Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHÙNG THU THÚY

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP LƠGIC - LỊCH SỬ
VÀO NGHIÊN CỨU VĂN HĨA LÀNG XÃ
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHÙNG THU THÚY

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP LƠGIC - LỊCH SỬ
VÀO NGHIÊN CỨU VĂN HĨA LÀNG XÃ
VIỆT NAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Thái Việt


Hà Nội - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ khoa học “Sử dụng phương pháp
lôgic - lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam” là cơng trình nghiên
cứu của cá nhân tơi. Những số liệu, kết luận được nêu trong luận văn là trung
thực, chưa được cơng bố trong cơng trình nghiên cứu nào khác.

Hà Nội, ngày tháng 9 năm 2012
Người cam đoan

Phùng Thu Thúy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
NỘI DUNG ..................................................................................................... 12
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ...................................... 12
1.1. Triết học văn hóa ...................................................................................... 12
1.2. Tổng quan về phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic ...................... 18
1.2.1. Tổng quan về phương pháp lịch sử .................................................. 18
1.2.2. Tổng quan về phương pháp lôgic..................................................... 20
1.2.3. Trước phép biện chứng duy vật, phương pháp lôgic và phương
pháp lịch sử tồn tại độc lập tương đối ............................................................. 20
1.3. Sự thống nhất của phương pháp lôgic - lịch sử trong phép biện chứng
duy vật ............................................................................................................. 22
1.3.1. Cái lôgic, cái lịch sử và nguyên tắc thống nhất lôgic - lịch sử ........ 22
1.3.2. Sự thống nhất của phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử ....... 27
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP LÔGIC VÀ PHƯƠNG PHÁP LỊCH SỬ

TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HÓA LÀNG XÃ VIỆT NAM ...................... 34
2.1. Phương pháp lịch sử trong nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam ......... 34
2.1.1. Lịch sử hình thành làng xã Việt Nam .............................................. 34
2.1.2. Các yếu tố văn hóa đặc trưng ........................................................... 36
2.1.3. Hạn chế của phương pháp lịch sử khi nghiên cứu văn hóa làng xã. 43
2.2. Phương pháp lơgic trong nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam ............ 43
2.2.1. Sự ưu việt của việc sử dụng phương pháp lôgic so với phương
pháp lịch sử trong nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam .............................. 43
2.2.2. Sự tác động của q trình đơ thị hóa tới văn hóa làng xã ................ 47
2.2.3. Tiếp thu các phương tiện văn hóa, hình thành các giá trị văn hóa
hiện đại ............................................................................................................ 51

1


2.2.4. Sự hình thành ý thức tuân thủ pháp luật .......................................... 54
2.2.5. Hạn chế của phương pháp lôgic ....................................................... 59
2.3. Vai trị của phương pháp lơgic - lịch sử trong nghiên văn hóa làng xã ... 60
Chương 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT TRÊN CƠ SỞ THỐNG NHẤT LÔGIC LỊCH SỬ ......................................................................................................... 63
3.1. Bảo tồn, phát huy giá trị hạt nhân cơ bản của làng xã - gia đình, dịng
họ ..................................................................................................................... 63
3.1.1. Quan hệ gia đình - quan hệ cơ bản nhất của làng xã ....................... 63
3.1.2. Phát huy những giá trị của quan hệ gia đình, dịng họ..................... 65
3.2. Bảo tồn và phát huy giá trị tinh thần của lễ hội truyền thống .................. 67
3.2.1. Lễ hội cổ truyền ............................................................................... 67
3.2.2. Gìn giữ nét văn hóa của lễ hội trong thời đại ngày nay ................... 68
3.3. Lưu giữ, bảo tồn, phát triển văn hóa làng xã gắn liền với xây dựng nơng
thơn mới .......................................................................................................... 70
3.3.1. Vai trị của văn hóa làng xã trong công cuộc đổi mới hiện nay ...... 70
3.3.2. Chủ trương của Đảng về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc

trong nền kinh tế mở ....................................................................................... 73
3.3.3. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả chương trình xây dựng nơng
thơn mới đi đơi với xây dựng văn hóa mới ..................................................... 74
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 83

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Văn hóa là một hiện tượng xã hội độc đáo, đa dạng và có quy luật, vì
thế việc tìm kiếm bản chất của văn hóa, tất yếu phải có lý luận về nó, triết học
văn hóa ra đời đáp ứng yêu cầu đó. Thực tiễn lịch sử cũng chỉ ra rằng cần
phải có những phương pháp tư duy lý luận hiệu quả của triết học để phân tích
một cách sâu sắc các vấn đề về truyền thống dân tộc, hiện trạng kinh tế - xã
hội - văn hóa của mỗi quốc gia trong bối cảnh quốc tế chung.
Hiện nay, khơng một ai hồi nghi về tầm quan trọng của văn hóa đối
với các mặt của đời sống cá thể cũng như cộng đồng. Văn hóa là một đối
tượng phức tạp, là tổng thể những giá trị tinh thần, vật chất, đặc trưng cho một
xã hội. Có bốn ngun nhân chính dẫn đến kết luận trên. Thứ nhất: trong tiến
trình lịch sử, các mối liên kết cộng đồng trên cơ sở của văn hóa thường tỏ ra
bền vững và chịu được thử thách của thời gian hơn so với những mô thức liên
kết khác, chẳng hạn như thị trường hay nhà nước. Nguyên nhân thứ hai: nhu
cầu tự khẳng định và bảo tồn kết cấu của dân tộc trước áp lực của tồn cầu
hóa đang hối thúc các chính phủ khẳng định tính đồng nhất dựa trên lịch sử,
truyền thống. Trên thế giới, đang diễn ra sự hình thành và củng cố các khối
liên minh EU, AU, các hiệp ước đa phương, khu vực như WTO, ASEAN…
Đứng trước tình hình đó, phản ứng của các nước có khác nhau. Ở các nước
phát triển, xuất hiện nhu cầu bảo tồn bản sắc văn hóa, duy trì các ngun tắc

truyền thống về dân chủ và cơng bằng xã hội. Cịn các nước kém phát triển,
chính phủ viện đến bản sắc văn hóa dân tộc, các ý thức hệ truyền thống nhằm
chống lại sự áp đặt từ phía các nước lớn khi họ nhân danh các giá trị và chuẩn
mực toàn cầu để đưa ra các phán quyết bất lợi cho các nước kém phát triển.
Nguyên nhân thứ ba: nhu cầu phản tư của các quốc gia trước tính bất định và

3


xu thế nhất dạng hóa, phát sinh từ tồn cầu hóa. Sự mạnh lên của các quốc
gia, một cách tất yếu địi hỏi phải khẳng định tính cá biệt của quốc gia, sao
cho cá thể khơng bị hịa tan vào những hệ chuẩn mang tính tồn cầu đang lấp
đầy khơng gian sống. Nguyên nhân thứ tư, văn hóa ngày càng có tiếng nói
quyết định đối với kinh tế, văn hóa trở thành động lực chủ đạo của nền kinh tế
tương lai - kinh tế tri thức. Vậy nên, hiện nay cùng với đẩy mạnh tồn cầu
hóa, văn hóa cũng sẽ không ngừng gia tăng sức mạnh, với tư cách là lực
lượng đại diện cho tính da dạng, đối trọng lại q trình nhất dạng hóa.
Đứng trước sự gia tăng ảnh hưởng của yếu tố văn hóa đối với kinh tế
cũng như chính trị, ở Việt Nam, trong những năm gần đây, xuất hiện nhiều
cơng trình nghiên cứu về văn hóa. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng những
phương pháp khác nhau trong nghiên cứu văn hóa, theo đó là sự xuất hiện của
các bộ mơn chun nghiên cứu văn hóa: khởi đầu là dân tộc chí, tiếp đó là
triết học văn hóa, tâm lý học văn hóa, dân tộc học, sau đó là nhân học, xã hội
học văn hóa, ký hiệu học, ngôn ngữ học tộc người… Những kết quả nghiên
cứu của các bộ môn khoa học đã tạo lượng tri thức khổng lồ và những luận
thuyết khoa học về sự phát triển của văn hóa vùng, văn hóa dân tộc và nhân
loại. Tuy nhiên, mỗi phương pháp mới chỉ dừng lại tiếp cận văn hóa ở một
góc độ, đi sâu vào một vài phương diện của văn hóa. Trước yêu cầu của thực
tiễn, nghiên cứu văn hóa góp phần quan trọng không chỉ vào việc “dựng lại”
quá khứ của con người, mà còn vào việc giải quyết những vấn đề xã hội và

con người trong xã hội đương đại. Vì vậy, các phương pháp trên chưa đủ hiệu
quả để giải quyết vấn đề đó. Việc áp dụng phương pháp lơgic - lịch sử vào các
nghiên cứu văn hóa là một trong những biện pháp giải quyết yêu cầu trên.
Văn hóa làng xã - một trong những thành tố văn hóa quan trọng cấu
thành văn hóa Việt Nam. GS Hà Văn Tấn nhận định, có nghiên cứu làng xã

4


chúng ta mới nhận thức đầy đủ xã hội và văn hóa Việt Nam trong lịch sử, để
từ đó tìm được những biện pháp đúng đắn xây dựng nông thôn mới hiện tại.
Giáo sư Phan Đại Doãn cho rằng “Nước là họp các làng mà thành. Từ làng
mà đến nước, dạy dân nên tục, vương chính lấy làng làm trước” [26. tr.5].
“Làng Việt Nam là cái chìa khóa để giải mã bí mật Việt Nam, thần kỳ Việt
Nam” [26. tr.5]. Tuy nhiên cũng chính trong q trình nghiên cứu về văn hóa
làng xã, đã nảy sinh nhu cầu về một phương pháp tư duy tổng hợp, cho phép tái
hiện bức tranh văn hóa làng xã trong tính chỉnh thể. Vì vậy, học viên chọn văn
hóa làng xã làm đối tượng nghiên cứu, để thấy được nhu cầu và khả năng vận
dụng phương pháp lơgic - lịch sử có thể góp phần giải quyết thực trạng
nghiên cứu văn hóa hiện nay.
Học viên áp dụng phương pháp lôgic - lịch sử vào các nghiên cứu về
văn hóa làng xã với hy vọng rằng, việc làm đó sẽ góp góp phần vào việc nhận
thức đầy đủ hơn về văn hoá làng xã Việt Nam trong lịch sử, cũng như tìm
được những biện pháp đúng đắn để bảo tồn, phát triển giá trị của văn hóa làng
xã trong thời đại ngày nay. Vì lý do trên, học viên đã chọn đề tài “sử dụng
phương pháp lơgic - lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam” làm
đề tài luận văn của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Các cơng trình nghiên cứu về văn hóa:
Trên thế giới đã bắt đầu có những cơng trình lý thuyết và giáo trình theo

hệ thống của văn hóa học, ví dụ: “Văn hóa ngun thủy” của B.E.Tylor, “Triết
học các hình thái biểu tượng” của Ernst Casierer, “Vật tổ và cấm kỵ” của
Sigmund Freud, “Triết học văn hóa” của Peter Zimmar, “Nhân học cấu trúc” của
C. L. Strauss, “Tìm cội nguồn của ngơn ngữ và ý thức” của Trần Đức Thảo…

5


Ở Việt Nam, người có cơng đầu tiên trong việc xây dựng cơ sở lý luận
cho việc nghiên cứu văn hóa là Đào Duy Anh. Ơng là người đầu tiên đưa ra
quan niệm có tính khoa học về văn hóa trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử
cương” xuất bản năm 1938. Nhiều cơng trình của PSG. Từ Chi, PGS. Phan
Ngọc, GS. Đinh Gia Khánh, GS. Phạm Đức Dương, GS. Tô Ngọc Thanh, GS.
Trần Quốc Vượng, GS. Hà Văn Tấn… đã đi theo hướng văn hóa học. Về giáo
trình đại học, chúng ta đã có “Văn hóa học” của Đồn Văn Chúc, “Cơ sở văn
hóa” Việt Nam do GS. Trần Quốc Vượng chủ biên, “Cơ sở văn hóa Việt
Nam” của PGS.TSKH. Trần Ngọc Thêm.
Các cơng trình nghiên cứu về làng xã Việt Nam:
Làng xã Việt Nam là một thực thể xã hội, một đối tượng khoa học, từ
hàng trăm năm qua đã được nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm.
Từ cuối thế kỷ trước, khi Henry Revie tiến hành cuộc chiến tranh đánh chiếm
Bắc kỳ, thì các học giả người Pháp đã chú ý tìm hiểu làng xã Việt Nam. Mục
đích của họ là cung cấp những hiểu biết về xã hội Việt Nam cho chính quyền
thực dân Pháp.
Văn hóa làng xã xưa và nay là đề tài được nhiều tác giả quan tâm hơn
cả. Có hàng loạt cơng trình về hội làng, hương ước, nếp sống, phong tục, tơn
giáo, tín ngưỡng làng xã. Các nhà nghiên cứu đã cung cấp nhiều tư liệu mới,
đưa ra nhiều nhận định mới, nâng cao nhận thức về thực thể làng xã và xã hội
Việt Nam truyền thống và hiện đại. Nửa trước của thế kỷ thứ XX, nhiều tác
phẩm của người Việt đã đề cập đến làng xã Việt Nam rất phong phú và sâu

sắc như “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính. Ngồi ra cịn có một số học
giả người Pháp như Y.Henry, P.Gourou… ý kiến chung của họ là phê phán
lối sống làng xã, đặc biệt là phong tục tập quán mang tính lạc hậu, cổ hủ.

6


Từ sau cách mạng tháng Tám, công việc nghiên cứu về làng xã được
tiếp tục mở rộng. Những cơng trình nghiên cứu/khảo cứu như “Nền kinh tế
làng xã” của Vũ Quốc Thúc (1950), hai tập kỷ yếu “Nông thôn Việt Nam
trong lịch sử” (1977 và 1978) - kết quả của hai cuộc hội thảo lớn về làng xã
đã đem lại một cách đánh giá đúng đắn về vai trò của làng xã, của nơng dân
trong tiến trình của lịch sử Việt Nam, cũng như cách tiếp cận về tất cả các
mặt: hạ tầng và thượng tầng, kinh tế và chính trị, văn hố vật chất và văn hóa
tinh thần, hệ tư tưởng.
Trong những thập niên gần đây, nhiều cơng trình khoa học lớn của
những bậc thầy về làng xã cổ truyền Việt Nam được công bố như “Chế độ
ruộng đất Việt Nam” tập 1, 2 của Trương Hữu Quýnh; “Cơ cấu tổ chức làng
Việt cổ truyền” của Trần Từ; “Làng xã Việt Nam – một số vấn đề kinh tế –
văn hóa – xã hội” của GS. Phan Đại Dỗn; “Về một số làng buôn ở đồng bằng
Bắc Bộ thế kỷ XVIII – XIX” của PGS – TS. Nguyễn Quang Ngọc; “Lệ làng
phép nước” của TS. Bùi Xuân Đính; “Nghiên cứu văn hóa dân gian: phương
pháp, lịch sử, thể loại” của Chu Xuân Diên; “Làng Việt Nam đa nguyên và
chặt” của Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Hải Kế; “Bản sắc văn hóa Việt Nam”
của Phan Ngọc; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm;
“Văn hố Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hố” của Đỗ Lai Thúy… đã phản
ánh khá đầy đủ về kết cấu kinh tế, tổ chức vận hành xã thơn và đời sống văn
hóa của làng xã. Những nghiên cứu đó rất hữu ích cho thế hệ nghiên cứu sau.
Ngồi ra, cịn có các cơng trình nghiên cứu thạc sĩ, tiến sĩ về văn hóa
làng xã như Nguyễn Thế Hồn với Cấu trúc và văn hóa làng xã người Việt ở

Quảng Bình, Luận án tiến sĩ trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Có thể nói các
cơng trình trên đã kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu đặc thù của văn hóa

7


học như lịch sử, lơgic, so sánh, phân tích, tổng hợp, điền dã… tạo nên một hệ
thống kiến thức phong phú về văn hóa làng xã Việt Nam.
Liên quan đến chủ đề áp dụng phương pháp lôgic - lịch sử vào nghiên
cứu văn hóa làng xã Việt Nam, hiện có rất ít cơng trình luận bàn trực tiếp, mà chỉ
gián tiếp coi đó là phương pháp chủ đạo trong cơng trình nghiên cứu của mình.
Có một số tác giả đã đề cập đến phương pháp lôgic - lịch sử trong nghiên cứu
văn hóa như: Phạm Thái Việt với “Đại cương văn hóa Việt Nam”, “Tồn cầu
hóa, những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa”… Nguyễn
Trần Bạt với “Văn hóa và con người”, Nguyễn Văn Thắng với “Hành trình vào
văn hóa học”, Nguyễn Ngọc Thêm với “Bản sắc văn hóa Việt Nam”… Tuy
nhiên, có thể nhận thấy những cơng trình nghiên cứu thuần túy về phương pháp
lôgic và phương pháp lịch sử vẫn chiếm số lượng áp đảo. Nói cách khác, đa số
các nhà khoa học đề cập đến phương pháp lôgic - lịch sử một cách chuyên biệt
từ góc độ phương pháp luận. Chẳng hạn như, GS. TS Lê Hữu Nghĩa với luận án
“Lịch sử và lôgic”, TS. Phạm Thái Việt với “Sự thống nhất giữa cái lôgic và cái
lịch sử, một nguyên tắc của nhận thức lý luận”…
Qua tổng quan tài liệu, có thể thấy rằng, giữa các nghiên cứu về văn
hóa làng xã ở Việt Nam với các nghiên cứu về phương pháp trong lĩnh vực
triết học vẫn tồn tại một khoảng trống lớn. Các phương pháp được sử dụng
trong nghiên cứu văn hóa làng xã vẫn thường thiên về hoặc mơ tả, hoặc sử
liệu học, hoặc xã hội học.
Trên thực tế, các cơng trình đi theo hướng đơn ngành khơng thể nghiên
cứu văn hóa một cách tồn diện, khơng thể đảm nhận được những nội dung
ngày càng phức tạp mà thời đại đặt ra đối với nghiên cứu văn hóa (hàng loạt

những vấn đề như: bản sắc, quá trình biến đổi và tích hợp văn hóa, thể chế
văn hóa, chính sách văn hóa, tính dân tộc, tính hiện đại trong văn hóa, văn hóa

8


và phát triển…). Bởi vậy, việc tìm kiếm các phương tiện khoa học cho phép tổ
hợp các tri thức từ nhiều lĩnh vực để tạo ra nhận thức chỉnh thể về đối tượng
nghiên cứu - mà trong trường hợp này là văn hóa làng xã là điều cần thiết. Xét
cho cùng, văn hóa là một hiện tượng xã hội, nó cũng tuân thủ các quy luật xã
hội, do đó, việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu của lôgic biện chứng
chắn chắn có tác dụng tốt. Nguyên tắc thống nhất lôgic và lịch sử là một trong
số các phương pháp cơ bản của phương pháp biện chứng, đã được C.Mác sử
dụng thành công trong nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, mà minh chứng cụ thể là
tác phẩm "Tư bản".
Thực trạng phổ biến hiện nay trong nghiên cứu văn hóa làng xã ở Việt
Nam là có sự tách biệt khá lớn giữa nghiên cứu phương pháp (lĩnh vực đặc
thù cho triết học) với nghiên cứu ứng dụng (lĩnh vực đặc thù cho các khoa học
cụ thể). Các nghiên cứu cụ thể về làng xã ở Việt Nam, mặc dù đã đạt được
nhiều thành tựu, nhưng vẫn chưa cho phép hình dung một bức tranh chỉnh thể
về đối tượng nghiên cứu. Một minh chứng cụ thể cho nhận định này là các
nghiên cứu về văn hóa nói chung và văn hóa làng xã nói riêng vẫn cịn chưa
làm rõ được nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong tiến trình đổi mới,
trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây
dựng, trong việc xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và
quốc tế, văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn xác định vai trị của phương pháp lôgic và phương
pháp lịch sử trong nghiên cứu văn hóa làng xã; áp dụng phương pháp lơgic - lịch
sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam đương đại.

Để thực hiện mục những mục tiêu nêu trên, luận văn giải quyết các
nhiệm vụ sau:

9


1. Chỉ ra mối tương quan chặt chẽ giữa triết học với văn hóa dưới hình
thái "triết học văn hóa"; từ đó luận chứng cho tính hợp lý của việc ứng dụng
các phương pháp triết học vào nghiên cứu văn hóa.
2. Làm rõ nội dung của phương pháp lơgic và phương pháp lịch sử,
cùng mối quan hệ biện chứng giữa chúng trong ứng dụng (nguyên tắc thống
nhất giữa lôgic và lịch sử) trong triết học.
3. Trình bày việc ứng dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic
trong nghiên cứu văn hóa làng xã.
4. Trình bày việc kết hợp biện chứng hai phương pháp nói trên trong
nghiên cứu văn hóa làng xã và đưa ra một số khuyến nghị tham khảo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phương pháp lôgic - lịch sử và
văn hóa làng xã Việt Nam .
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế,
đề tài chỉ tập trung khảo cứu làng xã Bắc Bộ Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận văn
Luận văn sử dụng các nguyên lý của triết học Mácxit, với các nguyên
tắc như: thống nhất lơgic - lịch sử, thống nhất giữa phân tích và tổng hợp,
phương pháp tiếp cận hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái qt hóa…
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua các nghiên cứu của các nhà khoa học hàng đầu, hệ thống lại
những điểm cơ bản nhất của văn hóa làng xã bằng phương pháp lịch sử và
phương pháp lơgic. Đưa ra bức tranh văn hóa làng xã bằng phương pháp tiếp cận
thống nhất giữa lôgic và lịch sử để có cái nhìn tồn diện hơn về văn hóa làng xã.


10


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đóng góp một phần nhỏ vào việc xây dựng hệ thống lý luận khoa học về
văn hóa làng xã. Góp phần cho hoạt động nghiên cứu văn hóa làng xã trên thực
tế đạt nhiều hiệu quả, nhất là trong thời kỳ cả nước xây dựng nông thôn mới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương với 9 tiết.

11


NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Triết học văn hóa
Mối quan hệ giữa triết học và văn hóa đã có ngay khi triết học mới hình
thành. Nhưng chỉ đến thế kỷ XVIII, khi đã trở thành một khái niệm độc lập
văn hóa mới trở thành một vấn đề nghiên cứu mới của triết học [15. tr.9].
Người đầu tiên tiếp cận văn hóa như một chỉnh thể là I. Kant. Trước
ông, các nhà triết học đã tiếp cận văn hóa bằng những con đường khác nhau,
hoặc theo chủ nghĩa nhân đạo coi văn hóa là một biểu hiện của đạo đức, hoặc
theo chủ nghĩa duy lý coi văn hóa là mặt đối lập với tự nhiên. I. Kant hiểu văn
hóa như chính hoạt động của con người, các giá trị là kết quả của hoạt động
này. Văn hóa được nghiên cứu trong tính chỉnh thể, năng động, trong tính
thống nhất của lịch sử được thể hiện ở quá trình tiếp nối từ thế hệ này đến thế
hệ khác, trong mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động có mục đích của con
người với tự nhiên và xã hội. Theo I. Kant, lịch sử của loài người được thực

hiện theo hai phương diện, phương diện tự nhiên và phương diện trí tuệ. Để
hiểu xã hội, con người phải khám phá ra những quy luật phát triển của lịch sử
được ẩn dấu dưới vẻ ngẫu nhiên của các sự kiện, đó là cái bản tính. Con người
ln đi tới những mục đích thầm kín của cái bản tính như theo một sự chỉ dẫn
đường. Văn hóa thể hiện khả năng con người biết tự đặt ra mục đích cho
mình. Mục đích là sự tổng hợp của giác tính, lý tính trong sự đặc thù của tộc
loại người như một bộ phận của tự nhiên. Văn hóa thể hiện vị trí của con
người trong mối quan hệ với thế giới, là con đường đi đến cái bản tính.
Khác hẳn với những người đi trước, Hegel coi sự vận động sáng tạo ra
văn hóa là sự vận động đến cái tuyệt đối. Hegel xem tư duy như là quá trình
vận động và phát triển của văn hóa nhân loại. Khái niệm không chỉ là từ ngữ

12


hay thuật ngữ mà là thể hiện phương thức, hình thức hoạt động của con người
trong quá trình trao đổi với tự nhiên. Trong hoạt động hiện thực, con người đã
đối tượng hóa hình thức của tư duy vào thế giới tự nhiên. Văn hóa là phương
thức hoạt động của con người. Lịch sử phát triển của văn hóa nhân loại cũng
chính là lịch sử tinh thần của nhân loại, lịch sử phát triển của tư duy loài người.
Tuy nhiên, Hegel coi hoạt động văn hóa như một hình thức hoạt động của ý
niệm tuyệt đối, mang tính thứ nhất, là cái đầu tiên, không cần một tiền đề nào
bên ngồi. Cịn hoạt động thực tiễn, hoạt động sáng tạo ra văn hóa là cái thứ
hai, là phương tiện để ý niệm tuyệt đối tự nhận thức lại mình, là sự tồn tại dưới
dạng khác của ý niệm tuyệt đối, sự tha hóa của tư duy vơ hạn.
Bước sang thế kỷ XIX, XX, văn hóa trở thành vấn đề cấp bách của triết
học hiện đại. E.Cátxirơ - nhà triết học người Đức, đại biểu của chủ nghĩa Kant
mới, đại biểu cho cách tiếp cận biểu tượng về văn hóa. Văn hóa là sự đa dạng
của các hình thức khác nhau như ngôn ngữ, thần thoại, tôn giáo, nghệ thuật và
nhận thức lý luận. Các hình thức văn hóa này tạo thành một chỉnh thể nhờ có

sự thống nhất bên trong. Đến lượt mình, mỗi hình thức văn hóa lại là sự đa
dạng của các nhân tố văn hóa và các nhân tố này cũng có sự thống nhất bên
trong để làm cho mỗi hình thức cũng lại là một tiểu chỉnh thể. Nhiệm vụ của
triết học văn hóa là chỉ ra mỗi một hình thức nêu trên là cái gì và ý nghĩa của
chúng ra sao? Chúng hoàn thành chức năng như thế nào? Ngôn ngữ thần
thoại, nghệ thuật, tôn giáo quan hệ với nhau bằng cách nào? Cái gì phân biệt
chúng và cái gì liên kết chúng với nhau? Như vậy, theo ơng, tồn bộ sự đa
dạng của văn hóa chỉ là sự thể hiện vị trí tinh thần trong tự nhiên, nhưng đó
khơng phải là tự nhiên tự nó mà là tự nhiên đã được nhân hóa. Biểu tượng là
sự tổng hợp tính đa dạng cảm tính về mặt hình thức, là khả năng kiến tạo thế
giới một cách sáng tạo. Theo ơng, tồn bộ q trình nhận thức của con người

13


là nhận thức về biểu tượng. Biểu tượng là nhân tố chung cho mọi hình thức
văn hóa và có khả năng tạo nên sự thống nhất trong chúng, đồng thời giữ gìn
sự độc đáo của chúng.
A.Schweitzer nhà triết học người Đức cho rằng triết học văn hóa
nghiên cứu cái đặc thù của văn hóa theo hướng tiến bộ, gắn với đạo đức. Văn
hóa là bất kỳ khả năng tiến bộ nào ở cả trong hoạt động vật chất lẫn hoạt động
tinh thần của con người. Triết học hiện thời chỉ ở mức độ lý luận thuần túy, đề
cập đến bộ máy lơgic hình thức, bởi thế sự sáng tạo triết học bị chuyển thành
sự sáng tạo của các hình thức tư duy. Nhưng nhờ có những luận triết học,
chúng ta có thể mơ tả các lớp bề ngồi của tồn tại riêng biệt (tự nhiên, xã hội,
văn hóa) nhưng khơng thể thâm nhập sâu vào đặc thù của chúng. Nếu chỉ
thuần túy lý luận thì khơng thể nghiên cứu được bản chất của văn hóa, mà
kìm hãm sự sáng tạo văn hóa. Triết học muốn nghiên cứu văn hóa trong tồn
bộ chỉnh thể của nó phải có sự kết hợp giữa đạo đức học và lý luận nhận thức,
phải luận chứng cho sự thống nhất của hai loại tiến bộ vật chất và tiến bộ tinh

thần, triết học phải suy ngẫm về con người thực, cuộc sống thực.
Như vậy, vấn đề mối quan hệ giữa triết học và văn hóa đã xuất hiện từ
lâu trong lịch sử. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, triết học văn hóa chỉ là sự
biến dạng của triết học lịch sử, có ý kiến cho rằng triết học văn hóa khác biệt
với triết học lịch sử và mới được hình thành vào đầu thế kỷ XIX; một số khác
thì khẳng định rằng, văn hóa thực sự trở thành một khái niệm khoa học cùng
với sự phát triển của của chủ nghĩa tư bản và chỉ trong triết học cổ điển Đức
lần đầu tiên nó mới được xem xét và nghiên cứu như một chỉnh thể. Văn hóa
là một hiện tượng xã hội độc đáo, đa dạng và phức hợp, vì thế trong việc tìm
kiếm bản chất của văn hóa, tất yếu phải có lý luận về nó, triết học văn hóa ra
đời đáp ứng yêu cầu đó.

14


Triết học Macxit tiếp cận văn hóa bằng việc vận dụng nhận thức duy
vật lịch sử của C.Mác làm cơ sở phương pháp luận của mình, khẳng định văn
hóa là một hiện tượng xã hội, để hiểu bản chất của nó thì khơng có con đường
nào khác là nghiên cứu văn hóa trong chính sự chuyển động và phát triển của
đời sống xã hội.
Như vậy, trước đây, việc nghiên cứu văn hóa chủ yếu ở trạng thái tĩnh,
xem đời sống xã hội nói chung và văn hóa nói riêng là có sẵn, lý giải đời sống
xã hội chỉ dừng lại ở cấp độ hệ thống, theo lý luận hệ thống. Cách tiếp cận giá
trị học quan tâm đến mối quan hệ giữa giữa bộ phận và hệ thống trên góc độ
giá trị; tiếp cận hoạt động chú trọng cấu trúc và chức năng; tiếp cận nhân cách
lại giải thích mối quan hệ tiền đề và kết quả của hệ thống; tiếp cận ký hiệu
học chỉ lưu ý đến phương tiện truyền tin của hệ thống văn hóa.
Kết quả tất yếu của phương pháp đó là coi văn hóa chỉ đơn giản là
chính trị, khoa học cơng nghệ, nghệ thuật, lối sống… Điều đó đã đẻ ra những
con người méo mó, những con người thuần chính trị, thuần tơn giáo hay nghệ

thuật, chỉ cần chính trị, đạo đức hay nghệ thuật là giải quyết xong mọi vấn đề
của đời sống con người. Chỉ trong lý luận biện chứng về xã hội, chúng ta mới
thấy rõ quá trình vận động của văn hóa, mới hiểu bản chất, vai trị của nó
trong đời sống xã hội. Vì vậy, cần phải sử dụng các phương pháp của triết học
để nghiên cứu văn hóa.
Triết học văn hóa ra đời nhằm giải quyết những yêu cầu mang tính cấp
thiết của văn hóa. Sản phẩm của các nhà triết học là đáp ứng yêu cầu của thời
đại, của văn hóa. Để đạt được một kết quả như vậy thì cần thiết phải thừa
nhận tính đa dạng và các nền văn hoá khác nhau, và thừa nhận triết học tự nó
là một sản phẩm của văn hố mà có thể làm lan tỏa và phát triển văn hố.

15


Hơn nữa, cịn có một lý do chính đáng để tin rằng triết học xuất hiện từ
văn hoá; rằng, mối quan hệ giữa triết học và văn hố khơng phải là sự vơ tình
và ngẫu nhiên. Triết học xuất hiện từ văn hóa. Văn hố cho thấy cả ý nghĩa của
những câu hỏi mà triết học đưa ra và tìm kiếm câu trả lời lẫn cả những phương
pháp hoặc cách thức để chúng ta tìm kiếm câu trả lời. Tuy nhiên, do khả năng
có thể vượt lên tính đặc thù và tính cục bộ nên triết học có thể tìm cách để đáp
ứng một số mục tiêu của tính hiện đại. Có thể kết luận triết học khơng chỉ xuất
hiện từ văn hố, mà cịn có thể khơng bao giờ tách khỏi văn hố.
Nhưng trước khi có thể đánh giá luận điểm này một cách toàn thể, chúng
ta cần xem xét vế đầu của nó - triết học xuất phát từ văn hố có nghĩa là gì và
đâu là cơ sở để khẳng định như vậy. Ở mức độ trần tục nhất, người ta có thể nói
rằng triết học xuất hiện từ văn hoá theo nghĩa văn hoá là một phần, hoặc ảnh
hưởng đến môi trường vật chất là nơi nảy sinh ra những vấn đề triết học. Ví dụ,
văn hố tạo ra những cơ hội và đặc tính của thời gian nhàn rỗi và nói chung, nó
chỉ có ở những nơi con người được giải phóng khỏi các nhu cầu thiết yếu nhằm
duy trì cuộc sống, khi họ có thời gian rỗi để dành cho suy tư triết học.

Văn hoá tạo ra những loại vấn đề và những nghi vấn đặc thù để nhà
triết học theo đuổi, chúng ta nhận thấy những truy tầm triết học hướng tới các
vấn đề về bản chất con người, quyền cá nhân, trật tự chính trị và những quan
niệm về cái thiện. Ví dụ, trong thế kỷ XVII – XVIII ở phương Tây – nơi mà
chủ nghĩa cá nhân đang gia tăng, là thời điểm mà khoa học và công nghệ đã
làm cho những hình thức lao động truyền thống trở nên lỗi thời, và khi con
người khơng chỉ đơn giản kiếm tìm nhiều nguồn lực hơn, mà cịn tìm cách để
mở rộng thị trường. Triết học khơng phải là tiên đề hố, và người ta cũng
khơng dễ tìm thấy miếng đất vững chắc dưới chân nó. Chẳng phải vơ cớ mà
nhiều nhà thơng thái đã nói rằng, triết học - đó là vật không thể đem nhử con

16


chó trong cũi chui ra, và khi đọc tác phẩm triết học thì người ta có ấn tượng là
nhai mãi một cái gì đó nhưng lại chẳng có gì để nuốt [15. tr.38].
Văn hố ảnh hưởng đến chính “ngơn ngữ” dùng để diễn đạt và giải đáp
những vấn đề triết học, đến gì được coi là câu trả lời thoả đáng. Ví dụ, bằng
việc thiết lập những chuẩn mực lý tính, hoặc thơng qua những giá trị được đề
cao (như những giá trị cá nhân; lợi ích chung; cái thiện của những cộng đồng,
như dân tộc, nhà thờ, con người, sinh quyển), một nền văn hố có thể cho
chúng ta một “ngôn ngữ” để thiết lập những giới hạn cho những vấn đề triết
học nào có thể được coi là có ý nghĩa để suy ngẫm.
Cuối cùng, nói rộng hơn, một số người có thể nói rằng, “triết học xuất
hiện từ văn hoá” theo nghĩa văn hoá cung cấp, hoặc áp đặt bộ khung khái
niệm cho những suy ngẫm (nghiên cứu) triết học. C. Mác đã nói rằng “triết
học là tinh hoa văn hóa của một thời đại, là linh hồn sống động của của văn
hóa” [15.tr.18]
Văn hóa là một lĩnh vực được nghiên cứu bởi nhiều ngành khoa học
khác nhau, lượng kiến thức tích hợp, thu thập kết quả nghiên cứu của một loạt

khoa học chuyên ngành nhân học văn hóa, nhân học xã hội, dân tộc học, xã
hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học, sử học… là vô cùng đồ sộ. Phương pháp
luận nghiên cứu giữ vai trị quan trọng trong nghiên cứu văn hóa. Nhiệm vụ
của nó là giúp các nhà nghiên cứu tìm ra quy luật và bản chất của các đối
tượng văn hóa; cho phép đi từ những quy luật chung đến thấu hiểu các hiện
tượng văn hóa riêng.
Như vậy, triết học văn hóa là môn khoa học sử dụng các phương pháp
triết học vào việc nghiên cứu văn hóa để tìm ra quy luật, bản chất, vai trị của
văn hóa trong đời sống xã hội.

17


1.2. Tổng quan về phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic
1.2.1. Tổng quan về phương pháp lịch sử
Trong lịch sử nhận thức khoa học, cả phương pháp lôgic và phương
pháp lịch sử từ lâu đã tồn tại như những cơng cụ nhận thức chun biệt
truyền thống.
Ở trình độ kinh nghiệm, hai phương pháp này độc lập với nhau xét về
vai trò cũng như về chức năng. Trong lịch sử nhận thức khoa học, phương
pháp lịch sử luôn giữ vị trí hàng đầu trong các khoa học lịch sử, khảo cổ, phân
loại học… Trong các ngành khoa học như toán, vật lý, lôgic học… phương
pháp lôgic được áp dụng như là phương pháp chủ đạo.
Nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của phương pháp lịch sử:
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào khi đã tồn tại đều trải qua một quá
trình lịch sử của sự nảy sinh, hình thành, phát triển và tiêu vong. Q trình đó
bao gồm các trạng thái, các giai đoạn khác nhau về chất, nảy sinh kế tiếp nhau
theo cách cái nọ kế tiếp cái kia, tạo nên sự phát triển của sự vật từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Thuật ngữ lịch sử trong tiếng Hy Lạp cổ, lúc đầu chỉ những sự kiện

diễn ra trong đời sống tự nhiên và xã hội. Cùng với sự phát triển của nhận
thức nhân loại, phạm trù lịch sử dùng để chỉ mọi quá trình phát triển thực tế,
tức là toàn bộ hiện thực trong sự phát triển của nó với những hình thức biểu
hiện phong phú, đa dạng, cụ thể.
Lịch sử ln mang tính khách quan nội tại vốn có, độc lập với ý thức,
tư tưởng của con người. Phát triển là một thuộc tính cơ bản, là khuynh hướng
chung của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực. Do vậy, để nhận
thức được bản chất của sự vật, cần phải xem xét nó trong sự vận động, sinh
thành, phát triển.

18


Cho đến cuối thế kỷ XVIII, các ngành khoa học chủ yếu vẫn ở trình độ
mơ tả, đến nửa đầu thế kỷ XIX, nhiều ngành khoa học đã chuyển thành khoa
học về các quá trình cùng với những mối liên hệ gắn bó khơng chỉ giữa các
yếu tố trong một quá trình, mà cả giữa những quá trình với nhau. Hàng loạt
ngành khoa học giáp ranh đã xuất hiện. Dưới con mắt của nhà khoa học, giới
tự nhiên và xã hội hiện ra như một q trình trong tính chỉnh thể, tồn vẹn.
Đây là trình độ phát triển tất yếu của nhận thức nhân loại trên cơ sở tích hợp
những tri thức kinh nghiệm cần thiết: trình độ lý luận.
Đó là lý do phương pháp lịch sử được hình thành. Trên cơ sở tổng kết
và khái quát các tri thức kinh nghiệm, nhận thức lý luận phát hiện ra những
mối liên hệ tất yếu, phổ biến ẩn giấu đằng sau những hiện tượng, các sự kiện
riêng biệt của hiện thực. Dựa vào những mối liên hệ khách quan có tính quy
luật, nó tái hiện dưới dạng hình ảnh tinh thần sự phát triển của khách thể
nghiên cứu.
Mục đích của phương pháp lịch sử là khám phá ra sợi chỉ đỏ xuyên
suốt quá trình lịch sử, liên kết các sự kiện, các mặt dường như tách biệt thành
một chỉnh thể toàn vẹn, để tái hiện khách thể trong quá trình vận động, phát

triển. Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện sự vật thông qua những
mối liên hệ lịch sử căn bản, xem xét mỗi vấn đề trên quan điểm sự vật đó xuất
hiện như thế nào trong lịch sử, đã trải qua những giái đoạn phát triển chủ yếu
nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển để xem hiện nay nó là gì.
Nhiệm vụ của phương pháp lịch sử là hình dung sự vật xun qua lăng
kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo
trình tự thời gian. Nét quan trọng nhất của phương pháp lịch sử là sự mô tả sự
kiện – niên đại con đường lịch sử - cụ thể của sự hình thành sự vật, nó phản ánh
sự vật theo trình tự phát sinh nghiêm ngặt. Giá trị của phương pháp này là ở chỗ

19


nhờ nó có thể nắm sự vận động lịch sử phong phú và nhiều vẻ của các hình thái
biểu hiện cụ thể của nó và thơng qua nó có thể nắm bản chất khách thể.
Như vậy, sự kiện đóng vai rất quan trọng trong nhận thức lịch sử. Các
sự kiện với tư cách là những mặt, những yếu tố nào đó của hiện thực, được
con người thụ cảm và được nghi nhận dưới một hình thức nhất định, đóng
một vai trị quan trọng khơng những đối với nhà nghiên cứu lịch sử, mà còn
đối với tất cả các nhà khoa học. Bởi vì sự kiện là khơng khí của nhà khoa học.
Chỉ có thể dựa trên sự kiện nhà khoa học mới có thể đi sâu vào bản chất của
khách thể nghiên cứu, khám phá ra những thuộc tính và những mối liên hệ tất
yếu của nó, những quy luật phát triển của nó.
1.2.2. Tổng quan về phương pháp lơgic
Lơgic ngoài triết học: Cũng như bản thân thế giới, nhận thức của nhân
loại trải qua một quá trình phát triển lịch sử lâu dài. Chỉ đến một trình độ phát
triển nhất định của nhận thức nhân loại, thế giới mới được quan niệm như một
hệ thống, ở trong quá trình vận động tiến lên, thông qua những bước
quanh co, thụt lùi.
Phương pháp lơgic xem xét q trình phát triển của đối tượng ở thời

điểm nó đạt đến hình thức kinh điển chín muồi nhất. Có được khả năng đó là
do khi tái hiện sự vật ở hình thức cao, chín muồi của nó, hình thức này đã bao
hàm những giai đoạn phát triển trước đây dưới dạng lọc bỏ. Chúng ta nhờ vậy
nhận thức được cả những mốc lịch sử cơ bản của nó.
1.2.3. Trước phép biện chứng duy vật, phương pháp lôgic và phương
pháp lịch sử tồn tại độc lập tương đối
Nhu cầu kết hợp hai phương pháp lôgic và lịch sử đã xuất hiện từ sớm
trong lịch sử nhận thức. Trong các ngành khoa học thực nghiệm, phương pháp
lịch sử được sử dụng để mô tả, sưu tập theo trình tự thời gian các tài liệu thực

20


nghiệm thu được từ quan sát thí nghiệm. Phương pháp lôgic lại là việc vận
dụng các thủ pháp duy lý (thuật tốn, các thao tác lơgic như quy nạp, diễn
dịch, loại tỷ… ) vào việc xử lý các tài liệu ấy.
Khi cịn ở trình độ nhận thức kinh nghiệm, do thói quen xem xét sự vật
theo cách kinh nghiệm chủ nghĩa, hai phương pháp này được quan niệm tách
biệt, loại trừ nhau. Đối tượng của phương pháp lịch sử là những sự kiện đơn
nhất, ngẫu nhiên, bề ngoài… xảy ra theo trình tự thời gian; trái lại, phương
pháp lơgic lại lấy cái phổ biến, tất nhiên, bản chất làm “vương quốc” riêng
của mình, chỉ tn thủ trình tự lơgic của chính nó.
Khi nhận thức chuyển từ trình độ kinh nghiệm lên trình độ lý luận thì
tình trạng đối lập tuyệt đối giữa hai phương pháp này cũng biến mất. Thay vì
nghiên cứu các sự vật, hiện tượng riêng lẻ, biệt lập, nhân loại cũng đặt ra cho
nhận thức lý luận nhiệm vụ nghiên cứu các hệ thống, các quá trình. Khách thể
của nhận thức lý luận là một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa cái bản
chất và hiện tượng, cái chung và cái riêng, cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, quy
luật và sự phát triển hiện thực… Do đó trình độ nhận thức khơng cịn chỗ cho
những cái suy diễn, lập luận lơgic hình thức. Một cách tất yếu, không tồn tại

phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử dưới dạng thuần túy, được sử
dụng hoàn toàn biệt lập trong hoạt động nhận thức khoa học.
Theo đó, phương pháp lôgic được hiểu là phương pháp lịch sử, chỉ có
điều đã thốt khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên pha trộn. Còn
phương pháp lịch sử là sự ứng dụng của phương pháp lôgic vào những tài liệu
lịch sử cụ thể.
Phải đến khi phép biện chứng ra đời, sự thống nhất của phương pháp
lôgic và lịch sử thực sự mang tính lý luận, hệ thống.

21


1.3. Sự thống nhất của phương pháp lôgic - lịch sử trong phép biện
chứng duy vật
1.3.1. Cái lôgic, cái lịch sử và nguyên tắc thống nhất lôgic - lịch sử
* Quan niệm về cái lơgic
Cái lơgic chính là tư tưởng, tư duy. Rơ-đen-tan viết: “Lơgic” là hình thức
của nhận thức của sự phản ánh hiện tượng, là bản sao của tư tưởng, là bức ảnh
chụp từ hiện thực, là trật tự nhất định của sự vận động tư tưởng tiến đến khách
thể. V.A.Grisenko thì viết: “Lơgic… biểu hiện với tư cách là phạm trù triết học
dùng để chỉ tổng số các quy luật của tư duy trừu tượng mà sự phản ánh phù
hợp thế giới diễn ra theo quy luật ấy, là tổng số các quy luật mà theo đó kết cấu
của thế giới vật chất được thể hiện trong kết cấu của tư tưởng” [34.tr.15].
Khía cạch hợp lý của tất cả những định nghĩa trên về cái lôgic là thừa
nhận nó phản ánh sự vật khách quan. Nhưng sẽ không đúng nếu đồng nhất
lôgic với tư duy, tư tưởng hoặc với nhận thức nói chung. Nếu “lịch sử” được
hiểu là sự vận động của sự vật thực tế, còn “lôgic” là sự phản ánh sự vận động
và phát triển của sự vật trong ý thức con người, khi đó vấn đề tương quan của
lôgic và lịch sử sẽ giản đơn chỉ là tên gọi khác của vấn đề cơ bản của triết
học - vấn đề quan hệ của tư duy và tồn tại.

Cái lôgic không chỉ tồn tại trong lĩnh vực tinh thần mà ngay cả trong
lịch sử hiện thực khách quan. Đây là khuynh hướng khách quan hóa cái lôgic,
tiêu biểu của một số tác giả như E.V.Iliencov, V.A.Grisenko… Theo họ, bản
thân sự phát triển hiện thực của khách thể đã hàm chứa cái lôgic nội tại của nó
và cái lơgic này mang một ý nghĩa hồn tồn khách quan. Quan điểm trên đây
có những mặt hạn chế nhất định. Mặc dù kế thừa từ quan điểm của Lênin về
lôgic khách quan nhưng lôgic khách quan của Lê nin là chỉ các tính quy luật,
tính tất yếu trong sự vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng của thế

22


×