Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN quan hệ liên nhân cách và vấn đề xây dựng mối quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.28 KB, 23 trang )

1

MỞ ĐẦU
Nhân cách là vấn đề trung tâm của tâm lý học đồng thời là một trong
những vấn đề quan trọng nhất trong hệ thống khoa học xã hội và nhân văn, nó
cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau. Mỗi một lĩnh
vực khoa học nhất định đều nghiên cứu nhân cách với góc độ tiếp cận của
riêng mình, song đều hướng tới mục tiêu chung là xây dựng và phát triển
nhân cách con người đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Trong tâm lý học xã hội vấn đề nhân cách cũng mang một số nét đặc
trưng riêng. Ở đây, nhân cách cần phải được nghiên cứu trong sự giao tiếp của
cá nhân này với cá nhân khác, nhân cách phải được đặt trong hoàn cảnh cụ
thể của một nhóm xã hội nào đó. Tâm lí học xã hội nghiên cứu nhân cách ở
nhiều khía cạnh khác nhau như khái niệm, bản chất nhân cách; những yếu tố
ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách; định hướng giá trị nhân
cách; sự thay đổi nhân cách; những con đường hình thành và phát triển nhân
cách...trong đó, việc nghiên cứu mối quan hệ liên nhân cách trong xã hội,
nhóm, tập thể giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong hình thành và phát triển
nhân cách xã hội.
Hoạt động quân sự là hoạt động đặc thù, địi hỏi cao tinh thần đồn
kết, thống nhất giữa các qn nhân, “mn người như một”. Nói cách khác đó
chính là mối quan hệ liên nhân cách đạt đến trình độ cao cả về liên hệ tâm lý
cũng như hành vi của mỗi quân nhân.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Quan hệ liên
nhân cách và vấn đề xây dựng mối quan hệ qua lại trong tập thể quân
nhân” làm đề tài viết tiểu luận.


2

NỘI DUNG


I. Quan hệ liên nhân cách
I.1. Khái niệm nhân cách trong tâm lý học xã hội.
Mỗi chúng ta là một cá nhân đơn nhất. Đây là một khẳng định mang
tính triết học và lịch sử. Con người cùng với tất cả các phẩm chất tâm sinh lý
của mình, được hình thành và phát triển trong các mối quan hệ xã hội nhất
định luôn là sản phẩm duy nhất, không lập lại, không trùng hợp theo qui luật
ngẫu nhiên. Để có thể hiểu những nhân cách đơn nhất của mình và để có thể
hiểu rõ, có thể mơ tả nhân cách con người chúng ta phải nhờ đến triết học,
đến lịch sử, đến văn học, đến xã hội học và rất nhiều các khoa học khác trong
đó có tâm lý học nói chung và tâm lý học xã hội nói riêng.
Tâm lý học xã hội là một chuyên ngành độc lập trong số các khoa học
tâm lý, và đối tượng đang bàn ở đây chính là nhân cách trong tâm lý học xã
hội. Có thể nói, nhiệm vụ chính của tâm lý học xã hội trong việc nghiên cứu
nhân cách là phát hiện và tìm hiểu những qui luật của hành vi, ý thức và hoạt
động của nhân cách nằm trong những nhóm xã hội nhất định nào đó.
Khái niệm về nhân cách trong tâm lý học xã hội cũng được tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể dẫn ra ở đây khái niệm nhân cách của
Freud: Nhân cách đó là những tình cảm, những cố gắng và những tư tưởng
phát sinh từ những mâu thuẫn của tính hiếu chiến của chúng ta, động cơ thúc
đẩy việc tìm kiếm để thoả mãn nhu cầu một cách sinh học và sự kiềm chế xã
hội chống lại chúng. Theo Freud, nhân cách hình thành do những cố gắng giải
quyết mâu thuẫn cơ sở này, nỗ lực bày tỏ những sự thúc đẩy của cá nhân tiến
tới sự thoả mãn trong phạm vi không phạm tội và bị trừng phạt. Với quan
niệm này Freud dường như đã coi nhân cách như là khả năng kiềm chế bản
năng của con người.


3

Một số nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) như: Miashiev, Smirnov,

Malưsev..., đã giải thích nhân cách như là hệ thống của các mối quan hệ. Một
số khác, như Ananhiev, Platônnôp, Merlin.., khẳng định rằng nhân cách
không phải là tất cả con người mà chỉ là những phẩm chất xã hội. Họ không
coi nhân cách là chủ thể của hoạt động phương hướng này đã đưa đến việc
hiểu tính xã hội và tính sinh học của con người là các thành phần tương đối
độc lập kết hợp với nhau theo những tỷ lệ khác nhau.
Dựa trên quan điểm của Rubinshtein, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
nhân cách là tập hợp các điều kiện bên trong, qua chúng các tự động bên
ngoài được khúc xạ. Theo định nghĩa này, các yếu tố bên trong, như nhu cầu,
kinh nghiệm, động cơ, đóng vai trò các yếu tố gây ra sự trả lời khác nhau của
chủ thể đối với những kích thích giống nhau từ thế giới bên ngồi. Từ đó,
nhân cách chưa bộc lộ được những đặc thù của chính nó, bởi vì định nghĩa
này cịn có thể áp dụng đối với mọi sinh vật sống khác nữa.
Ý thức được nhược điểm này K.K Platônôp đưa ra khái niệm: nhân
cách là con người có nhận thức. Mặc dù tính đặc thù của con người đã được
nhấn mạnh ở khái niệm trên, Platônốp vẫn mắc sai lầm, cụ thể là đã lảng tránh
bản chất hoạt động xã hội của nhân cách; sự tác động tương đối của con
người và thế giới xung quanh. Hai nhà tâm lý học Predvetmưi và Sherkhôvina
cho rằng nhân cách là con người - chủ thể của hoạt động là nhân tố cải tạo thế
giới, là chủ thể có nhận thức và tự nhận thức.
Reivald, một nhà tâm lý học Xô viết khác, cho rằng hoạt động là biện
pháp để hình thành và tồn tại nhân cách, nhân cách được thể hiện ra cũng
trong hoạt động. Khi nghiên cứu các tổ chức tâm lý của nhân cách qua hoạt
động, ơng coi chúng là các hành vi có mục đích của hoạt động và tạo nên các
giai đoạn trong cuộc sống của nhân cách.


4

Dựa vào nguyên tắc hoạt động, các nhà tâm lý học Xô viết đã đưa ra

một định nghĩa chung về nhân cách. Theo họ, nhân cách là con người - chủ
thể của hoạt động xã hội và nhờ hoạt động mà con người có được một vị trí
nhất định giữa những người khác. Các đặc điểm tâm lý của nhân cách thể
hiện ở chỗ nhân cách tiến đến cái gì và chạy khỏi cái gì, cũng như mức độ
nhận thức, tổ chức, cường độ và kết quả của tính tích cực giải quyết các
nhiệm vụ sống thiết thực.
Đứng trên lập trường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng, các nhà Tâm lý học Việt Nam đã tiếp thu có
chọn lọc các lý luận về nhân cách của Tâm lý học Xô Viết và áp dụng linh
hoạt, sáng tạo trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Theo Giáo sư, viện sĩ Phạm Minh Hạc quan niệm: Nhân cách là hệ thống
thái độ của con người. Là thước đo độ phù hợp của phẩm chất, năng lực con
người với yêu cầu xã hội, độ phù hợp càng cao thì nhân cách càng phát triển.
Cịn theo tác giả Lê Đức Phúc: Nhân cách là cấu tạo tâm lý phức tạp
bao gồm nhiều thuộc tính tâm lý cá nhân, được hình thành và phát triển trong
cuộc sống và hoạt động, quy định giá trị xã hội của mỗi người.
Theo tác giả Trần Trọng Thủy: Nhân cách là toàn bộ đặc điểm phẩm
chất tâm lý quy định toàn bộ đặc điểm và hành vi xã hội của cá nhân.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân cách thì
ở nước ta, chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song
cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng
lực hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người


5

Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ,
yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.

Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con
người. Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học
đại cương (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004) đã nêu lên định nghĩa nhân
cách như sau: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý
của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người.
Trong từ điển tâm lý do bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chủ biên có định nghĩa
về nhân cách như là tổng hồ tất cả những gì hợp thành một con người, một cá
nhân, với bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất (tạng), tài năng,
phong cách, ý chí, đạo đức vai trị xã hội. Nhân cách là một cá nhân có có ý thức
về bản thân, đã tự khẳng định được, giữ được phần nào tính nhất quán trong mọi
hành vi. Mặc dù đây là một định nghĩa khá đầy đủ về nhân cách, nó cũng vẫn
chưa thốt ra khỏi khái niệm về các đặc điểm tâm lý của cá nhân.
Trên cơ sở những nghiên cứu đó, các nhà Tâm lý học Quân sự Việt
Nam (trong cuốn Tâm lý học quân sự xuất bản năm 2005) đã đưa ra khái
niệm về nhân cách: Nhân cách là tổng hoà các phẩm chất xã hội, được cá
nhân lĩnh hội trong hoạt động và giao tiếp, phản ánh giá trị xã hội của cá
nhân đó trong cộng đồng.
Như vậy, nhân cách là sự tổng hịa nhưng khơng phải tổng hịa những
đặc điểm của con người, mà chỉ là tổng hòa những đặc điểm quy định con
người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị
và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Những quan điểm của các nhà Tâm lý học Việt Nam cũng đều thống
nhất thừa nhận, nhân cách là tính xã hội của con người, nhân cách mang bản


6

chất xã hội, nó khơng phải được sinh ra mà được hình thành và phát triển
trong quá trình con người tham gia hoạt động vào các mối quan hệ xã hội.
Nói tóm lại các khái niệm và định nghĩa về nhân cách thì có nhiều,

nhưng nội dung của chúng chưa hẳn đã thật chính xác và mơ tả được đầy đủ
các đặc tính và những yếu tố đặc thù cho nhân cách. Nhìn chung, các nhà tâm
lý học cũng như các nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học nhân văn
khác hầu như đều cho rằng nhân cách là tập hợp các phẩm chất, đặc điểm sinh
lý, các đặc tính xã hội, các thuộc tính tâm lý của mỗi cá nhân. Nhân cách
chính là những chủ thể đại diện cho các mối quan hệ xã hội.
Tâm lý học xã hội nghiên cứu nhân cách trong các nhóm xã hội nhất
định. Tại đó, mỗi cá nhân mang những đặc điểm chung, đặc trưng cho nhóm
xã hội cụ thể và được gọi là nhân cách xã hội. Điều đó có nghĩa là, nhân cách
xã hội tham gia vào một nhóm xã hội nhất định, mang những đặc điểm chung,
đặc trưng cho nhóm xã hội đó và chính q trình hoạt động và giao tiếp của
nhóm chi phối các hành vi của nhân cách - đối tượng mà chúng ta quan tâm.
I.2. Quan hệ liên nhân cách
a. Khái niệm, bản chất quan hệ liên nhân cách
Nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội, cũng có nghĩa là nghiên cứu
cá nhân trong các nhóm, trong các quan hệ xã hội. Nói cách khác là nghiên
cứu cá nhân trong hệ thống chung các mối quan hệ xã hội, trong một số “ngữ
cảnh xã hội”. “Ngữ cảnh” này bao gồm hệ thống các mối quan hệ thực của
nhân cách với thế giới khách quan. Xác nhận các mối quan hệ có nghĩa là
thực hiện nguyên tắc chung về phương pháp luận - nghiên cứu con người
trong sự liên hệ với môi trường xung quanh. Nhưng nội dung, mức độ các
mối quan hệ của con người với thế giới khách quan lại rất khác nhau bởi vì


7

mỗi cá nhân lại là chủ thể của rất nhiều mối quan hệ khác nhau. Trong sự đa
dạng đó có thể có thể chia ra làm hai loại mối quan hệ: quan hệ xã hội và
quan hệ “tâm lý” của nhân cách - quan hệ liên nhân cách.
Cấu trúc quan hệ xã hội được bộ môn Xã hội học nghiên cứu. Trong lý

thuyết của khoa học, Xã hội học đã đưa ra rất nhiều loại quan hệ xã hội: quan
hệ kinh tế, quan hệ pháp quyền, quan hệ chính trị... Tổng hoà các mối quan hệ
này tạo nên quan hệ xã hội. Đặc trưng của quan hệ xã hội được biểu hiện ở
chỗ, trong các mối quan hệ này không chỉ đơn giản là cá nhân “gặp gỡ” với cá
nhân hay cá nhân “quan hệ” với cá nhân khác mà những cá nhân này với tư
cách là những người đại diện cho các nhóm xã hội nhất định (đại diện cho giai
cấp nghề nghiệp, các tổ chức chính trị, đảng phái...). Do vậy, có thể hiểu:
quan hệ xã hội là quan hệ giữa các cá nhân với tư cách đại diện cho một nhóm
xã hội, do xã hội quy định một cách khách quan vai trò của mỗi cá nhân trong
nhóm. Ví dụ: thầy - trị; người mua - người bán; thủ trưởng - nhân viên.
Đặc trưng cơ bản của quan hệ xã hội là các mối quan hệ này được thiết
lập khơng phải dựa trên nền tảng có thiện cảm hay không thiện cảm của các
cá nhân mà dựa trên cơ sở về vị trí nhất định của mỗi cá nhân trong xã hội,
trên cơ sở những chức năng, hành vi mà cá nhân phải thực hiện khi đứng ở vị
trí đó (gọi là vai xã hội). Bởi vậy, các mối quan hệ này được xã hội quy định
một cách khách quan. Đây là mối quan hệ giữa các nhóm xã hội hay giữa các
cá nhân với tư cách là những đại diện các nhóm xã hội đó. Điều này nói lên
rằng quan hệ xã hội khơng có tính bản sắc. Bản chất của các mối quan hệ này
không nằm trong sự tác động qua lại giữa các nhân cách mà nằm trong sự tác
động qua lại giữa các vai trò xã hội.
Trong thực tế, mỗi cá nhân đảm nhiệm khơng chỉ một vai trị mà là
nhiều vai xã hội: Họ có thể là một giáo viên, một người bố, là một thành viên


8

một câu lạc bộ, là một trưởng họ... Có những vai xã hội được quy định trước
cho con người từ khi mới sinh ra (ví dụ là nam hay nữ), những vai xã hội khác
được hình thành trong cuộc sống. Mặc dù vậy, bản thân vai xã hội không
quyết định hoạt động và hành vi của mỗi người mà tất cả những điều đó phụ

thuộc vào nhận thức của cá nhân và sự nhập vai của cá nhân đó. Sự nhập vai
mang màu sắc cá nhân rõ rệt vì được xác định bằng hàng loạt các đặc điểm
tâm lý cá nhân của người mang vai đó. Bởi vậy các quan hệ xã hội, mặc dù
thực chất là các quan hệ theo vai, không phải là quan hệ nhân cách, nhưng
trong thực tế, trong mỗi sự biểu hiện cụ thể vẫn có “sắc thái nhân cách”. Trở
thành nhân cách trong hệ thống các quan hệ xã hội, con người nhất định phải
tham gia vào quá trình tác động qua lại, vào q trình giao tiếp vì thơng qua
các q trình đó những đặc tính cá nhân nhất định được biểu hiện. Bởi vậy
mỗi vai trị xã hội khơng có nghĩa là sự định trước tuyệt đối của hành vi, mà
nó thường xuyên giữ lại một vài “phạm vi cơ hội” cho người thực hiện. Ta có
thể ước lệ gọi đó là “phong cách nhập vai”. Chính phạm vi này trở thành nền
tảng để xây dựng các quan hệ khác bên trong của hệ thống quan hệ xã hội quan hệ liên nhân cách.
Khi tham gia vào các quan hệ với người khác, cá nhân, một mặt có thể
thực hiện vai xã hội do mối quan hệ đó quy định. Khi đó cá nhân đang tiến
hành mối quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân có thể quan hệ với người khác
khơng phải trên cơ sở của vai xã hội mà chủ yếu dựa trên cơ sở của tình cảm,
xúc cảm của quan hệ mang tính tâm lý. Khi đó cá nhân đang thực hiện quan
hệ liên nhân cách.
Quan hệ liên nhân cách là quan hệ cá nhân với cá nhân trên cơ sở tâm
lý, tình cảm và sự đồng nhất với nhau ở mức độ nhất định.


9

Như vậy, nói đến quan hệ liên nhân cách là nói đến quan hệ mang tính
người - người, nói đến nội dung tâm lý của quan hệ đó chứ khơng nói đến nội
dung “cơng việc” của quan hệ đó.
Quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách gắn bó rất chặt chẽ với nhau.
Trong Tâm lý học xã hội có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề xác
định vị trí của quan hệ liên nhân cách với hệ thống quan hệ xã hội. Đôi khi

quan hệ liên nhân cách được coi như ngang hàng với quan hệ xã hội, một
thành phần tạo nên các quan hệ xã hội, hoặc ngược lại quan hệ liên nhân cách
ở mức độ cao hơn quan hệ xã hội, hay quan hệ liên nhân cách là sự phản ánh
trong ý thức của quan hệ xã hội...Theo quan điểm khác, bản chất của quan hệ
liên nhân cách có thể được hiểu đúng nếu như chúng không đặt ngang hàng
với quan hệ xã hội mà được nhìn nhận như một hàng quan hệ đặc biệt xuất
hiện bên trong mỗi loại quan hệ xã hội và nó khơng thể nằm ngồi các quan
hệ này (ví dụ như “thấp hơn”, “cao hơn” hay “bên cạnh”).
Quan hệ liên nhân cách nằm trong quan hệ xã hội, chúng đan xen vào
nhau. Bất kì một quan hệ xã hội nào cũng bao hàm quan hệ liên nhân cách
ở một mức độ nhất định. Ngược lại bất kì một quan hệ liên nhân cách nào
cũng bao hàm một quan hệ xã hội nhất định. Ví dụ, trong quan hệ tình u,
thoạt nhìn đây là quan hệ có vẻ như là quan hệ liên nhân cách đơn thuần
nhưng thực tế nó cũng khơng thể thốt khỏi một kiểu quan hệ xã hội (một
vai trò xã hội là nam giới và vai kia là nữ giới). Sự tồn tại quan hệ liên
nhân cách bên trong các hình thức khác nhau của quan hệ xã hội như là sự
thực hiện các quan hệ trong hoạt động của các nhân cách cụ thể, trong các
hoạt động giao tiếp và sự tác động qua lại. Trong q trình thực hiện đó,
mối quan hệ giữa con người với con người (trong đó có mơi quan hệ xã
hội) một lần nữa được tái tạo lại. Hay nói một cách khác, trong tồn bộ tiến
trình vận hành hệ thống khách quan các quan hệ xã hội có sự hiện diện của
các yếu tố thuộc về các cá nhân. Chính vì vậy ở đây có sự giao thoa giữa
quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân cách.


10

Bản chất quan hệ liên nhân cách khác với bản chất quan hệ xã hội được
thể hiện ở nét đặc trưng quan trọng: quan hệ liên nhân cách được thiết lập trên
nền tảng xúc cảm, tình cảm. Điều đó có nghĩa là những quan hệ liên cách đó

xuất hiện và hình thành trên nền tảng những tình cảm nhất định nảy sinh ở
con người trong mối quan hệ giữa con người với con người. Chính vì vậy
quan hệ liên nhân cách được xem như là nhân tố của bầu “không khí tâm lý”
trong nhóm.
b. Các yếu tố chi phối quan hệ liên nhân cách
* Giao tiếp trong hệ thống quan hệ liên nhân cách
Khơng thể có quan hệ người - người (bao hàm cả quan hệ xã hội và
quan hệ liên nhân cách) nói chung nếu thiếu giao tiếp. Giao tiếp là phương
tiện là công cụ để thực hiện các quan hệ đó. Do vậy, giao tiếp có một vị trí
trung tâm trong hệ thống phức tạp các quan hệ của con người. Hiểu chung
nhất, giao tiếp như là sự tác động qua lại giữa hai hay nhiều người để trao đổi
thơng tin, nhận thức hay tình cảm. Trong cấu trúc của giao tiếp có những
phương diện sau: 1) Sự gắn kết, thành lập cộng đồng; 2) Sự trao đổi thông tin;
3) Sự hiểu biết lẫn nhau. Cả ba phương diện này của giao tiếp đều tác động
mạnh mẽ đến quan hệ liên nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Nó vừa là phương thức phát triển cá nhân vừa là phương thức để thống nhất
các cá nhân. Cần đặc biệt nhấn mạnh ý tưởng rằng, trong giao tiếp, cá nhân
lĩnh hội các chuẩn mực, các giá trị xã hội, đồng thời biểu hiện sự gắn bó tình
cảm, sự ghét bỏ, chối từ hay đơn giản là thờ ơ, lãnh đạm đối với các cá nhân
khác. Cũng trong giao tiếp, các định hướng giá trị của cá nhân có thể xích gần
lại với định hướng giá trị của cá nhân khác hay theo chiều ngược lại là phân
hóa rõ ràng hơn. Chính điều này tác động đến quan hệ liên nhân cách.


11

Hai hàng quan hệ của con người - quan hệ xã hội và quan hệ liên nhân
cách được bộc lộ và thực hiện chính trong giao tiếp. Vì vậy có thể nói, nguồn
gốc khởi thủy của giao tiếp được bắt nguồn từ hoạt động trong cuộc sống của

cá nhận. Giao tiếp là thực hiện toàn bộ hệ thống các quan hệ của con người.
Các mối quan hệ đa dạng của con người chỉ có thế thực hiện trong giao tiếp.
Xã hội lồi người khơng thể tồn tại nếu khơng có giao tiếp. Nó vừa như một
phương thức thống nhất các cá nhân vừa như là một phương thức phát triển
các cá nhân đó. Chính vì vậy giao tiếp cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ:
vừa thực hiện quan hệ xã hội và vừa thực hiện quan hệ liên nhân cách.
Mỗi loại quan hệ vận hành trong các hình thức đặc trưng của giao tiếp.
Giao tiếp với tư cách thực hiện quan hệ liên nhân cách được nghiên cứu rất
nhiều trong Tâm lý học xã hội. Giao tiếp liên nhân cách được nảy sinh từ hoạt
động cùng nhau của con người. Vì vậy, nó được thực hiện trong các quan hệ
liên nhân cách đa dạng, có nghĩa là nó được hình thành trong trường hợp khi
quan hệ giữa con người với con người mang tính tích cực và ngay cả khi quan
hệ đó mang tính tiêu cực.
Giao tiếp khi thực hiện các quan hệ xã hội là giao tiếp giữa các nhóm
hay các cá nhân như là đại diện của các nhóm xã hội. Trong trường hợp này
hoạt động giao tiếp cần thiết phải được diễn ra thậm chí ngay cả khi có sự đối
kháng giữa các nhóm. Trong tác phẩm của mình, Mác đã viết rằng: giao tiếp
là người bạn đồng hành tuyệt đối của lịch sử nhân loại. Theo Lêônchiev, giao
tiếp cũng là người bạn đồng hành tuyệt đối trong hoạt động hàng ngày, trong
sự tiếp xúc hàng ngày của con người. Như vậy, chúng ta có thể nghiên cứu
lịch sử thay đổi các hình thức của giao tiếp trong phạm vi phát triển xã hội
cùng với sự phát triển các quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị và các quan hệ xã
hội khác. Với tư cách là người đại diện cho một số nhóm xã hội, con người
giao tiếp với đại diện của nhóm xã hội khác và cùng một lúc đã thực hiện


12

được hai loại quan hệ: quan hệ xã hội và quan hệ nhân cách. Ví dụ, người
nơng dân khi bán sản phẩm của mình ngồi chợ và nhận được một số tiền, số

tiền này như một công cụ cần thiết của giao tiếp trong hệ thống quan hệ xã
hội. Mặt khác, người nông dân này khi bán hàng đã bộc lộ những đặc điểm
tâm lý riêng của mình, tác động qua lại với khách hàng hay nói cách khác là
chính bằng nhân cách của mình để giao tiếp với khách hàng.
* Những yếu tố tâm lý xã hội
Với tư cách là quan hệ tâm lý giữa các cá nhân, quan hệ liên nhân cách
chịu sự tác động của một loạt các yếu tố tâm lý xã hội. Đó là sự gần gũi giữa
các cá nhân, sự tương tác và hình ảnh “cái tôi” của các cá nhân.
Sự gần gũi giữa các cá nhân bao hàm sự gần gũi về địa lý và về tâm lý.
Sự gần gũi về địa lý thường tạo cơ hội cho sự giao tiếp thường xuyên giữa các
cá nhân, từ đó làm nảy sinh sự hiểu biết lẫn nhau, sự gắn bó và đồng nhất lẫn
nhau ở mức độ nhất định, đặc biệt trong các trường hợp các cá nhân đó cùng
ở trong mơi trường lạ, không quen thuộc. Sự gần gũi về địa lý càng gần thì
càng tạo điều kiện cho việc hình thành nhiều quan hệ liên nhân cách. Sự gần
gũi về địa lý còn tạo ra những sự tương đồng nhất định về tâm lý giữa các cá
nhân trong cùng một cộng đồng.
Sự gần gũi giữa các cá nhân về tâm lý trong Tâm lý học xã hội thường
được gọi là sự tương hợp tâm lý. Sự tương hợp tâm lý có thể hiểu là sự giống
nhau của các đặc điểm tâm lý của các cá nhân và sự thích ứng lẫn nhau dễ dàng
giữa các cá nhân. Sự tương hợp tâm lý về thái độ, sở thích, về quan điểm, về
cách thức ứng xử... là điều kiện thuận lợi cho sự hình thành các quan hệ liên
nhân cách. Các yếu tố đó có thể giúp quan hệ liên nhân cách trở nên gắn bó
chặt chẽ hơn. Sự tương hợp tâm lý tạo ra sự hài hòa trong quan hệ mà các cá
nhân khơng cần phải điều chỉnh nhiều để thích ứng với cá nhân khác. Đây được


13

coi là tiền đề tốt cho một quan hệ liên nhân cách bền chặt. Các cá nhân có xu
hướng tìm kiếm và thiết lập quan hệ với các cá nhân khác giống mình. Điều

này lại được giải thích bằng cơ chế đồng nhất hóa và nhu cầu được khẳng định
bản thân của cá nhân trong đời sống xã hội. Sự giống nhau giữa một số cá nhân
tạo điều kiện cho cá nhân cảm thấy sự tự tin, tôn trọng vào bản thân, thúc đẩy
cá nhân quan hệ tích cực hơn với các cá nhân giống mình. Tuy nhiên, trong
Tâm lý học xã hội cũng có những ý kiến ngược lại cho rằng không chỉ sự tương
hợp tâm lý giúp quan hệ liên nhân cách có thể tạo ra và làm tăng cường quan
hệ liên nhân cách mà ngay cả sự khác biệt cũng có vai trị nhất định trong việc
tạo ra quan hệ liên nhân cách. Khơng ít khi, sự khác biệt lại tạo ra sự cuốn hút
các đối tượng khác trong quan hệ liên nhân cách.
Quan hệ liên nhân cách diễn ra trên cơ sở sự tương tác giữa các cá
nhân. Tương tác được hiểu là sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân nhằm
thực hiện những mục đích nhất định nào đó. Trong q trình tương tác, các cá
nhân nằm trong sự tác động qua lại trực tiếp, trao đổi thông tin, điều chỉnh,
phối hợp hành động với nhau, nhận thức lẫn nhau. Chính trong q trình này,
các đặc điểm tâm lý của cá nhân được bộc lộ, biểu hiện ra bên ngoài và được
các cá nhân khác nhận biết. Tính chất của sự tương tác có thể ảnh hưởng đến
quan hệ liên nhân cách. Có hai loại tương tác chính: hợp tác và cạnh tranh.
Mỗi loại có tính chất riêng. Hợp tác là sự tương tác theo chiều hướng phối
hợp hành động, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động. Hợp tác có thể tạo quan hệ
liên nhân cách tốt khi các cá nhân tham gia vào quan hệ đó tích cực và thiện
chí. Ngược lại, nếu các cá nhân ỷ lại, bị động, sự tương tác sẽ không đem lại
hiệu quả mong muốn. Cạnh tranh là loại tương tác giúp cá nhân phát huy tốt
nhất tiềm năng của mình, bộc lộ rõ rệt bản thân. Tuy nhiên cạnh tranh với
mục đích tiêu cực có thể làm hủy hoại quan hệ liên nhân cách.


14

Hình ảnh “cái tơi” của mỗi cá nhân là một cấu trúc tâm lý, là biểu tượng
của cá nhân về chính bản thân, hình thành nhờ q trình tự nhận thức, tự đánh

giá bản thân. Cái tôi là hạt nhân của hệ thống điều khiển của nhân cách. Nó chi
phối thái độ, hành vi của con người trong các quan hệ xã hội. Trong quá trình
hoạt động với người khác cái tơi được thể hiện ở 5 phương diện: tính đồng
nhất, tính ổn định, q trình tự ý thức, tự đánh giá về bản thân và ý thức xã hội
(theo Shibutani). Tính đồng nhất thể hiện ở hành vi, ứng xử của một cá nhân.
Trong cùng một tình huống, một thời điểm, một cá nhân khơng có những cách
ứng xử trái ngược nhau. Cá nhân lựa chọn và hành động theo một lập trường
nhất định. Bên cạnh đó, cái tơi tương đối ổn định, nó khơng dễ dàng thay đổi
khi cá nhân thay đổi vai xã hội của mình. Do vậy, xác định được vị trí của bản
thân trong các quan hệ với người khác đóng vai trị to lớn đối với việc điều
chỉnh quan hệ liên nhân cách. Bên cạnh đó, chính nhờ các quan hệ với người
khác, cá nhân có thể hình thành cái tơi ngày càng chính xác hơn.
II. Xây dựng mối quan hệ qua lại tích cực trong tập thể quân nhân
hiện nay.
II.1. Mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân
Quá trình giao tiếp và hoạt động chung giữa các quân nhân sẽ làm nảy
sinh những mối liên hệ thực tế như: cấp trên – cấp dưới; đồng chí đồng đội;
tình cảm, cơng việc… được phản ánh vào đời sống tâm lý của họ. Đó là những
mối liên hệ tâm lý bên trong, phản ánh nhận thức, quan điểm, thái độ, tình
cảm ... đối với nhau, với nhiệm vụ. Mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân
được tạo nên bởi những yếu tố nhất định như (hiểu biết lẫn nhau; đồng cảm;
hợp tác; ảnh hưởng lẫn nhau):
+ Hiểu biết lẫn nhau: Là sự tìm hiểu, nhận xét, đánh giá về nhau giữa các
quân nhân. Đây là một quá trình phức tạp, diễn ra với sự phong phú của các


15

quy luật nhận thức; là yếu tố tạo nên sự thống nhất về nhận thức, quan
điểm giữa các cá nhân trong quan hệ. Hiểu biết lẫn nhau là cơ sở quan trọng

trong hình thành MQH giữa các quân nhân.
+ Đồng cảm với nhau: Là sự chia xẻ cảm xúc, bộc lộ thái độ đối với nhau,
thể hiện ở sự quan tâm lẫn nhau, yêu mến, tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau.
Đây là tiền đề cho tình thân ái giữa người với người, là một trong những yếu
tố liên kết các quân nhân và thích ứng lẫn nhau về mặt tâm lí. “ Một con ngựa
đau, cả tàu bỏ cỏ”
+ Hợp tác lẫn nhau: Là sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá trình
cùng thực hiện nhiệm vụ, từ đó tạo ra tính đồng bộ, thống nhất và hiệu quả
cao trong hoạt động chung, biểu hiện ở sự thống nhất động cơ, mục đích hành
động, ăn ý trong thao tác… là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt
động chung.
+ Ảnh hưởng lẫn nhau : Là sự tác động tương hỗ có ý thức xây dựng
của các chủ thể, từ đó làm biến đổi nhân cách của nhau, biểu hiện ở sự học
hỏi lẫn nhau, thuyết phục và nêu gương, đòi hỏi, giúp đỡ lẫn nhau.
=> Các yếu tố đó vừa là điều kiện, vừa là kết quả của nhau, chi phối lẫn
nhau trong quá trình tạo thành mối quan hệ. Vì thế, để phát triển các MQH
tích cực trong TTCSQN nhất thiết phải coi trọng các nhân tố trên.
Quân đội ta là quân đội cách mạng, công cụ bạo lực sắc bén bảo vệ
đảng, bảo vệ giai cấp, bảo vệ nhân dân…Do đó, MQHQL giữa các quân
nhân trong quân đội nó cũng phản ánh đầy đủ những đặc trưng của
MQHQL giữa người với người trong xã hội. Đồng thời, nó cịn phản ánh
những nét đặc trưng riêng của lĩnh vực hoạt động quân sự. MQHQL giữa
các quân nhân trong quân đội ta mang bản chất xã hội xã hội chủ nghĩa,
bản chất giai cấp công nhân, phản ánh đặc điểm lĩnh vực hoạt động quân
sự, đặc điểm tâm lý nhân cách người quân nhân cách mạng.


16

Mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân trong quân đội ta (cách mạng)

dựa trên cơ sở hệ tư tưởng Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chuẩn mực
giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng. Đó là MQHQL thể hiện
sự nhất trí về chính trị- đạo đức, sự bình đẳng xã hội, tuân theo các yêu cầu
chặt chẽ của điều lệnh quân đội và chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nó
phản ánh đầy đủ các hình thức và nguyên tắc chung điển hình của xã hội ta,
được cụ thể hố phù hợp với cuộc sống quân đội theo yêu cầu điều lệnh. Trong
đó, nét đặc trưng là tình đồng chí, tình bạn chiến đấu, đồng cam cộng khổ,
vừa tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, vừa đòi hỏi lẫn nhau để thực
hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao.
MQHQL đó phản ánh mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng về tổ
chức, phương thức hoạt động của quân nhân trong điều kiện của hoạt động
quân sự. Sự phong phú, đa dạng về nội dung, hình thức, tính chất các mối
quan hệ trong TTCSQN do chính địi hỏi khách quan của nhiệm vụ chính trị,
đặc điểm về nhiệm vụ, tổ chức biên chế cũng như hoạt động của đơn vị quy
định. Do đó, MQHQL giữa các qn nhân nó phản ánh tính chất, đặc điểm
hoạt động của đơn vị cũng như phương thức hoạt động của quân nhân trong
tập thể. Đó là MQH bị quy định bởi kỷ luật quân đội, điều lệnh, điều lệ,
những chế độ quy định của đơn vị,
* Các loại mối quan hệ qua lại trong tập thể cơ sở quân nhân.
Các loại mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân rất phong phú, đa
dạng và luôn biến động. Chúng xen kẽ lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Do đó,
cần phân biệt những MQHQL thường tồn tại trong TTCSQN. Đó là…
Căn cứ vào chức trách quân nhân có:
* Quan hệ chỉ huy - phục tùng: Hệ thống các quan hệ giữa cấp trên và
cấp dưới. Đây là QH cốt yếu quy định mọi hoạt động của TT và các QH khác,
Nó có thể kích thích làm tăng thêm tính tích cực, sáng tạo của quân nhân,


17


hoặc ngược lại có thể làm cho họ chán nản, suy sụp. Việc biết cách chỉ huy
lãnh đạo quân nhân, thiết lập các mối quan hệ với họ không những là nhiệm
vụ chính mà cịn là nhiệm vụ phức tạp nhất của người cán bộ. Do đó, người
cán bộ phải nhận thức đúng vị trí, vai trị của mình, có ý thức kỷ luật cao,
nghiêm khắc với chính mình. Với cấp dưới, cần có thái độ tin cậy, quý trọng,
ủng hộ sáng kiến, bình tĩnh, lắng nghe, khuyến khích, đề nghị, khuyên bảo khi
đó cấp dưới sẽ tự nguyện đến với cán bộ một cách thân mật, thoải mái. Các
thái độ tự ái, tự cao, tự đại, định kiến sẽ dẫn đến đánh giá cấp dưới thiếu
khách quan, ảnh hưởng xấu tới quan hệ cấp trên, cấp dưới.
* Quan hệ cộng tác- phối hợp: Hệ thống các quan hệ giữa các quân
nhân cùng cấp, cùng chức. Đây là các mối quan hệ bảo đảm sự thống nhất ý chí
và hành động tập thể. Quan hệ này địi hỏi phải có sự xác định rõ ràng, phân
công trách nhiệm phù hợp giữa các quân nhân. Trên cơ sở đó mà các quân
nhân phối hợp hành động với nhau một cách chặt chẽ, thường xuyên và có
hiệu quả; đồng thời phát huy tinh thần đồn kết giữa các thành viên. HĐQS
địi hỏi quan hệ này rất chặt chẽ, nếu khơng sẽ khó hồn thành nhiệm vụ.
Căn cứ theo tính chất pháp quy có:
* Quan hệ chính thức: Hệ thống các quan hệ được quy định trong các
văn bản pháp lí, chỉ thị, điều lệnh, điều lệ hoặc không được ghi thành văn
bản nhưng thể chế hoá hành động của tập thể theo truyền thống đã được thừa
nhận nhằm hướng hoạt động của mọi thành viên vào việc thực hiện mục đích
chung của tập thể, từ đó tạo nên cơ cấu chính thức trong tập thể.
* Quan hệ khơng chính thức: Hệ thống quan hệ liên nhân cách dựa trên cơ
sở sự tương đồng về tâm lý như: nhu cầu, động cơ, đồng cảm, cùng sở thích, thói
quen, khuynh hướng, tuổi tác, cùng chung mục đích… tạo nên cơ cấu khơng chính
thức trong tập thể.


18


Căn cứ vào nội dung biểu hiện thì có:
* Quan hệ công việc: Hệ thống quan hệ giữa các quân nhân ở các vị trí,
chức năng cụ thể khác nhau nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, thể
hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa họ. Quan hệ công việc bao giờ cũng được
chun mơn hố, các cá nhân tham gia vào đó chủ yếu là người thực hiện những
chức trách nhất định. Quan hệ này nảy sinh và tồn tại nhằm bảo đảm sự thống
nhất hành động trong tập thể.
* Quan hệ tình cảm: hệ thống quan hệ thể hiện thái độ cảm xúc giữa
các quân nhân với nhau và sự giao lưu tình cảm giữa họ trong cuộc sống và
hoạt động.Trong quan hệ tình cảm, nét nổi bật là sự quan tâm cá nhân đến đối
tượng tiếp xúc. Mối quan hệ người - người ở đây thể hiện thái độ thoả mãn
hay không thoả mãn của các chủ thể đối với người khác với tư cách là đối
tượng giao lưu của mình.
II.2. Biện pháp xây dựng mối quan hệ qua lại tích cực giữa các
quân nhân trong tập thể.
Để hình thành và phát triển MQHQL tích cực giữa các quân nhân trong
tập thể cơ sở quân nhân, trước hết chúng ta cần nắm vững các nguyên tắc của
MQHQL giữa các quân nhân.
a. Nguyên tắc của mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân.
Xuất phát từ bản chất của quân đội cách mạng, từ đòi hỏi của hoạt động
quân sự, điều lệnh quân đội đã xác định những nguyên tắc trong quan hệ giữa
các quân nhân là:
*Nguyên tắc thủ trưởng và sự phục tùng nghiêm ngặt
Đây là ngun tắc có vai trị hết sức quan trọng, là cơ sở tạo sự thống
nhất cả về ý chí và hành động, bảo đảm cho việc chỉ huy được thông suốt từ
trên xuống dưới.


19


Nguyên tắc này chỉ rõ các yêu cầu cơ bản đối với quân nhân trong quan
hệ nội bộ như: phân chia thủ trưởng và thuộc quyền; giao phó cho thủ trưởng
quyền ra lệnh cho cấp dưới và nghĩa vụ của cấp dưới phải chấp hành một cách
chính xác và tuyệt đối mệnh lệnh của thủ trưởng, phải tôn trọng cấp dưới,
kính trọng cấp trên.
Nắm vững nguyên tắc này, trong quá trình xây dựng mối quan hệ qua
lại giữa các quân nhân, đòi hỏi mỗi quân nhân cần xác định rõ vị trí của mình
trong từng mối quan hệ cụ thể. Hiểu rõ nghĩa vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
bản thân trong mối quan hệ đó, từ đó biết tổ chức các mối quan hệ qua lại
đúng nguyên tắc, yêu cầu của hoạt động quân sự, hoạt động tập thể.
*Nguyên tắc tính tập thể:
Đây là nguyên tắc quan trọng, là cơ sở tạo nên sức mạnh tổng hợp cho
tập thể, đơn vị…hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Nội dung của
nguyên tắc thể hiện: mọi mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân đều phải
được xây dựng trên tinh thần chủ nghĩa tập thể, hướng vào thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ chung của tập thể.
Nguyên tắc này thể hiện rõ ý nghĩa của sự gắn bó lẫn nhau trong tập thể
quân nhân, sự tương hợp và thay thế lẫn nhau trong mọi điều kiện của hoạt
động quân sự. Sức mạnh của quân đội là sức mạnh tập thể, sức mạnh của sự
đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động của các qn nhân… Do đó, quân
nhân phải đoàn kết với nhau như ruột thịt, sẵn sàng hy sinh vì nhau để tạo
thành một khối thống nhất “muôn người như một” trong tập thể.
Nắm vững nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi quân nhân phải nắm hiểu rõ
quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng tập thể đơn vị vững mạnh; phát huy quyền làm chủ tập thể; kết hợp
hài hồ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, biết đặt lợi ích tập thể lên
trên lợi ích cá nhân.


20


* Nguyên tắc nhân ái của những người đồng chí cùng chiến đấu:
Đây là nguyên tắc cơ bản, phản ánh đặc trưng MQHQL giữa các quân
nhân mà chỉ ở quân đội ta (quân đội cách mạng) mới có. Là cơ sở tạo nên sự
đoàn kết, thống nhất trong đơn vị. Nội dung nguyên tắc được thể hiện, là sự
đòi hỏi mọi quân nhân phải tôn trọng nhân cách của nhau, thương yêu, giúp
đỡ lẫn nhau mọi lúc, mọi nơi.
Nắm vững nguyên tắc này, đòi hỏi mọi quân nhân trong quá trình sống,
hoạt động cũng như thực hiện nhiệm vụ phải luôn biết thương yêu, đùm bọc
lẫn nhau, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cùng nhau. Đồng thời, ln có thái độ
đòi hỏi cao lẫn nhau trong trong hoạt động chung của tập thể cũng như trong
giao tiếp hàng ngày. Giữ vững truyền thống tình cảm đồng chí, đồng đội gắn
bó keo sơn, thuỷ chung son sắt, chí nghĩa chí tình của Quân đội ta.
Các nguyên tắc trên quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ đạo việc xây dựng,
duy trì và điều hành các mối quan hệ qua lại trong tập thể CSQN. Quá trình
xây dựng và thiết lập các mối quan hệ qua lại của quân nhân nhất thiết phải
quán triệt và tuân thủ theo các nguyên tắc này.
b. Một số biện pháp tâm lý – xã hội chủ yếu để hình thành mối quan
hệ qua lại tích cực giữa các quân nhân trong tập thể cơ sở quân nhân.
* Giáo dục tạo nên sự thống nhất định hướng giá trị nhân cách cho QN.
Thống nhất định hướng giá trị sẽ tạo nên sự thống nhất đánh giá và
hướng thái độ lựa chọn của quân nhân vào những giá trị phù hợp với quan hệ
giữa các quân nhân trong quá trình sống và hoạt động cùng nhau.
Để thống nhất về định hướng giá trị, phải tập trung hướng vào làm cho
các giá trị chính trị tinh thần được coi trọng, xây dựng nhận thức chính trị cao,
thống nhất, phù hợp với yêu cầu tình hình nhiệm vụ cách mạng, quân đội, đơn
vị. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc về giá trị to lớn của đoàn kết, chăm lo


21


giữ gìn đồn kết trong tập thể. Đồng thời, cần tạo điều kiện phát triển lối sống
tích cực, lành mạnh trên tinh thần của chủ nghĩa tập thể, kế thừa các giá trị tốt
đẹp về truyền thống nhân ái, đoàn kết của dân tộc.
* Xây dựng bầu khơng khí tâm lí xã hội lành mạnh trong tập thể.
Bầu khơng khí tâm lí xã hội là mơi trường, điều kiện để hình thành và
phát triển các MQHQL. Mặt khác, nó được tạo nên bởi sự tác động tổng hợp
của các hiện tượng tâm lí xã hội, trong đó có mối quan hệ qua lại.
Chú ý phát huy tốt vai trò của các hiện tượng tâm lý – xã hội trong TT,
nhất là định hướng dư luận tập thể vào việc phát triển quan hệ giữa các quân
nhân, điều khiển được tâm trạng tập thể, chuẩn bị tốt tâm thế cho quân nhân
trước những nhiệm vụ cụ thể.
* Đa dạng hoá các hoạt động chung và phát triển giao tiếp tích cực
giữa các quân nhân.
Hoạt động là cơ sở để phát triển các MQHQL và GT giữa các QN. Hoạt
động càng đa dạng, phong phú thì QH và GT cũng phong phú…. Mặt khác, giao
tiếp tích cực giữa các quân nhân làm cho mối quan hệ qua lại nhanh chóng được
thiết lập. Do đó, Cần thống nhất về động cơ và mục đích hoạt động; Bảo đảm
chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, rõ ràng, thấu suốt tới mọi quân
nhân, duy trì kỷ luật và sự phối hợp chặt chẽ giữa các quân nhân, chú trọng
mở rộng các hình thức giao tiếp, đối thoại trong cuộc sống, hoạt động chung.
* Phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ.
Người cán bộ có vai trị đặc biệt quan trọng trong thiết lập , duy trì
những mối quan hệ; quyết định tính chất quan hệ. Nhân cách của cán bộ có
ảnh hưởng lớn tới chất lượng và chiều hướng phát triển của quan hệ trong tập
thể. Do đó, người cán bộ phải hết sức chú trọng rèn luyện phẩm chất và năng
lực, tăng cường ảnh hưởng của mình trước chiến sĩ.


22


KẾT LUẬN

Mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong xây dựng tập thể cơ sở quân nhân cũng như trong giáo dục,
rèn luyện phát triển nhân cách quân nhân. Việc tìm hiểu, nghiên cứu, nắm
chắc cơ sở lý luận của mối quan hệ liên nhân cách là cơ sở quan trọng trong
tác động nhằm hình thành, phát triển mối quan hệ qua lại tốt đẹp giữa các
quân nhân trong tập thể. Xây dựng mối quan hệ qua lại tốt đẹp giữa các quân
nhân luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với người cán
bộ chỉ huy, lãnh đạo. Do đó, địi hỏi người cán bộ phải có quan điểm và nhận
thức đúng đắn về vị trí, vai trị của cơng tác này, qua đó phát huy tinh thần
trách nhiệm, tích cực và chủ động xây dựng các MQHQL trong tập thể đơn vị
mình theo chiều hướng tích cực; đồng thời, kiên quyết đấu tranh loại bỏ yếu
tố tiêu cực nảy sinh làm ảnh hưởng đến quan hệ qua lại giữa các quân nhân,
qua đó xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ được giao.


23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Dũng (chủ biên), Tâm lý học xã hội, Nxb KHXH, H2000.
2. Vũ Dũng, Tâm lý học xã hội – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Từ điển Bách khoa, H 2011.
3. Nguyễn Đình Gấm, Những vấn đề tâm lý xã hội trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, H 2003.
4. Trần Hiệp (chủ biên), Tâm lý học xã hội – Mấy vấn đề lý luận, Nxb
KHXH, H 1991.
5. Trần Hiệp (chủ biên), Tâm lý học xã hội – Những vấn đề lý luận,

Nxb KHXH, H 1997.
6. Trần Ngọc Khuê (chủ biên) (1998), Xu hướng biến đổi tâm lý xã hội
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đỗ Long (2000), Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông
dân, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Phương Kỳ Sơn, Tâm lý học xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb CTQG, H 2000.
9. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Sự thật, H 1990.



×