng
Các quan điểm của Démocrite về ánh sáng và thị giác đều dựa trên học thuyết nguyên tử.
Ông chấp nhận bốn màu cơ bản của Empédocle – đen, trắng, đỏ và vàng – xanh, nhưng thêm
vào đó các màu khác g ọi là các màu thứ cấp, như lục và nâu. Khác với Empédocle,
Démocrite không gắn các màu cơ bản cho bốn nguyên tố, mà gắn cho các ngun tử có hình
dạng khác nhau. Chẳng hạn, các nguy ên tử tạo ra màu trắng là tròn và nhẵn, được sắp xếp
sao cho vạch ra các k ênh thẳng, “khơng có bóng”, trong khi các ngun tử tạo ra màu đen,
phát ra bóng tối, lại có hình dạng không đều và sần sùi, được ghép lại với nhau trong các hệ
xốp vặn vẹo, giam h ãm ánh sáng. Các ngun tử bản thân chúng khơng có màu. Chỉ có các
tính chất gọi là “sơ cấp”, như kích thước, hình dạng, trọng lượng, vị trí hay chuyển động, mới
l à đặc trưng cho chúng. Các màu (và các đ ặc tính giác quan khác như mùi và vị) khơng hiện
hữu trong bản thân các vật. Chính v ì vậy mà bản thân các nguyên tử, vốn là nguyên nhân tạo
ra sự đa dạng của thế giới, có một tập hợp các tính chất rất hạn chế; nhưng chúng có thể được
gắn kết lại với nhau theo một ngh ìn lẻ một cách, làm cho thế giới trở nên vơ cùng đa dạng
thay vì đơn điệu, nhạt nhẽo và buồn tẻ. Học thuyết về màu sắc của Démocrite là một loại
khoa học vật liệu đi trước thời đại. Démocrite cịn đi xa hơn. Ơng phát biểu rằng cái mà
chúng ta thấy bắt nguồn từ cái mà chúng ta đã tạo ra trong đầu chúng ta: các “nguy ên tử màu
sắc” chỉ trở nên có màu sau khi đã tương tác với các “nguyên tử của tinh thần”. Mặc dù
Démocrite, với học thuyết nguyên tử của ông, đã vượt rất Parménide (người xem rằng Tồn tại

17



Tư tưởng Triết học của Démocrite
bất biến là một, trong khi đó theo Démocrite tồn tại được nhân lên thành một số vô hạn các
nguyên tử không thể chia cắt và bất biến), nhưng ơng có một điểm chung với Parmédie, đó là
nghi ngờ các dữ liệu cảm tính. Theo cả hai triết gia n ày, thế giới cảm giác chỉ là một ảo ảnh,
một ẩn dụ; bề mặt không tiết lộ đ ược chân lý ở sâu bên trong.
IV. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC DÉMOCRITE ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦ A THỜI ĐẠI
IV.1 Về khoa học tự nhiên Từ Mơ hình sơ khai về Ngun Tử Democritus là người đầu tiên
đưa ra khái niệm nguyên tử. Mơ hình ngun tử là một thành phần của lý thuyết nguyên tử,
nó phát biểu rằng nguyên tử được tạo thành từ các phần tử nhỏ hơn được gọi là các hạt hạ
nguyên tử (tiếng Anh: subatomic particle). Tuy nhiên, các nhà khoa học cổ Hy Lạp không dựa
tr ên các phương pháp thực nghiệm để xây dựng các lý thuyết mà dựa trên siêu hình học.
Chính vì thế mà từ khi Démocrite đưa ra khái niệm đó cho đến tận thế kỷ thứ 18 thì người ta
mới có những bước tiến bộ đáng kể trong việc phát triển lý thuyết về nguy ên tử. Trong hoá
học, từ định luật về bảo toàn khối lượng, định luật tỷ lệ các chất trong các phản ứng hoá học,
vào năm 1808, John Dalton (1766 -1844) đã đưa ra lý thuyết nguyên tử của mình để giải thích
các định luật tr ên. Lý thuyết của ông dựa trên năm giả thuyết. Giả thuyết thứ nhất phát biểu
rằng tất cả vật chất đều đ ược tạo thành từ các nguyên tử. Giả thuyết thứ hai là các nguyên tử
của cùng một nguyên tố sẽ có cùng một cấu trúc và tính chất. Giả thuyết thứ ba là các nguyên
tử không thể bị phân chia, không thể được sinh ra hoặc mất đi. Giả thuyết thứ t ư là các
nguyên tử của các nguyên tố khác nhau kết hợp với nhau để tạo ra các hợp chất. Giả th uyết
thứ năm là trong các phản ứng hố học, các ngun tử có thể kết hợp, phân tách hoặc tái sắp
xếp lại. Lý thuyết của Dalton khơng chỉ giải thích các định luật tr ên mà còn là cơ sở để xây
dựng các lý thuyết khác về nguy ên tử sau này. Cả Democritus và John Dalton đều cho rằng
ngun tử khơng có cấu trúc, tức l à nguyên tử không được tạo thành từ các phần tử nhỏ hơn,
chính vì thế người ta thường gọi các mơ hình đó là mơ hình sơ khai về nguyên tử. Cùng với

18



Tư tưởng Triết học của Démocrite
sự phát triển của khoa học, các giả thuyết của John D alton được xem xét lại và người ta thấy
rằng không phải nguyên tử là hạt khơng có cấu trúc mà ngay cả ngun tử của cùng một
ngun tố cũng có thể có tính chất khác nhau. Vào đầu thế kỷ thứ 20, các nhà khoa học đã
phát hiện ra rằng, nguyên tử được tạo thành từ ba loại hạt hạ nguyên tử, được gọi là proton,
neutron và điện tử (electron). Proton và neutron nằm ở trung tâm nguyên tử và tạo nên hạt
nhân của nguyên tử và điện tử chiếm khoảng không gian xung quanh hạt nhân đó. Số hạt hạ
nguy ên tử và sự sắp xếp của các hạt đó trong nguyên tử sẽ xác định tính chất hố học của
nguy ên tố. Nguyên tử của cùng loại nguyên tố có thể có số neutron khác nhau (đ ược gọi là
các đồng vị) và số điện tử khác nhau (được gọi là ion). Số proton là yếu tố quyết định tính
chất hố học của ngun tố. Đến Mơ hình ngun tử của Bohr Năm 1913, nhà vật lý lý thuyết
người Đan Mạch Niels Bohr (1885 -1962) đưa ra mơ hình bán cổ điển về ngun tử hay cịn
gọi là mơ hình ngun tử của Bohr. Bohr thay đổi mơ hình của Rutherford bằng cách giải
thiết rằng các điện tử chuyển động xung quanh hạt nhân theo các quỹ đạo có năng l ượng và
bán kính cố định. Năng lượng của điện tử phụ thuộc vào bán kính quỹ đạo của điện tử đó.
Điện tử nằm tr ên quỹ đạo có bán kính nhỏ nhất sẽ có năng l ượng nhỏ nhất và đó là trạng thái
năng lượng ổn định (tên khác: trạng thái ổn định, hay trạng thái c ơ bản) nhất của điện tử,
điện tử không thể nằm ở các trạng thái n ào thấp hơn trạng thái đó. Tuy vậy, điện tử có thể có
năng lượng cao hơn khi nó nằm trên các quỹ đạo xa hạt nhân hơn, lúc này điện tử nằm ở
trạng thái kích thích. Các mức năng lượng giống như các bậc thang, điện tử không thể ở giữa
các mức đó được mà chỉ có thể ở trên một bậc thang nào đó. Khi chuyển từ mức năng lượng
này sang mức năng lượng khác, điện tử có thể hấp thụ hoặc phát ra năng lượng. Năng lượng
hấp thụ và phát xạ của một quang tử chính bằng sự sai khác năng l ượng giữa các quỹ đạo.
Bằng mơ hình đó, Bohr có thể tính được năng lượng của điện tử trong nguyên tử hydrogen từ
phổ phát xạ của nguy ên tử đó. Tuy nhiên, mơ hình ngun tử của Bohr khơng thể giải thích
tính chất của các nguy ên tử có nhiều hơn một điện tử Mơ hình ngun tử hiện đại (Các hàm

19



Tư tưởng Triết học của Démocrite
sóng quỹ đạo điện tử của ngun tử hi-đrơ.) Các hàm sóng quỹ đạo điện tử của ngun tử hiđrơ. Các số lượng tử chính ở bên phải của mỗi hàng và số lượng tử phương vị được cho bởi
các chữ cái ở đỉnh mỗi cột. Mơ hình ngun tử hiện đại là mơ hình nguyên tử dựa trên cơ học
lượng tử. Cơ học lượng tử được phát triển dựa trên sự đóng góp của nhiều người: Arthur
Compton (1892-1962) tạo thí nghiệm nhiễu xạ tia X, Louis-Victor de Broglie (1892-1987)
khai triển lý thuyết lưỡng tính sóng hạt, Erwin Schrưdinger (1887 - 1961) đưa ra phương trình
sóng, Werner Heisenberg (1901 -1976) đưa ra ngun lý bất định. Dựa trên cơ học lượng tử,
người ta thay đổi mơ hình ngun tử của Bohr để xây dựng lên mơ hình hiện đại về ngun
tử. Quỹ đạo xác định trong mơ hình Bohr được thay bằng một quỹ đạo xác suất, tr ên đó điện
tử có thể được tìm thấy với một xác suất nhất định. Quỹ đạo khả dĩ hay l à trạng thái khả dĩ
của điện tử được đặc trưng bởi bốn số lượng tử. Sự sắp xếp của các điện tử trong nguyên tử
tuân theo nguyên lý Aufbau, tức là các điện tử sẽ chiếm các trạng thái có năng lượng thấp
nhất. Nhưng chúng phải thỏa mãn ngun lý loại trừ Pauli nói rằng khơng thể có nhiều hơn
hai điện tử trong nguyên tử ở các trạng thái năng lượng có bốn số lượng tử giống nhau. Sau
đó chúng phải thỏa m ãn quy tắc Hund phát biểu rằng các điện tử sẽ chiếm quỹ đạo sao cho
có số quỹ đạo nhiều nhất đối với một điện tử. Quy tắc Hund được Friedrich Hund (18961997) đưa ra khi tính đến lực đẩy tĩnh điện giữa các điện tử tr ên một quỹ đạo. Mơ hình
ngun tử được chấp nhận ngày nay Nguyên tử được tạo thành từ một hạt nhân mang điện
tích d ương nằm ở tâm nguyên tử và các điện tử mang điện tích âm chuyển động xung quanh.
Hạt nhân được tạo thành từ các hạt proton mang điện tích d ương và các hạt neutron khơng
mang điện. Mỗi ngun tố chỉ có một số proton duy nhất nh ưng có thể có số neutron khác
nhau (các đồng vị). Hạt nhân của điện tử chi ếm một vùng không gian rất nhỏ bé so với
nguyên tử. Nếu coi hạt nhân là một quả cầu bán kính 1 m đặt tại Hà Nội thì điện tử to bằng
hạt cát ở gần nhất cũng cách đó 100 km, tức l à ở Hải Phòng. Các điện tử chuyển động xung
quanh hạt nhân tr ên các quỹ đạo. Sự sắp xếp của các quỹ đạo trong nguyên tử được gọi là

20


Tư tưởng Triết học của Démocrite
cấu hình điện tử. Mỗi quỹ đạo được đặc trưng bởi ba số lượng tử là: số lượng tử chính, số

lượng tử phương vị và số lượng tử từ. Trên mỗi quỹ đạo có thể có hai điện tử, nh ưng hai điện
tử này phải có một số lượng tử thứ tư là spin khác nhau. Các quỹ đạo của điện tử không phải l
à những đường cố định mà là sự phân bố xác suất mà các điện tử có thể có mặt. Các điện tử
sẽ chiếm các quỹ đạo có năng l ượng thấp nhất (các quỹ đạo gần hạt nhân nhất). Chỉ có các
điện tử ở lớp ngồi cùng mới có khả năng tham gia để tạo các liên kết hóa học. Như vậy, có
thể nói sau hàng ngàn năm, con người đã có thể chứng minh được giả thiết mà Démocrite đã
đưa ra bằng chính tư duy lý tính của mình. IV.2 Về nhân cách Dù rằng ông lớn lên trong một
gia đình q tộc giàu có song ơng lại từ chối số tài sản được thừa kế để sống một cuộc sống
khổ hạnh. Ông đ ã ý thức được rằng: sự đủ đầy kìm hãm mọi nỗ lực bứt phá của con người.
Démocrite đã tự tạo cho mình một phong thái khác người để toàn tâm, toàn ý cống hiến cho
khoa học. Ơng thích sống đơn độc và biệt lập. Thế giới của ông hầu nh ư chỉ thu hẹp trong
một hầm mộ ở ngoại thành khi ông làm việc. Cả ngày lẫn đem, Démocrite miệt mài viết, viết
không ngơi nghỉ, viết như thể những tri thức mà ông viết ra là nguồn sống của chính ơng vậy.
Ơng đã từng viết tới 50 tiểu luận với những nội dung khoa học khác nhau. Nhưng nhà bác học
ấy khơng biến mình thành một kẻ lập dị xa lánh con người. Ông ln xuất hiện trước mọi
người với nụ cười trìu mến trên môi. Xét đến cùng, lý tưởng khoa học mà Démocrite theo
đuổi cũng là vì con người, vì nhân loại. Bởi lẽ đó, hơn ai hết, ơng là người vơ cùng yêu
thương đồng loại. Timon le Phlionte đã thán phục: "Cái ông Démocrite thật là một người
hiền" . Trong các truyền thuyết và giai thoại còn để lại, Démocrite còn là một con người
thơng thái, nhanh trí và có năng khi ếu tiên tri rất phi thường. Ông đã từng dám hứa với một
vị vua ba Tư rằng sẽ làm người vợ yêu đã chết của ông ta sống lại chỉ với một điều kiện duy
nhất. Thực ra Démocrite dám quả quyết như vậy là nhờ sự nhanh trí và sắc sảo của mình. Ơng
hứa làm người chết sống lại với điều kiện nh à vua viết được lên lăng mộ của người vợ ông ta
tên của ba người chưa từng phải chịu đau khổ lần nào. Dĩ nhiên, nhà vua không thể đáp ứng

21


Tư tưởng Triết học của Démocrite
được yêu cầu oái oăm đó của ơng. Trong lúc nhà vua đang băn khoăn, bu ồn bực vì điều đó

thì Démocrite cười phá lên và nói: "Ơi con người ngốc nghếch kia, tại sao ng ài khơng nín
khóc ngay đi, đâu phải chỉ có mình ngài là bất hạnh? Thậm chí ngài đã khơng tìm ra nổi dù
chỉ một người chưa từng một lần phải nếm trải nỗi đau buồn đó sao? ". Như thế, Démocrite
khơng những an ủi được nhà vua mà cịn dạy cho ơng ta một bài học đầy triết lí về lẽ đời.

22



×