Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phát huy nguồn lực con người ở tỉnh hà tây thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.69 KB, 110 trang )

đại học quốc gia hà nội
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

--------------***--------------

Nguyễn Thị Hồng

Phát huy nguồn lực con người
ở tỉnh Hà Tây thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Luận văn thạc sĩ Triết học

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xà hội khoa học
MÃ số:

60 22 85

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Công Nhất

hà nội - 2007


đại học quốc gia hà nội
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

--------------***--------------

Nguyễn Thị Hồng

Phát huy nguồn lực con người


ở tỉnh Hà Tây thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Luận văn thạc sĩ Triết häc

hµ néi - 2007


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Phạm
Công Nhất.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn
đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2007.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hång


MỤC LỤC

Mở đầu .......................................................................................................... 3
Chương 1. Nguồn lực con người và vấn đề phát huy nguồn lực con người

trong quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay ... 9

1.1. Nguồn lực con người và vai trị của nguồn lực con người trong q
trình xây dựng và phát triển đất nước ................................................. 9
1.1.1. Khái niệm nguồn lực con người ........................................................ 9
1.1.2. Vai trò của nguồn lực con người đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội................................................................................................ 17
1.2. Vấn đề phát huy nguồn lực con người trong q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố ở nước ta hiện nay ........................................................ 22
1.2.1. Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và vấn đề phát huy nguồn lực con
người nói chung................................................................................ 22
1.2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với việc phát huy nguồn lực con người
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hố hiện nay ở nước ta .... 28
Chương 2. Thực trạng phát huy nguồn lực con người ở tỉnh Hà Tây thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ................................. 36
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây ............. 36
2.1.1. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên tỉnh Hà Tây ......................... 36
2.1.2. Đặc điểm văn hoá và kinh tế - xã hội .............................................. 38
2.2. Thực trạng phát huy nguồn lực con người ở tỉnh Hà Tây những năm
qua.................................................................................................... 48
2.2.1. Những thành tựu ............................................................................. 49
2.2.2. Những hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra ..................... 60
Chương 3. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực con người
ở tỉnh Hà Tây thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố
hiện nay ........................................................................................... 71
3.1. Những định hướng cơ bản ................................................................. 71

1


3.1.1. Hệ quan điểm ................................................................................. 71


3.1.2. Một số định hướng cơ bản .............................................................. 72
3.2. Các giải pháp chủ yếu........................................................................ 73
3.2.1. Giải pháp quy hoạch và đào tạo ...................................................... 73
3.2.2. Giải pháp sử dụng và đãi ngộ đối với người lao động ..................... 77
3.2.3. Giải pháp về mơi trường và chính sách xã hội ............................... .79
3.2.4. Giải pháp về nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính
trị ...................................................................................................... 83
Kết luận ...................................................................................................... 86
Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................... 89
Phụ lục ........................................................................................................ 93

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong các yếu tố để tạo nên nền sản xuất xã hội thì yếu tố con người
đóng vai trị quan trọng bậc nhất. Con người là chủ thể sản xuất, là nhân tố
quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất của xã hội, là yếu tố năng động,
quyết định sự phát triển của xã hội. Điều đó khơng chỉ đúng cho các thời đại
kinh tế - xã hội đã qua mà còn đúng ngay cả khi loài người đang thực hiện
bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội như ngày nay.
Ở Việt Nam, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cả nước vững bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội với những bước đi quá độ đầu tiên. Tuy nhiên, khác với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện đất nước còn nghèo nàn lạc hậu, các nguồn tài nguyên thiên nhiên tuy
phong phú nhưng chưa thể được coi là lợi thế về nguồn lực. Trong điều kiện

đó, tiềm năng về con người đã và đang trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, nhất là trong
thời kỳ cả nước đang tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đánh giá về lợi thế về các nguồn lực của sự phát triển ở nước ta hiện nay,
Đảng ta khẳng định: “Ở Việt Nam, nguồn lực con người là nguồn lực quan
trọng hàng đầu đối với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất trong thời
kỳ đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” [16, tr.85]. Từ đó, Đảng và Nhà
nước ta đã coi việc phát huy có hiệu quả nhân tố con người là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh
chính trị, thiết lập trật tự kỷ cương xã hội.
Hà Tây là một tỉnh phía Bắc thuộc vùng Đồng bằng Sơng Hồng, có vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội tương đối thuận lợi cho quá trình
phát triển. Những năm đổi mới vừa qua, Hà Tây đã thu được nhiều thành tựu

3


quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân trong

tỉnh từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi, Hà
Tây vẫn cịn gặp rất nhiều khó khăn trong q trình phát triển như hiện nay.
Là một tỉnh có dân số tương đối đông (chiếm khoảng 3,09% so với dân số cả
nước, lực lựợng lao động của tỉnh chiếm tới hơn 50% dân số), đó là một trong
những điều kiện thuận lợi để Hà Tây vươn lên phát triển. Song thực tế cũng
cho thấy, tỉnh chưa có biện pháp hữu hiệu để xây dựng và phát huy nguồn lực
con người. Chính vì thế chất lượng cũng như số lượng nguồn nhân lực ở Hà
Tây hiện nay về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh trong thời gian tới. Vậy, thực trạng nguồn
nhân lực ở tỉnh Hà Tây như thế nào? Giải pháp phát huy nguồn nhân lực đó
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà thời gian tới ra

sao? Đó là những vấn đề đã và đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu cũng như
quản lý của tỉnh Hà Tây. Đây cũng là lý do để chúng tôi chọn vấn đề: “Phát
huy nguồn lực con người ở tỉnh Hà Tây thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa” làm đề tài nghiên cứu của luận văn cao học triết học, chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu con người và đặc biệt là vai trò của nguồn lực con người
Việt Nam trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội từ trước tới nay, đặc biệt
từ những năm đổi mới trở lại đây đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước
quan tâm. Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, từ năm 1991 - 2000
đã có 17 chương trình nghiên cứu cấp nhà nước về con người và nguồn lực
con người. Tiêu biểu trong số đó phải kể tới đề tài khoa học cấp nhà nước:
“Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng nghiệp hố, hiện đại
hóa” do GS, TSKH. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm cùng các cộng sự đã
được triển khai nghiên cứu trong nhiều năm và đã rút ra được những kết quả

4


nghiên cứu có tính cơ bản về con người và nguồn lực con người Việt Nam

trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Bên cạnh đó, cũng có
thể kể ra một số chuyên luận, một số các tác giả cùng các cơng trình nghiên
cứu về con người và nguồn lực con người đã được công bố dưới nhiều hình
thức khác nhau như các tổng quan đề tài, sách chun luận, các bài đăng tạp
chí. Có thể kể một số tác giả, các cơng trình tiêu biểu, như: Viện Thông tin
khoa học xã hội (1995), Con người và nguồn lực con người. Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Phạm Minh Hạc (chủ biên, 1996), Vấn đề con người trong
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần Văn
Tùng, Lê Ái Lâm (1998), Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và

thực tiễn nước ta. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Kim Hải (1999),
Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận
án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Adam Smit
(1999), Của cải của các dân tộc. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện chiến
lược phát triển - Bộ kế hoạch và đầu tư (1999), Chính sách phát triển nguồn
nhân lực trong giai đoạn mới đến năm 2020. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Đỗ Đức Định (chủ biên, 1999), Phát huy lợi thế so sánh kinh nghiệm của các
nền kinh tế đang phát triển ở châu Á. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Nguyễn Văn Sáu (1993), Phát huy nguồn lực con người trong đổi mới quản lý
kinh tế. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Thị Phi Yến (2001), Tìm
hiểu vai trị quản lý nhà nước đối với việc phát huy nguồn lực con người
trong phát triển kinh tế. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phạm Công Nhất
(2007), Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội v.v...
Qua các cơng trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, phần lớn các tác giả
đều nhất trí cho rằng so với các loại nguồn lực khác được huy động trong phát
triển nền kinh tế - xã hội thì nguồn lực về con người có một vai trị hết sức

5


quan trọng. Ở thời đại nào thì con người và nguồn lực con người bao giờ cũng

đóng vai trị thúc đẩy, quyết định sự vận động và phát triển các quá trình kinh
tế - xã hội. Nhưng lịch sử phát triển của xã hội lồi người cũng cho thấy rằng,
khơng phải giai đoạn nào, quốc gia nào cũng có khả năng tận dụng và phát
huy tốt vai trò của con người và nguồn lực con người trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của quốc gia hay cộng đồng lãnh thổ. Ở Việt Nam, trong
quá trình đổi mới hiện nay việc khơi dậy tiềm năng con người, phát huy thế
mạnh nguồn nhân lực vào việc phát triển đất nước là cần thiết, nhưng cũng

cần có giải pháp và bước đi cho phù hợp. Có thể coi đây là những kết quả
nghiên cứu rất đáng chú ý về con người và nguồn lực con người ở Việt Nam
hiện nay.
Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là việc nghiên cứu nguồn lực con người
của các tác giả và các cơng trình nghiên cứu này thường gắn liền với việc giải
quyết các nhiệm vụ trong từng lĩnh vực cụ thể. Cũng có một số tác giả và
cơng trình nghiên cứu về nguồn lực con người gắn với tiến trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trên bình diện chung của cả nước cũng như một số địa
phương cụ thể. Đối với tỉnh Hà Tây hiện nay, vấn đề nghiên cứu con người
gắn với tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà lâu nay cịn ít được
đề cập, hoặc nếu có chỉ mới đề cập một cách rải rác mà chưa thành hệ thống.
Đó là một khoảng trống trong nghiên cứu khoa học hiện nay cần được quan
tâm. Đề tài của luận văn được đặt ra nghiên cứu là muốn góp một phần nhỏ
vào việc khắc phục khoảng trống trong quá trình nghiên cứu đó.
3. Mục đích, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận văn là nghiên cứu và bước đầu đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực ở tỉnh Hà Tây trong
quá trình phát triển, đổi mới đặc biệt là q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá hiện nay.

6


- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực

tiễn có liên quan đến thực trạng phát huy nguồn lực con người ở tỉnh Hà Tây
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá hiện nay.
- Luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: 1) Nghiên cứu và làm
rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến con người và nguồn lực con người,
và vấn đề phát huy nguồn lực con người trong q trình cơng nghiệp hố, hiện

đại hoá ở nước ta hiện nay; 2) Trên cơ sở các số liệu đã được khảo sát phân
tích một cách hệ thống thực trạng phát huy nguồn lực con người ở tỉnh Hà
Tây trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hoá hiện nay: những thành tựu,
hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra; 3) Đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm góp phần phát huy có hiệu quả nguồn lực con người ở tỉnh Hà
Tây thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn không nghiên cứu khảo sát các vấn đề triết học về con
người nói chung mà chỉ nghiên cứu những vấn đề triết học về con người với
tư cách là một nguồn lực cần được phát huy; cụ thể hơn nữa là luận văn tập
trung khảo sát, phân tích thực trạng từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy có hiệu quả nguồn lực con người ở tỉnh Hà Tây thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu khảo sát, nghiên cứu của luận văn được xác định
từ khi bắt đầu đổi mới (năm 1986) nhưng các só liệu dùng chủ yếu dùng để
phân tích đánh giá vẫn là từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Về cơ sở lý luận, đề tài dựa trên những quan điểm, lý luận cơ bản của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu những vấn đề lý
luận và luận giải những vấn đề thực tiễn có liên quan đến đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu, trên nền tảng phương pháp biện chứng

7


duy vật, đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, quy

nạp và diễn dịch, lịch sử và lôgic cũng như phương pháp so sánh, đối chiếu để
làm rõ những luận điểm của đề tài.


8


6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Về lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận những
vấn đề triết học có liên quan đến con người với tư cách là một nguồn lực quan
trọng cần được phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần tạo thêm cơ sở để
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Tây đề ra các chính sách phù hợp trong việc
xây dựng và phát huy có hiệu quả nguồn lực con người trong thời kỳ phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà trong
thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng bổ sung thêm vào hệ
thống các tài liệu nhằm phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu những vấn
đề có liên quan...
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ luc,
luận văn đựơc chia thành 3 chương 6 tiết.
Chương 1: Nguồn lực con người và vấn đề phát huy nguồn lực con
người trong q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
Chương 2: Thực trạng phát huy nguồn lực con người ở Hà Tây thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực con
người ở tỉnh Hà Tây thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay

9


Chương 1


NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT HUY
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HỐ,
HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. Nguồn lực con người và vai trị của nguồn lực con người trong
q trình xây dựng và phát triển đất nước
1.1.1. Khái niệm nguồn lực con người
Con người là gì? Con người sinh ra từ đâu? Bản chất con người là gì?
Con người có vai trò như thế nào đối với lịch sử? Trong lịch sử triết học đã có
nhiều câu trả lời khác nhau. Có thể tóm tắt các quan điểm đó như sau: Các
nhà triết học duy tâm và tôn giáo trong lịch sử thường có quan niệm về nguồn
gốc và bản chất của con người như sau: Họ cho rằng, con người về cơ bản có
nguồn gốc từ thế giới tinh thần, bản chất của con người là những yếu tố có
sẵn và bị quy định từ thế giới siêu tự nhiên (thế giới của Chúa trời, thế giới
của Thượng đế hay Thiên mệnh). Các nhà triết học duy vật trước Mác: mặc
dù đã biết gắn việc giải thích nguồn gốc và bản chất của con người với quá
trình phát triển của tự nhiên, song còn đồng nhất bản chất con người với bản
chất tự nhiên, chưa chỉ ra được sự khác biệt giữa con người với các giới loài
động vật có trước con người.
Triết học Mác trên cơ sở kế thừa có phê phán các quan niệm trước đây
về con người đã đề xuất các quan điểm khoa học và toàn diện về nguồn gốc
và bản chất con người. Theo Mác, xét về mặt bản chất, con người là một thực
thể vừa có sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt sinh học của
con người thể hiện ra ở chỗ con người khơng những có nguồn gốc từ giới tự
nhiên (con người là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên), mà
còn mang bản chất tự nhiên (tức là bản năng sinh học thường thấy trong các

10



giới loài động vật trước con người). Tuy nhiên, mặt tự nhiên chưa phải là yếu

tố duy nhất quy định nên bản chất của con người giống như quan niệm của
các nhà duy vật siêu hình trước đây. Trái lại, Mác còn cho rằng, bản chất con
người còn bị quy định bởi một yếu tố hết sức quan trọng khác, đó là yếu tố xã
hội. Chính yếu tố xã hội đã tạo nên mặt xã hội trong bản chất của con người.
Mặt khác, khi xem xét bản chất con người cần phải thấy sự tác động qua lại
giữa hai yếu tố tự nhiên và xã hội để tạo nên bản chất của con người nói
chung, trong đó yếu tố quyết định vẫn là yếu tố xã hội. Đề cập đến bản chất
đích thực của con người, triết học Mác khẳng định: trên thực tế khơng tồn tại
con người nói chung (con người trừu tượng) mà trái lại, con người luôn ln
tồn tại với tính cách là con người cụ thể. Và chỉ trong các mối quan hệ xã hội
cụ thể đó, bản chất con người mới được bộc lộ ra. Cố nhiên, khơng phải là
tồn bộ bản chất nói chung mà chỉ là một phần bản chất. Như thế trong suốt
cuộc đời của mỗi người đã và sẽ bộc lộ ra vơ vàn bản chất khác nhau. Giữa
chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau,
nhưng xu hướng chung vẫn tạo ra một điểm chung (bản chất chung) nào đó.
Xu hướng chung đó chính là bản chất đích thực của mỗi con người. Chính vì
vậy, để nhấn mạnh mặt xã hội với tính cách là nhân tố dùng để xác định bản
chất con người, trong những Luận đề về Phoiơbắc, C.Mác khẳng định: “Bản
chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ các mối quan hệ
xã hội” [39, tr.11].
Bản chất nói chung của con người lại như vậy. Tuy nhiên, trong thực tế
không hề tồn tại một con người chung chung, hay con người trừu tượng. Khái
niệm “Con người” chỉ là đại danh từ để chỉ một lồi động vật có ý thức mà
mỗi cá thể của loài tồn tại với tư cách như là những cá nhân có những đặc
điểm riêng biệt. Mỗi cá nhân được hiểu như là những con người cụ thể có thể

11



phân biệt với các cá nhân khác thông qua những đặc điểm độc đáo riêng có

của mình được gọi là nhân cách. Giữa cá nhân và xã hội có mối liên hệ biện
chứng với nhau. Sự tồn tại của mỗi cá nhân được quyết định bởi thông qua sự
tồn tại của từng xã hội. Và ngược lại, xã hội cũng chỉ có thể tồn tại thơng qua
từ những đơn vị thống nhất đầu tiên là cá nhân.
Quan điểm triết học mácxít cũng cho rằng, với tư cách là một thực thể
sinh học - xã hội, con người một mặt vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh, ra
lịch sử, mặt khác con người cũng là sản phẩm của chính hồn cảnh hay q
trình lịch sử đó. Khi nhấn mạnh ở khía cạnh thứ nhất, triết học Mác muốn chỉ
ra sự khác biệt căn bản về bản chất giữa con người với các giới loài vật khác.
Ngược lại, khi nhấn mạnh ở khía cạnh thứ hai, triết học Mác muốn khẳng
định tính lịch sử, bởi hồn cảnh với tư cách là một trong những nhân tố góp
phần quy định quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người với
ý nghĩa thời đại nào, con người ấy. Từ đó hình thành nên các mẫu hình con
người tiêu biểu khác nhau tương ứng với từng thời đại, từng hoàn cảnh và
điều kiện lịch sử cụ thể. Chẳng hạn có mẫu hình con người đặc trưng cho thời
đại cổ đại, có mẫu hình con người đại diện và đặc trưng cho thời đại của chế
độ phong kiến, của thời đại tư sản cũng như có mẫu hình con người đại diện
và đặc trưng cho chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa - con người xã hội chủ nghĩa
v.v..
Ngoài ra, quan điểm triết học mácxít cũng cho rằng, với tư cách là một
thực thể tự nhiên - xã hội, con người nói chung cịn biểu hiện ra trên nhiều
phương diện. Từ đó, hình thành nên nhiều khái niệm khác nhau đều có liên
quan trực tiếp đến con người. Chẳng hạn, con người tồn tại với tư cách là một
nhân tố thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội gọi là nhân tố con người hoặc con
người tồn tại với tư cách là một nguồn tài nguyên đặc biệt gọi là tài nguyên


12


con người, hay con người tồn tại với tư cách là một nguồn động lực đặc biệt -

nguồn nhân lực hay nguồn lực về con người v.v...
Như vậy, khái niệm nguồn lực con người được luận văn đề cập dưới
đây một mặt chính là sự tiếp tục triển khai quan điểm của triết học Mác-Lênin
về con người tồn tại với tư cách là một nhân tố đặc biệt có tác động đến sự
vận động và phát triển của xã hội, nhưng mặt khác lại là khái niệm dùng để
chỉ một trong những nguồn tài nguyên là tiền đề quan trọng trong quá trình
phát triển của mỗi quốc gia, tài nguyên con người hay nguồn lực con người.
Khái niệm nguồn lực con người được sử dụng lần đầu những năm đầu
thế kỷ XIX và khá phổ biến vào những năm 60 của thế kỷ XX ở nhiều nước
phương Tây và cả một số nước châu Á. Ở nước ta khái niệm này được sử
dụng tương đối rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ XX đến nay. Tìm hiểu
các nghiên cứu gần đây có thể thấy quan niệm về nguồn lực con người khá đa
dạng, được đề cấp từ nhiều góc độ khác nhau. Trong hệ thống sản xuất xã hội
thì con người ln được coi là yếu tố cơ bản và quyết định. Trong lý thuyết về
tăng trưởng kinh tế con người được nhìn nhận như một phương tiện chủ yếu
để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong lý thuyết về vốn, con người lại
được đề cập như một loại vốn đặc biệt (vốn người), là nhân tố cơ bản và hàng
đầu để tạo ra kết quả của quá trình sản xuất và kinh doanh.
Với những cách tiếp cận như vậy, Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng:
nguồn lực con người được hiểu là toàn bộ vốn người (thể lực, trí tuệ, kỹ năng
nghề nghiệp mà mỗi cá nhân sở hữu). Như vậy, có thể hiểu nguồn lực con
người ở đây là một trong những loại vốn hay tài nguyên tồn tại bên cạnh các
loại vốn, hay tài nguyên truyền thống như tài nguyên thiên nhiên, tài ngun
khoa học - cơng nghệ, tài ngun tài chính. Tuy nhiên, khác với các loại tài
nguyên truyền thống như đã kể trên thì tài nguyên con người là loại tài

nguyên đặc biệt.

13


Liên Hợp quốc khi bàn đến con người với tư cách là một nguồn lực thì

lại cho rằng: nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng
lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Có thể thấy khác
với quan niệm của Ngân hàng Thế giới, quan niệm về nguồn lực con người
của Liên Hợp quốc lại gắn với số lượng và chất lượng tiềm năng về con người
ở mỗi quốc gia.
Ở nước ta, khi bàn đến khái niệm nguồn lực con người cũng có nhiều ý
kiến khác nhau. GS, TSKH Phạm Minh Hạc trong đề tài cấp nhà nước: “Con
người Việt Nam - mục tiêu động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” mã số
KX - 07 cho rằng: nguồn lực con người được hiểu là dân số và chất lượng con
người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm
chất [28, tr.238]; Tác giả Trần Thị Thu Thuỷ lại cho rằng: nói tới nguồn lực
con người là nói tới mọi tiềm năng về lao động của mỗi quốc gia, là lực lượng
con người đang trực tiếp và gián tiếp sáng tạo ra các giá trị của cải vật chất và
thúc đẩy sự phát triển của xã hội [53]; Các tác giả của Giáo trình Chủ nghĩa
xã hội khoa học (Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia
các bộ mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình chủ
nghĩa xã hội khoa học (tái bản lần thứ hai có sửa chữa). Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội - 2004), lại cho rằng khái niệm nguồn lực con người có phạm vi
bao quát: Đó là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần, đạo đức,
phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội... tạo thành năng lực của con người
và cộng đồng người. Năng lực đó khi được sử dụng, phát huy sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Như vậy, từ các kết quả nghiên cứu về nguồn lực con người trên đây

cho thấy quan niệm về nguồn lực con người được hiểu với nhiều nội dung
khác nhau, như nguồn lực con người được hiểu như vốn người, nguồn lực con
người được hiểu như chất lượng và số lượng dân số và nguồn lao động, là

14


động lực để phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia v.v... Qua đó cũng có

thể thấy các quan niệm trên đây một mặt có những điểm chung giống nhau,
nhưng mặt khác lại có những điểm khác biệt trong quan niệm về nguồn lực
con người. Sự khác biệt này theo chúng tôi không phải là mâu thuẫn nhau mà
chính là do cách tiếp cận khác nhau, đối tượng được xác định để nghiên cứu
không giống nhau đã tạo ra. Từ đó cho thấy sẽ khơng có một định nghĩa duy
nhất về nguồn lực con người mà trái lại tuỳ vào cách tiếp cận khác nhau về
con người và nguồn lực con người có thể xác định và đưa ra một định nghĩa
phù hợp.
Với ý nghĩa như vậy, căn cứ vào mục tiêu đối tượng nghiên cứu của
luận văn, tác giả luận văn cho rằng nguồn lực con người là toàn bộ tiềm năng
về con người (thể hiện dưới dạng về số lượng và chất lượng của dân cư, dân
số và nguồn lao động...) của mỗi quốc gia hay cộng đồng để từ đó tạo nên
những giá trị có thể phát huy và là động lực chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia hay cộng đồng đó.
Với cách hiểu như vậy, khái niệm nguồn lực con người có nội dung
rộng lớn. Tuy nhiên, dù nội dung khái niệm có rộng lớn thì khi đề cập tới khái
niệm nguồn lực con người cần được hiểu trên các phương diện chính sau đây:
Thứ nhất, nguồn lực con người nếu xét theo nghĩa rộng chính là tồn bộ
tiềm năng về dân cư của cộng đồng hay quốc gia đó. Tiềm năng dân cư được
hiểu trước hết là quy mô về dân số, về cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối giữa các thế
hệ dân cư, tỷ lệ về giới tính, về sự phân bố dân cư giữa các vùng miền kinh tế

và lãnh thổ v.v... Đây là tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi
quốc gia hay cộng đồng. Thông thường, một quốc gia hay cộng đồng đang
trong q trình phát triển nếu có một quy mơ dân số đông vừa đủ sẽ là một
thuận lợi rất lớn, ngược lại thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn, với quy
mô trên 80 triệu dân hiện nay cùng với một cơ cấu dân số trẻ hằng năm có thể

15


cung cấp từ 1 - 1,2 triệu lao động là một thuận lợi rất lớn đối với nước ta đang

trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay. Ngược lại, tại một số
quốc gia, nhất là một số quốc gia phát triển với quy mô dân số nhỏ và lại đang
“già” nhanh do số lượng người cao tuổi đang ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng số dân cư sẽ có tác động tiêu cực khơng nhỏ đến tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Thứ hai, nguồn lực con người xét theo nghĩa hẹp được hiểu những vấn
đề về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia hay cộng đồng. Số
lượng nguồn nhân lực là một khái niệm số lượng một bộ phận dân cư đã và
đang tham gia vào lực lượng lao động của mỗi quốc gia hay cộng đồng. Số
lượng nguồn nhân lực thể hiện ở quy mô lực lượng lao động, về cơ cấu và độ
tuổi lao động. Ngoài ra, số lượng nguồn nhân lực còn thể hiện ở tỷ lệ giới
trong lực lượng lao động, tỷ lệ phân bố lao động giữa các vùng miền kinh tế,
lãnh thổ của quốc gia hay cộng đồng. Với quy mơ dân số ngày càng đơng, do
đó lực lượng lao động ở Việt Nam tăng nhanh sau mỗi năm. Tổng số lực
lượng lao động ở nước ta hiện nay khoảng 45 triệu người, với 70% trong số
đó đang trong độ tuổi lao động cho thấy, Việt Nam có một nguồn nhân lực trẻ
khá dồi dào và là tiền đề thuận lợi cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
hiện nay. Tuy nhiên, do việc phân bố lao động giữa các ngành, vùng kinh tế
và cộng đồng còn bất hợp lý nên lợi thế này hiện nay chưa được phát huy có

hiệu quả.
Chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng đến việc phát huy
nguồn lực con người của quốc gia hay cộng đồng. Chất lượng nguồn nhân lực
là một khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về thể trạng, thể lực,
trí lực (trình độ văn hố, trình độ chun mơn kỹ thuật...), mức độ thành thạo
trong công việc, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Ngồi ra, chất lượng nguồn
nhân lực cịn được đánh giá qua các yếu tố trong thực tế rất khó định lượng,

16


như chỉ số IQ, những đặc điểm về thói quen, những phẩm chất có tính truyền

thống của người lao động, như đức tính kiên nhẫn, sự cần cù chịu khó, khả
năng sáng tạo, tình yêu quê hương, đất nước, ý thức cộng đồng, ý thức giai
cấp, ý thức về trách nhiệm của cá nhân đối với công việc, với gia đình, xã hội,
sự giác ngộ về bản lĩnh chính trị v.v...
Giữa số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có mối quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau. Nghĩa là, sức mạnh nguồn nhân lực chỉ có thể phát huy có
hiệu quả nếu nó được hình thành và phát triển trên một quy mô hợp lý cùng
với một chất lượng phù hợp với số lượng đã có. Nếu số lượng nguồn nhân lực
ít q sẽ gây khó khăn cho sự phân công lao động xã hội và do vậy, chất
lượng của nguồn nhân lực cũng sẽ trở thành hạn chế. Ngược lại, nếu chất
lượng nguồn nhân lực được nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng dân số
hoạt động trong một số đơn vị sản xuất, kinh doanh hay giảm số người hoạt
động trong một số tổ chức xã hội. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của các
nguồn lực về con người, vai trò của yếu tố số lượng và yếu tố chất lượng của
nguồn nhân lực có sự thay đổi khác nhau. Khi mà trình độ phát triển lực
lượng sản xuất của con người còn ở mức độ hạn chế thì vai trị của yếu tố số
lượng của nguồn nhân lực được đề cao. Trái lại, khi nền sản xuất xã hội của

con người đã đạt tới trình độ cao thì yếu tố chất lượng của nguồn nhân lực lại
được đặt lên hàng đầu.
Thứ ba, so với các dạng nguồn lực khác, nguồn lực con người là một
dạng nguồn lực đặc biệt. Tính đặc biệt ở dạng nguồn lực này thể hiện ở một
số đặc điểm sau đây:
- Đây là dạng nguồn lực có sức mạnh tự thân. Sức mạnh tự thân có
được là nhờ sự kết hợp giữa các yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan của
mỗi người để tạo nên sức mạnh chung của cộng đồng.

17


- Q trình sử dụng nguồn lực khơng bao giờ cạn kiệt vì nó có khả

năng tự phục hồi, khả năng tự tái sinh.
- Đây là dạng nguồn lực có ý thức, có khả năng trí tuệ, do đó những giá
trị mà nó mang lại là vơ cùng to lớn nếu biết phát huy hợp lý.
- Đây là dạng nguồn lực mở, sự dồi dào hay cạn kiệt về nguồn lực phụ
thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan, khả năng phát huy và sử dụng của các
tổ chức hay cá nhân đối với nguồn lực.
Với những đặc điểm như phân tích trên đây cho thấy nguồn lực con
người là nguồn tài nguyên đặc biệt, là tiền đề quan trọng bậc nhất trong quá
trình phát triển của mỗi quốc gia hay cộng đồng.
1.1.2. Vai trò của nguồn lực con người đối với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội
Như trên đã trình bày, khái niệm nguồn lực con người có một phạm vi
bao quát. Theo đó, nguồn lực con người không chỉ thuần tuý là lực lượng lao
động mà cịn là tồn bộ tiềm năng về con người của mỗi quốc gia hay cộng
đồng để từ đó tạo nên những giá trị có thể phát huy và là động lực chủ yếu
nhằm thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia hay cộng

đồng đó.
Khác với các dạng nguồn lực khác, nguồn lực con người trước hết được
tạo bởi năng lực và phẩm chất của cá nhân và cộng đồng người. Con người
không chỉ là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên và xã hội mà cịn là chủ thể
tích cực cải biến tự nhiên và xã hội đó. Khác với các giới lồi động vật trước
đó chỉ biết sống phụ thuộc vào tự nhiên, khai thác những yếu tố có sẵn trong
tự nhiên, con người thì trái lại khơng chỉ biết khai thác những yếu tố có sẵn
trong tự nhiên mà cịn có khả năng tái tạo lại, thậm chí sáng tạo ra tự nhiên
đó. Có được điều đó là nhờ con người có những khả năng đặc biệt. Đó là khả
năng khơng ngừng vươn tới cái tốt đẹp hơn, hồn thiện hơn là thuộc tính

18


mang bản chất của con người; nó chi phối sự tồn tại, phát triển hay diệt vong

của bản thân con người. C. Mác viết: “con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối bởi
nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất ngay cả khi không bị nhu
cầu thể xác ràng buộc...; con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn con người
thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên; sản phẩm của con vật trực tiếp gắn
với cơ thể thể xác của nó, cịn con người thì đối diện một cách tự do với sản
phẩm của mình. Con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu cầu của lồi của
nó, cịn con người thì có thể sản xuất theo kích thước của bất cứ loài nào và ở
đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng; do đó con
người cũng xây dựng theo các quy luật của cái đẹp” [42, tr.201]. Từ khi thốt
khỏi thế giới của lồi vượn, nhờ khả năng lao động sáng tạo to lớn đã đưa con
người phát triển từ thô sơ, mông muội đến thế giới con người phát triển.
Những thành quả to lớn của sức sáng tạo, đến lượt nó lại làm tăng thêm khả
năng vốn đã rất lớn của con người, làm cho khả năng sáng tạo của con người
thêm kỳ diệu và vĩ đại. Đồng thời với quá trình lao động sáng tạo là sự tự rèn

luyện, tự bồi dưỡng, hoàn thiện bản thân con người, làm cho con người ngày
càng phát triển, khả năng lao động của con người ngày càng được nâng cao.
Sự sáng tạo của con người được thể hiện trên cả ba mặt: sáng tạo ra đời sống
vật chất; sáng tạo ra đời sống tinh thần và sáng tạo ra đời sống của chính
mình. Chính sự sáng tạo trong các hoạt động lao động của con người đã làm
cho nguồn lực con người trở thành một loại nguồn lực đặc biệt, nó có thể tạo
ra các giá trị gấp nhiều lần so với nó nếu khả năng lao động sáng tạo của
người lao động được phát huy đúng lúc. Hoạt động lao động của con người
trên một ý nghĩa nào đó khơng chỉ tạo ra mọi của cải của xã hội mà cịn góp
phần cải tạo chính bản thân con người. Lao động và bản thân con người vì
vậy trở thành nhân tố quan trọng bậc nhất của mọi nền sản xuất xã hội. Với ý
nghĩa như vậy, Ph. Ăngghen viết: “Các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng,

19


lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi

với giới tự nhiên là cái cung cấp vật liệu biến thành của cải. Nhưng lao động
là một cái gì lớn hơn thế nữa. Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn
bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó,
chúng ta phải nói: lao động sáng tạo ra con người” [40, tr.640].
Do đó, có thể khẳng định sự tồn tại của con người với tư cách là một
nguồn lực đóng vai trị quyết định các q trình lịch sử, kinh tế - xã hội. Vai
trò quyết định của nguồn lực con người đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội không chỉ đúng trong các xã hội trước đây mà cịn đúng ngay cả trong
q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có con người xã hội chủ
nghĩa” [38, tr.375]. Hơn thế nữa, Người cịn nhắc nhở: “Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [38, tr.222] cũng
bởi lẽ Người đã sớm nhận ra vai trò quyết định của nguồn lực con người đối

với sự thắng lợi của cuộc cách mạng mới ở Việt Nam.
Chỉ có thể đánh giá được vai trị quyết định của nguồn lực con người
khi đặt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực khác. Sự tồn tại bền vững và
phát triển theo con đường tiến bộ của bất cứ quốc gia nào bao giờ cũng phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn đã
được tích luỹ trong nước và nguồn vốn tranh thủ từ nước ngoài, khả năng làm
chủ và sử dụng có hiệu quả các thành tựu của khoa học công nghệ v.v... Tuy
nhiên, các nhân tố trên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chứ không phải là
những nhân tố có tính tự thân để tạo ra giá trị. Giá trị của chúng chỉ thực sự
bộc lộ khi có bàn tay tác động của con người. Bởi con người không chỉ tồn tại
với tư cách là một nguồn lực, mà còn tồn tại với tư cách là chủ thể của các
mục tiêu phát triển, các quá trình phát triển.

20


Vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố có ảnh hưởng trực

tiếp đến sự phát triển của đất nước. Nhưng thực tế cho thấy, chúng phụ thuộc
vào khả năng khai thác của con người. Ở một số quốc gia, điều kiện tự nhiên
thuận lợi là nhân tố làm cho quốc gia đó giàu mạnh; nhưng cũng ở một số
quốc gia khác cũng có điều kiện tự nhiên tương tự, hoặc thậm chí có thể thuận
lợi hơn nhưng do không biết sử dụng và khai thác một cách hợp lý nên chẳng
những không làm cho đất nước giàu thêm mà trái lại ngày càng nghèo đi. Ở
trường hợp thứ nhất: con người đã biết làm chủ và tái tạo tài nguyên thiên
nhiên một cách hợp lý; ở trường hợp thứ hai: con người đã tước đoạt thiên
nhiên, biến nó thành hoang mạc.
Trong q trình phát triển đất nước, đặc biệt là q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố như nhiều quốc gia hiện nay thì nguồn vốn về tài chính (tiền
tệ) đóng một vai trị hết sức quan trọng. Trong thời đại mở cửa và hội nhập,

nhiều quốc gia có thể thu hút vốn từ nước ngồi với số lượng khơng nhỏ.
Nhưng vốn ấy chỉ có thể phát huy tác dụng tích cực nếu những điều kiện
trong nước mà trước hết là con người có khả năng sử dụng hợp lý vốn đó vào
sự phát triển của quốc gia hay cộng đồng. Cịn có nhiều vốn, thậm chí thừa
vốn nhưng nếu khơng biết sự dụng hoặc sử dụng một cách bừa bãi lãng phí có
thể dẫn tới sự phá sản của cả một chương trình phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia, thậm chí đưa quốc gia đến bờ vực phá sản và lâm vào một cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Sở dĩ nguồn lực con người đóng vai trị quyết định đến các quá trình
phát triển kinh tế và xã hội, trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ của bản
thân con người và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử. Do
đó, nguồn lực con người phải được nhìn nhận trong mơi trường của nền văn
minh và phát triển mạnh mẽ trong điều kiện chịu ảnh hưởng của một hệ tư

21


tưởng tiên tiến và của một trình độ phát triển của khoa học cơng nghệ hiện đại

trong đó những kiến thức thuộc về chân lý khoa học không tách rời với các
chuẩn mực đạo đức và nhân văn.
Tuy nhiên, có một thực tế cho thấy, nếu như sức mạnh cải tạo tự nhiên
của con người ở những thế kỷ trước đây chủ yếu thể hiện thông qua khả năng
lao động bằng chân tay thì ngày nay sức mạnh đó đang có xu hướng tiến tới
bằng khả năng lao động trí tuệ. Một khi khoa học và công nghệ đang dần dần
trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” như dự báo của C. Mác trước đây và
đang trở thành hiện thực trong thời đại ngày nay thì tiềm năng về lao động,
sáng tạo ra các giá trị của cải vật chất và tinh thần lại càng trở nên vô tận.
Người ta dự báo, chỉ vài chục năm nữa thơi thì lao động chân tay trong các
sản phẩm chỉ còn chiếm một tỷ lệ rất ít, mà thay vào đó là với sự ra đời hàng

loạt các sản phẩm hàng hoá là kết quả của sự kết tinh về trí tuệ. Một nền kinh
tế dựa vào sự sáng tạo của trí tuệ, của tri thức đang dần chiếm ưu thế phổ biến
toàn bộ nền sản xuất chung của nhân loại. Trong điều kiện như vậy, người lao
động ngày nay không chỉ dựa vào các điều kiện thiên bẩm (sự cường tráng về
cơ thể, chỉ số IQ có sẵn...) mà cịn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tự học
tập, tự rèn luyện để liên tục cập nhật có thêm các tri thức mới. Người nào
càng học tập, rèn luyện nhiều hoặc tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động thì
tiềm năng về các nơ ron thần kinh càng được sử dụng tối đa. Do đó, trong thời
đại văn minh con người càng là chủ thể thì đồng thời càng là đối tượng khai
thác của chính mình.
Nguồn lực con người khơng chỉ cần được nhìn nhận về mặt tự nhiên
mà cịn được nhìn nhận về mặt xã hội. Để con người sống tự do, hạnh phúc,
có điều kiện thuận lợi nhất để hoạt động sáng tạo, thì tính năng động của nhân
tố con người trong bản thân nguồn lực cũng được khơi dậy và thể hiện ở mức

22


×