Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Sử dụng phương pháp Logic-lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHÙNG THU THÚY



SỬ DỤNG PHƢƠNG PHÁP LÔGIC - LỊCH SỬ
VÀO NGHIÊN CỨU VĂN HÓA LÀNG XÃ
VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học



Hà Nội – 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHÙNG THU THÚY

SỬ DỤNG PHƢƠNG PHÁP LÔGIC - LỊCH SỬ
VÀO NGHIÊN CỨU VĂN HÓA LÀNG XÃ
VIỆT NAM



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 80


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Thái Việt



Hà Nội - 2012

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 12
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 12
1.1. Triết học văn hóa 12
1.2. Tổng quan về phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lôgic 18
1.2.1. Tổng quan về phƣơng pháp lịch sử 18
1.2.2. Tổng quan về phƣơng pháp lôgic 20
1.2.3. Trƣớc phép biện chứng duy vật, phƣơng pháp lôgic và phƣơng
pháp lịch sử tồn tại độc lập tƣơng đối 20
1.3. Sự thống nhất của phƣơng pháp lôgic - lịch sử trong phép biện chứng
duy vật 22
1.3.1. Cái lôgic, cái lịch sử và nguyên tắc thống nhất lôgic - lịch sử 22
1.3.2. Sự thống nhất của phƣơng pháp lôgic và phƣơng pháp lịch sử 27
Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP LÔGIC VÀ PHƢƠNG PHÁP LỊCH SỬ
TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HÓA LÀNG XÃ VIỆT NAM 34
2.1. Phƣơng pháp lịch sử trong nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam 34
2.1.1. Lịch sử hình thành làng xã Việt Nam 34

2.1.2. Các yếu tố văn hóa đặc trƣng 36
2.1.3. Hạn chế của phƣơng pháp lịch sử khi nghiên cứu văn hóa làng xã . 43
2.2. Phƣơng pháp lôgic trong nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam 43
2.2.1. Sự ƣu việt của việc sử dụng phƣơng pháp lôgic so với phƣơng
pháp lịch sử trong nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam 43
2.2.2. Sự tác động của quá trình đô thị hóa tới văn hóa làng xã 47
2.2.3. Tiếp thu các phƣơng tiện văn hóa, hình thành các giá trị văn hóa
hiện đại 51

2
2.2.4. Sự hình thành ý thức tuân thủ pháp luật 54
2.2.5. Hạn chế của phƣơng pháp lôgic 59
2.3. Vai trò của phƣơng pháp lôgic - lịch sử trong nghiên văn hóa làng xã 60
Chƣơng 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT TRÊN CƠ SỞ THỐNG NHẤT LÔGIC -
LỊCH SỬ 63
3.1. Bảo tồn, phát huy giá trị hạt nhân cơ bản của làng xã - gia đình, dòng
họ 63
3.1.1. Quan hệ gia đình - quan hệ cơ bản nhất của làng xã 63
3.1.2. Phát huy những giá trị của quan hệ gia đình, dòng họ 65
3.2. Bảo tồn và phát huy giá trị tinh thần của lễ hội truyền thống 67
3.2.1. Lễ hội cổ truyền 67
3.2.2. Gìn giữ nét văn hóa của lễ hội trong thời đại ngày nay 68
3.3. Lƣu giữ, bảo tồn, phát triển văn hóa làng xã gắn liền với xây dựng nông
thôn mới 70
3.3.1. Vai trò của văn hóa làng xã trong công cuộc đổi mới hiện nay 70
3.3.2. Chủ trƣơng của Đảng về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
trong nền kinh tế mở 73
3.3.3. Một số giải pháp thực hiện hiệu quả chƣơng trình xây dựng nông
thôn mới đi đôi với xây dựng văn hóa mới 74
KẾT LUẬN 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83






3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Văn hóa là một hiện tƣợng xã hội độc đáo, đa dạng và có quy luật, vì
thế việc tìm kiếm bản chất của văn hóa, tất yếu phải có lý luận về nó, triết học
văn hóa ra đời đáp ứng yêu cầu đó. Thực tiễn lịch sử cũng chỉ ra rằng cần
phải có những phƣơng pháp tƣ duy lý luận hiệu quả của triết học để phân tích
một cách sâu sắc các vấn đề về truyền thống dân tộc, hiện trạng kinh tế - xã
hội - văn hóa của mỗi quốc gia trong bối cảnh quốc tế chung.
Hiện nay, không một ai hoài nghi về tầm quan trọng của văn hóa đối
với các mặt của đời sống cá thể cũng nhƣ cộng đồng. Văn hóa là một đối
tƣợng phức tạp, là tổng thể những giá trị tinh thần, vật chất, đặc trƣng cho một
xã hội. Có bốn nguyên nhân chính dẫn đến kết luận trên. Thứ nhất: trong tiến
trình lịch sử, các mối liên kết cộng đồng trên cơ sở của văn hóa thƣờng tỏ ra
bền vững và chịu đƣợc thử thách của thời gian hơn so với những mô thức liên
kết khác, chẳng hạn nhƣ thị trƣờng hay nhà nƣớc. Nguyên nhân thứ hai: nhu
cầu tự khẳng định và bảo tồn kết cấu của dân tộc trƣớc áp lực của toàn cầu
hóa đang hối thúc các chính phủ khẳng định tính đồng nhất dựa trên lịch sử,
truyền thống. Trên thế giới, đang diễn ra sự hình thành và củng cố các khối
liên minh EU, AU, các hiệp ƣớc đa phƣơng, khu vực nhƣ WTO, ASEAN…
Đứng trƣớc tình hình đó, phản ứng của các nƣớc có khác nhau. Ở các nƣớc
phát triển, xuất hiện nhu cầu bảo tồn bản sắc văn hóa, duy trì các nguyên tắc
truyền thống về dân chủ và công bằng xã hội. Còn các nƣớc kém phát triển,

chính phủ viện đến bản sắc văn hóa dân tộc, các ý thức hệ truyền thống nhằm
chống lại sự áp đặt từ phía các nƣớc lớn khi họ nhân danh các giá trị và chuẩn
mực toàn cầu để đƣa ra các phán quyết bất lợi cho các nƣớc kém phát triển.
Nguyên nhân thứ ba: nhu cầu phản tƣ của các quốc gia trƣớc tính bất định và

4
xu thế nhất dạng hóa, phát sinh từ toàn cầu hóa. Sự mạnh lên của các quốc
gia, một cách tất yếu đòi hỏi phải khẳng định tính cá biệt của quốc gia, sao
cho cá thể không bị hòa tan vào những hệ chuẩn mang tính toàn cầu đang lấp
đầy không gian sống. Nguyên nhân thứ tƣ, văn hóa ngày càng có tiếng nói
quyết định đối với kinh tế, văn hóa trở thành động lực chủ đạo của nền kinh tế
tƣơng lai - kinh tế tri thức. Vậy nên, hiện nay cùng với đẩy mạnh toàn cầu
hóa, văn hóa cũng sẽ không ngừng gia tăng sức mạnh, với tƣ cách là lực
lƣợng đại diện cho tính da dạng, đối trọng lại quá trình nhất dạng hóa.
Đứng trƣớc sự gia tăng ảnh hƣởng của yếu tố văn hóa đối với kinh tế
cũng nhƣ chính trị, ở Việt Nam, trong những năm gần đây, xuất hiện nhiều
công trình nghiên cứu về văn hóa. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng những
phƣơng pháp khác nhau trong nghiên cứu văn hóa, theo đó là sự xuất hiện của
các bộ môn chuyên nghiên cứu văn hóa: khởi đầu là dân tộc chí, tiếp đó là
triết học văn hóa, tâm lý học văn hóa, dân tộc học, sau đó là nhân học, xã hội
học văn hóa, ký hiệu học, ngôn ngữ học tộc ngƣời… Những kết quả nghiên
cứu của các bộ môn khoa học đã tạo lƣợng tri thức khổng lồ và những luận
thuyết khoa học về sự phát triển của văn hóa vùng, văn hóa dân tộc và nhân
loại. Tuy nhiên, mỗi phƣơng pháp mới chỉ dừng lại tiếp cận văn hóa ở một
góc độ, đi sâu vào một vài phƣơng diện của văn hóa. Trƣớc yêu cầu của thực
tiễn, nghiên cứu văn hóa góp phần quan trọng không chỉ vào việc “dựng lại”
quá khứ của con ngƣời, mà còn vào việc giải quyết những vấn đề xã hội và
con ngƣời trong xã hội đƣơng đại. Vì vậy, các phƣơng pháp trên chƣa đủ hiệu
quả để giải quyết vấn đề đó. Việc áp dụng phƣơng pháp lôgic - lịch sử vào các
nghiên cứu văn hóa là một trong những biện pháp giải quyết yêu cầu trên.

Văn hóa làng xã - một trong những thành tố văn hóa quan trọng cấu
thành văn hóa Việt Nam. GS Hà Văn Tấn nhận định, có nghiên cứu làng xã

5
chúng ta mới nhận thức đầy đủ xã hội và văn hóa Việt Nam trong lịch sử, để
từ đó tìm đƣợc những biện pháp đúng đắn xây dựng nông thôn mới hiện tại.
Giáo sƣ Phan Đại Doãn cho rằng “Nƣớc là họp các làng mà thành. Từ làng
mà đến nƣớc, dạy dân nên tục, vƣơng chính lấy làng làm trƣớc” [26. tr.5].
“Làng Việt Nam là cái chìa khóa để giải mã bí mật Việt Nam, thần kỳ Việt
Nam” [26. tr.5]. Tuy nhiên cũng chính trong quá trình nghiên cứu về văn hóa
làng xã, đã nảy sinh nhu cầu về một phƣơng pháp tƣ duy tổng hợp, cho phép tái
hiện bức tranh văn hóa làng xã trong tính chỉnh thể. Vì vậy, học viên chọn văn
hóa làng xã làm đối tƣợng nghiên cứu, để thấy đƣợc nhu cầu và khả năng vận
dụng phƣơng pháp lôgic - lịch sử có thể góp phần giải quyết thực trạng
nghiên cứu văn hóa hiện nay.
Học viên áp dụng phƣơng pháp lôgic - lịch sử vào các nghiên cứu về
văn hóa làng xã với hy vọng rằng, việc làm đó sẽ góp góp phần vào việc nhận
thức đầy đủ hơn về văn hoá làng xã Việt Nam trong lịch sử, cũng nhƣ tìm
đƣợc những biện pháp đúng đắn để bảo tồn, phát triển giá trị của văn hóa làng
xã trong thời đại ngày nay. Vì lý do trên, học viên đã chọn đề tài “sử dụng
phƣơng pháp lôgic - lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam” làm
đề tài luận văn của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về văn hóa:
Trên thế giới đã bắt đầu có những công trình lý thuyết và giáo trình theo
hệ thống của văn hóa học, ví dụ: “Văn hóa nguyên thủy” của B.E.Tylor, “Triết
học các hình thái biểu tƣợng” của Ernst Casierer, “Vật tổ và cấm kỵ” của
Sigmund Freud, “Triết học văn hóa” của Peter Zimmar, “Nhân học cấu trúc” của
C. L. Strauss, “Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức” của Trần Đức Thảo…


6
Ở Việt Nam, ngƣời có công đầu tiên trong việc xây dựng cơ sở lý luận
cho việc nghiên cứu văn hóa là Đào Duy Anh. Ông là ngƣời đầu tiên đƣa ra
quan niệm có tính khoa học về văn hóa trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử
cƣơng” xuất bản năm 1938. Nhiều công trình của PSG. Từ Chi, PGS. Phan
Ngọc, GS. Đinh Gia Khánh, GS. Phạm Đức Dƣơng, GS. Tô Ngọc Thanh, GS.
Trần Quốc Vƣợng, GS. Hà Văn Tấn… đã đi theo hƣớng văn hóa học. Về giáo
trình đại học, chúng ta đã có “Văn hóa học” của Đoàn Văn Chúc, “Cơ sở văn
hóa” Việt Nam do GS. Trần Quốc Vƣợng chủ biên, “Cơ sở văn hóa Việt
Nam” của PGS.TSKH. Trần Ngọc Thêm.
Các công trình nghiên cứu về làng xã Việt Nam:
Làng xã Việt Nam là một thực thể xã hội, một đối tƣợng khoa học, từ
hàng trăm năm qua đã đƣợc nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc quan tâm.
Từ cuối thế kỷ trƣớc, khi Henry Revie tiến hành cuộc chiến tranh đánh chiếm
Bắc kỳ, thì các học giả ngƣời Pháp đã chú ý tìm hiểu làng xã Việt Nam. Mục
đích của họ là cung cấp những hiểu biết về xã hội Việt Nam cho chính quyền
thực dân Pháp.
Văn hóa làng xã xƣa và nay là đề tài đƣợc nhiều tác giả quan tâm hơn
cả. Có hàng loạt công trình về hội làng, hƣơng ƣớc, nếp sống, phong tục, tôn
giáo, tín ngƣỡng làng xã. Các nhà nghiên cứu đã cung cấp nhiều tƣ liệu mới,
đƣa ra nhiều nhận định mới, nâng cao nhận thức về thực thể làng xã và xã hội
Việt Nam truyền thống và hiện đại. Nửa trƣớc của thế kỷ thứ XX, nhiều tác
phẩm của ngƣời Việt đã đề cập đến làng xã Việt Nam rất phong phú và sâu
sắc nhƣ “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính. Ngoài ra còn có một số học
giả ngƣời Pháp nhƣ Y.Henry, P.Gourou… ý kiến chung của họ là phê phán
lối sống làng xã, đặc biệt là phong tục tập quán mang tính lạc hậu, cổ hủ.

7
Từ sau cách mạng tháng Tám, công việc nghiên cứu về làng xã đƣợc
tiếp tục mở rộng. Những công trình nghiên cứu/khảo cứu nhƣ “Nền kinh tế

làng xã” của Vũ Quốc Thúc (1950), hai tập kỷ yếu “Nông thôn Việt Nam
trong lịch sử” (1977 và 1978) - kết quả của hai cuộc hội thảo lớn về làng xã
đã đem lại một cách đánh giá đúng đắn về vai trò của làng xã, của nông dân
trong tiến trình của lịch sử Việt Nam, cũng nhƣ cách tiếp cận về tất cả các
mặt: hạ tầng và thƣợng tầng, kinh tế và chính trị, văn hoá vật chất và văn hóa
tinh thần, hệ tƣ tƣởng.
Trong những thập niên gần đây, nhiều công trình khoa học lớn của
những bậc thầy về làng xã cổ truyền Việt Nam đƣợc công bố nhƣ “Chế độ
ruộng đất Việt Nam” tập 1, 2 của Trƣơng Hữu Quýnh; “Cơ cấu tổ chức làng
Việt cổ truyền” của Trần Từ; “Làng xã Việt Nam – một số vấn đề kinh tế –
văn hóa – xã hội” của GS. Phan Đại Doãn; “Về một số làng buôn ở đồng bằng
Bắc Bộ thế kỷ XVIII – XIX” của PGS – TS. Nguyễn Quang Ngọc; “Lệ làng
phép nƣớc” của TS. Bùi Xuân Đính; “Nghiên cứu văn hóa dân gian: phƣơng
pháp, lịch sử, thể loại” của Chu Xuân Diên; “Làng Việt Nam đa nguyên và
chặt” của Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Hải Kế; “Bản sắc văn hóa Việt Nam”
của Phan Ngọc; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm;
“Văn hoá Việt Nam nhìn từ mẫu ngƣời văn hoá” của Đỗ Lai Thúy… đã phản
ánh khá đầy đủ về kết cấu kinh tế, tổ chức vận hành xã thôn và đời sống văn
hóa của làng xã. Những nghiên cứu đó rất hữu ích cho thế hệ nghiên cứu sau.
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu thạc sĩ, tiến sĩ về văn hóa
làng xã nhƣ Nguyễn Thế Hoàn với Cấu trúc và văn hóa làng xã ngƣời Việt ở
Quảng Bình, Luận án tiến sĩ trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội. Có thể nói các
công trình trên đã kết hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù của văn hóa

8
học nhƣ lịch sử, lôgic, so sánh, phân tích, tổng hợp, điền dã… tạo nên một hệ
thống kiến thức phong phú về văn hóa làng xã Việt Nam.
Liên quan đến chủ đề áp dụng phương pháp lôgic - lịch sử vào nghiên
cứu văn hóa làng xã Việt Nam, hiện có rất ít công trình luận bàn trực tiếp, mà chỉ
gián tiếp coi đó là phƣơng pháp chủ đạo trong công trình nghiên cứu của mình.

Có một số tác giả đã đề cập đến phƣơng pháp lôgic - lịch sử trong nghiên cứu
văn hóa nhƣ: Phạm Thái Việt với “Đại cƣơng văn hóa Việt Nam”, “Toàn cầu
hóa, những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa”… Nguyễn
Trần Bạt với “Văn hóa và con ngƣời”, Nguyễn Văn Thắng với “Hành trình vào
văn hóa học”, Nguyễn Ngọc Thêm với “Bản sắc văn hóa Việt Nam”… Tuy
nhiên, có thể nhận thấy những công trình nghiên cứu thuần túy về phƣơng pháp
lôgic và phƣơng pháp lịch sử vẫn chiếm số lƣợng áp đảo. Nói cách khác, đa số
các nhà khoa học đề cập đến phƣơng pháp lôgic - lịch sử một cách chuyên biệt
từ góc độ phƣơng pháp luận. Chẳng hạn nhƣ, GS. TS Lê Hữu Nghĩa với luận án
“Lịch sử và lôgic”, TS. Phạm Thái Việt với “Sự thống nhất giữa cái lôgic và cái
lịch sử, một nguyên tắc của nhận thức lý luận”…
Qua tổng quan tài liệu, có thể thấy rằng, giữa các nghiên cứu về văn
hóa làng xã ở Việt Nam với các nghiên cứu về phƣơng pháp trong lĩnh vực
triết học vẫn tồn tại một khoảng trống lớn. Các phƣơng pháp đƣợc sử dụng
trong nghiên cứu văn hóa làng xã vẫn thƣờng thiên về hoặc mô tả, hoặc sử
liệu học, hoặc xã hội học.
Trên thực tế, các công trình đi theo hƣớng đơn ngành không thể nghiên
cứu văn hóa một cách toàn diện, không thể đảm nhận đƣợc những nội dung
ngày càng phức tạp mà thời đại đặt ra đối với nghiên cứu văn hóa (hàng loạt
những vấn đề nhƣ: bản sắc, quá trình biến đổi và tích hợp văn hóa, thể chế
văn hóa, chính sách văn hóa, tính dân tộc, tính hiện đại trong văn hóa, văn hóa

9
và phát triển…). Bởi vậy, việc tìm kiếm các phƣơng tiện khoa học cho phép tổ
hợp các tri thức từ nhiều lĩnh vực để tạo ra nhận thức chỉnh thể về đối tƣợng
nghiên cứu - mà trong trƣờng hợp này là văn hóa làng xã là điều cần thiết. Xét
cho cùng, văn hóa là một hiện tƣợng xã hội, nó cũng tuân thủ các quy luật xã
hội, do đó, việc sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của lôgic biện chứng
chắn chắn có tác dụng tốt. Nguyên tắc thống nhất lôgic và lịch sử là một trong
số các phƣơng pháp cơ bản của phƣơng pháp biện chứng, đã đƣợc C.Mác sử

dụng thành công trong nghiên cứu chủ nghĩa tƣ bản, mà minh chứng cụ thể là
tác phẩm "Tƣ bản".
Thực trạng phổ biến hiện nay trong nghiên cứu văn hóa làng xã ở Việt
Nam là có sự tách biệt khá lớn giữa nghiên cứu phƣơng pháp (lĩnh vực đặc
thù cho triết học) với nghiên cứu ứng dụng (lĩnh vực đặc thù cho các khoa học
cụ thể). Các nghiên cứu cụ thể về làng xã ở Việt Nam, mặc dù đã đạt đƣợc
nhiều thành tựu, nhƣng vẫn chƣa cho phép hình dung một bức tranh chỉnh thể
về đối tƣợng nghiên cứu. Một minh chứng cụ thể cho nhận định này là các
nghiên cứu về văn hóa nói chung và văn hóa làng xã nói riêng vẫn còn chƣa
làm rõ đƣợc nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong tiến trình đổi mới,
trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng nhƣ hệ giá trị mới cần xây
dựng, trong việc xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và
quốc tế, văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn xác định vai trò của phƣơng pháp lôgic và phƣơng
pháp lịch sử trong nghiên cứu văn hóa làng xã; áp dụng phƣơng pháp lôgic - lịch
sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã Việt Nam đƣơng đại.
Để thực hiện mục những mục tiêu nêu trên, luận văn giải quyết các
nhiệm vụ sau:

10
1. Chỉ ra mối tƣơng quan chặt chẽ giữa triết học với văn hóa dƣới hình
thái "triết học văn hóa"; từ đó luận chứng cho tính hợp lý của việc ứng dụng
các phƣơng pháp triết học vào nghiên cứu văn hóa.
2. Làm rõ nội dung của phƣơng pháp lôgic và phƣơng pháp lịch sử,
cùng mối quan hệ biện chứng giữa chúng trong ứng dụng (nguyên tắc thống
nhất giữa lôgic và lịch sử) trong triết học.
3. Trình bày việc ứng dụng phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp lôgic
trong nghiên cứu văn hóa làng xã.
4. Trình bày việc kết hợp biện chứng hai phƣơng pháp nói trên trong

nghiên cứu văn hóa làng xã và đƣa ra một số khuyến nghị tham khảo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là phƣơng pháp lôgic - lịch sử và
văn hóa làng xã Việt Nam .
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế,
đề tài chỉ tập trung khảo cứu làng xã Bắc Bộ Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của luận văn
Luận văn sử dụng các nguyên lý của triết học Mácxit, với các nguyên
tắc nhƣ: thống nhất lôgic - lịch sử, thống nhất giữa phân tích và tổng hợp,
phƣơng pháp tiếp cận hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa…
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua các nghiên cứu của các nhà khoa học hàng đầu, hệ thống lại
những điểm cơ bản nhất của văn hóa làng xã bằng phƣơng pháp lịch sử và
phƣơng pháp lôgic. Đƣa ra bức tranh văn hóa làng xã bằng phƣơng pháp tiếp cận
thống nhất giữa lôgic và lịch sử để có cái nhìn toàn diện hơn về văn hóa làng xã.



11
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đóng góp một phần nhỏ vào việc xây dựng hệ thống lý luận khoa học về
văn hóa làng xã. Góp phần cho hoạt động nghiên cứu văn hóa làng xã trên thực
tế đạt nhiều hiệu quả, nhất là trong thời kỳ cả nƣớc xây dựng nông thôn mới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng với 9 tiết.



















12
NỘI DUNG
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Triết học văn hóa
Mối quan hệ giữa triết học và văn hóa đã có ngay khi triết học mới hình
thành. Nhƣng chỉ đến thế kỷ XVIII, khi đã trở thành một khái niệm độc lập
văn hóa mới trở thành một vấn đề nghiên cứu mới của triết học [15. tr.9].
Ngƣời đầu tiên tiếp cận văn hóa nhƣ một chỉnh thể là I. Kant. Trƣớc
ông, các nhà triết học đã tiếp cận văn hóa bằng những con đƣờng khác nhau,
hoặc theo chủ nghĩa nhân đạo coi văn hóa là một biểu hiện của đạo đức, hoặc
theo chủ nghĩa duy lý coi văn hóa là mặt đối lập với tự nhiên. I. Kant hiểu văn
hóa nhƣ chính hoạt động của con ngƣời, các giá trị là kết quả của hoạt động
này. Văn hóa đƣợc nghiên cứu trong tính chỉnh thể, năng động, trong tính
thống nhất của lịch sử đƣợc thể hiện ở quá trình tiếp nối từ thế hệ này đến thế
hệ khác, trong mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động có mục đích của con
ngƣời với tự nhiên và xã hội. Theo I. Kant, lịch sử của loài ngƣời đƣợc thực

hiện theo hai phƣơng diện, phƣơng diện tự nhiên và phƣơng diện trí tuệ. Để
hiểu xã hội, con ngƣời phải khám phá ra những quy luật phát triển của lịch sử
đƣợc ẩn dấu dƣới vẻ ngẫu nhiên của các sự kiện, đó là cái bản tính. Con ngƣời
luôn đi tới những mục đích thầm kín của cái bản tính nhƣ theo một sự chỉ dẫn
đƣờng. Văn hóa thể hiện khả năng con ngƣời biết tự đặt ra mục đích cho
mình. Mục đích là sự tổng hợp của giác tính, lý tính trong sự đặc thù của tộc
loại ngƣời nhƣ một bộ phận của tự nhiên. Văn hóa thể hiện vị trí của con
ngƣời trong mối quan hệ với thế giới, là con đƣờng đi đến cái bản tính.
Khác hẳn với những ngƣời đi trƣớc, Hegel coi sự vận động sáng tạo ra
văn hóa là sự vận động đến cái tuyệt đối. Hegel xem tƣ duy nhƣ là quá trình
vận động và phát triển của văn hóa nhân loại. Khái niệm không chỉ là từ ngữ

13
hay thuật ngữ mà là thể hiện phƣơng thức, hình thức hoạt động của con ngƣời
trong quá trình trao đổi với tự nhiên. Trong hoạt động hiện thực, con ngƣời đã
đối tƣợng hóa hình thức của tƣ duy vào thế giới tự nhiên. Văn hóa là phƣơng
thức hoạt động của con ngƣời. Lịch sử phát triển của văn hóa nhân loại cũng
chính là lịch sử tinh thần của nhân loại, lịch sử phát triển của tƣ duy loài ngƣời.
Tuy nhiên, Hegel coi hoạt động văn hóa nhƣ một hình thức hoạt động của ý
niệm tuyệt đối, mang tính thứ nhất, là cái đầu tiên, không cần một tiền đề nào
bên ngoài. Còn hoạt động thực tiễn, hoạt động sáng tạo ra văn hóa là cái thứ
hai, là phƣơng tiện để ý niệm tuyệt đối tự nhận thức lại mình, là sự tồn tại dƣới
dạng khác của ý niệm tuyệt đối, sự tha hóa của tƣ duy vô hạn.
Bƣớc sang thế kỷ XIX, XX, văn hóa trở thành vấn đề cấp bách của triết
học hiện đại. E.Cátxirơ - nhà triết học ngƣời Đức, đại biểu của chủ nghĩa Kant
mới, đại biểu cho cách tiếp cận biểu tƣợng về văn hóa. Văn hóa là sự đa dạng
của các hình thức khác nhau nhƣ ngôn ngữ, thần thoại, tôn giáo, nghệ thuật và
nhận thức lý luận. Các hình thức văn hóa này tạo thành một chỉnh thể nhờ có
sự thống nhất bên trong. Đến lƣợt mình, mỗi hình thức văn hóa lại là sự đa
dạng của các nhân tố văn hóa và các nhân tố này cũng có sự thống nhất bên

trong để làm cho mỗi hình thức cũng lại là một tiểu chỉnh thể. Nhiệm vụ của
triết học văn hóa là chỉ ra mỗi một hình thức nêu trên là cái gì và ý nghĩa của
chúng ra sao? Chúng hoàn thành chức năng nhƣ thế nào? Ngôn ngữ thần
thoại, nghệ thuật, tôn giáo quan hệ với nhau bằng cách nào? Cái gì phân biệt
chúng và cái gì liên kết chúng với nhau? Nhƣ vậy, theo ông, toàn bộ sự đa
dạng của văn hóa chỉ là sự thể hiện vị trí tinh thần trong tự nhiên, nhƣng đó
không phải là tự nhiên tự nó mà là tự nhiên đã đƣợc nhân hóa. Biểu tƣợng là
sự tổng hợp tính đa dạng cảm tính về mặt hình thức, là khả năng kiến tạo thế
giới một cách sáng tạo. Theo ông, toàn bộ quá trình nhận thức của con ngƣời

14
là nhận thức về biểu tƣợng. Biểu tƣợng là nhân tố chung cho mọi hình thức
văn hóa và có khả năng tạo nên sự thống nhất trong chúng, đồng thời giữ gìn
sự độc đáo của chúng.
A.Schweitzer nhà triết học ngƣời Đức cho rằng triết học văn hóa
nghiên cứu cái đặc thù của văn hóa theo hƣớng tiến bộ, gắn với đạo đức. Văn
hóa là bất kỳ khả năng tiến bộ nào ở cả trong hoạt động vật chất lẫn hoạt động
tinh thần của con ngƣời. Triết học hiện thời chỉ ở mức độ lý luận thuần túy, đề
cập đến bộ máy lôgic hình thức, bởi thế sự sáng tạo triết học bị chuyển thành
sự sáng tạo của các hình thức tƣ duy. Nhƣng nhờ có những luận triết học,
chúng ta có thể mô tả các lớp bề ngoài của tồn tại riêng biệt (tự nhiên, xã hội,
văn hóa) nhƣng không thể thâm nhập sâu vào đặc thù của chúng. Nếu chỉ
thuần túy lý luận thì không thể nghiên cứu đƣợc bản chất của văn hóa, mà
kìm hãm sự sáng tạo văn hóa. Triết học muốn nghiên cứu văn hóa trong toàn
bộ chỉnh thể của nó phải có sự kết hợp giữa đạo đức học và lý luận nhận thức,
phải luận chứng cho sự thống nhất của hai loại tiến bộ vật chất và tiến bộ tinh
thần, triết học phải suy ngẫm về con ngƣời thực, cuộc sống thực.
Nhƣ vậy, vấn đề mối quan hệ giữa triết học và văn hóa đã xuất hiện từ
lâu trong lịch sử. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, triết học văn hóa chỉ là sự
biến dạng của triết học lịch sử, có ý kiến cho rằng triết học văn hóa khác biệt

với triết học lịch sử và mới đƣợc hình thành vào đầu thế kỷ XIX; một số khác
thì khẳng định rằng, văn hóa thực sự trở thành một khái niệm khoa học cùng
với sự phát triển của của chủ nghĩa tƣ bản và chỉ trong triết học cổ điển Đức
lần đầu tiên nó mới đƣợc xem xét và nghiên cứu nhƣ một chỉnh thể. Văn hóa
là một hiện tƣợng xã hội độc đáo, đa dạng và phức hợp, vì thế trong việc tìm
kiếm bản chất của văn hóa, tất yếu phải có lý luận về nó, triết học văn hóa ra
đời đáp ứng yêu cầu đó.

15
Triết học Macxit tiếp cận văn hóa bằng việc vận dụng nhận thức duy
vật lịch sử của C.Mác làm cơ sở phƣơng pháp luận của mình, khẳng định văn
hóa là một hiện tƣợng xã hội, để hiểu bản chất của nó thì không có con đƣờng
nào khác là nghiên cứu văn hóa trong chính sự chuyển động và phát triển của
đời sống xã hội.
Nhƣ vậy, trƣớc đây, việc nghiên cứu văn hóa chủ yếu ở trạng thái tĩnh,
xem đời sống xã hội nói chung và văn hóa nói riêng là có sẵn, lý giải đời sống
xã hội chỉ dừng lại ở cấp độ hệ thống, theo lý luận hệ thống. Cách tiếp cận giá
trị học quan tâm đến mối quan hệ giữa giữa bộ phận và hệ thống trên góc độ
giá trị; tiếp cận hoạt động chú trọng cấu trúc và chức năng; tiếp cận nhân cách
lại giải thích mối quan hệ tiền đề và kết quả của hệ thống; tiếp cận ký hiệu
học chỉ lƣu ý đến phƣơng tiện truyền tin của hệ thống văn hóa.
Kết quả tất yếu của phƣơng pháp đó là coi văn hóa chỉ đơn giản là
chính trị, khoa học công nghệ, nghệ thuật, lối sống… Điều đó đã đẻ ra những
con ngƣời méo mó, những con ngƣời thuần chính trị, thuần tôn giáo hay nghệ
thuật, chỉ cần chính trị, đạo đức hay nghệ thuật là giải quyết xong mọi vấn đề
của đời sống con ngƣời. Chỉ trong lý luận biện chứng về xã hội, chúng ta mới
thấy rõ quá trình vận động của văn hóa, mới hiểu bản chất, vai trò của nó
trong đời sống xã hội. Vì vậy, cần phải sử dụng các phƣơng pháp của triết học
để nghiên cứu văn hóa.
Triết học văn hóa ra đời nhằm giải quyết những yêu cầu mang tính cấp

thiết của văn hóa. Sản phẩm của các nhà triết học là đáp ứng yêu cầu của thời
đại, của văn hóa. Để đạt đƣợc một kết quả nhƣ vậy thì cần thiết phải thừa
nhận tính đa dạng và các nền văn hoá khác nhau, và thừa nhận triết học tự nó
là một sản phẩm của văn hoá mà có thể làm lan tỏa và phát triển văn hoá.

16
Hơn nữa, còn có một lý do chính đáng để tin rằng triết học xuất hiện từ
văn hoá; rằng, mối quan hệ giữa triết học và văn hoá không phải là sự vô tình
và ngẫu nhiên. Triết học xuất hiện từ văn hóa. Văn hoá cho thấy cả ý nghĩa của
những câu hỏi mà triết học đƣa ra và tìm kiếm câu trả lời lẫn cả những phƣơng
pháp hoặc cách thức để chúng ta tìm kiếm câu trả lời. Tuy nhiên, do khả năng
có thể vƣợt lên tính đặc thù và tính cục bộ nên triết học có thể tìm cách để đáp
ứng một số mục tiêu của tính hiện đại. Có thể kết luận triết học không chỉ xuất
hiện từ văn hoá, mà còn có thể không bao giờ tách khỏi văn hoá.
Nhƣng trƣớc khi có thể đánh giá luận điểm này một cách toàn thể, chúng
ta cần xem xét vế đầu của nó - triết học xuất phát từ văn hoá có nghĩa là gì và
đâu là cơ sở để khẳng định nhƣ vậy. Ở mức độ trần tục nhất, ngƣời ta có thể nói
rằng triết học xuất hiện từ văn hoá theo nghĩa văn hoá là một phần, hoặc ảnh
hƣởng đến môi trƣờng vật chất là nơi nảy sinh ra những vấn đề triết học. Ví dụ,
văn hoá tạo ra những cơ hội và đặc tính của thời gian nhàn rỗi và nói chung, nó
chỉ có ở những nơi con ngƣời đƣợc giải phóng khỏi các nhu cầu thiết yếu nhằm
duy trì cuộc sống, khi họ có thời gian rỗi để dành cho suy tƣ triết học.
Văn hoá tạo ra những loại vấn đề và những nghi vấn đặc thù để nhà
triết học theo đuổi, chúng ta nhận thấy những truy tầm triết học hƣớng tới các
vấn đề về bản chất con ngƣời, quyền cá nhân, trật tự chính trị và những quan
niệm về cái thiện. Ví dụ, trong thế kỷ XVII – XVIII ở phƣơng Tây – nơi mà
chủ nghĩa cá nhân đang gia tăng, là thời điểm mà khoa học và công nghệ đã
làm cho những hình thức lao động truyền thống trở nên lỗi thời, và khi con
ngƣời không chỉ đơn giản kiếm tìm nhiều nguồn lực hơn, mà còn tìm cách để
mở rộng thị trƣờng. Triết học không phải là tiên đề hoá, và ngƣời ta cũng

không dễ tìm thấy miếng đất vững chắc dƣới chân nó. Chẳng phải vô cớ mà
nhiều nhà thông thái đã nói rằng, triết học - đó là vật không thể đem nhử con

17
chó trong cũi chui ra, và khi đọc tác phẩm triết học thì ngƣời ta có ấn tƣợng là
nhai mãi một cái gì đó nhƣng lại chẳng có gì để nuốt [15. tr.38].
Văn hoá ảnh hƣởng đến chính “ngôn ngữ” dùng để diễn đạt và giải đáp
những vấn đề triết học, đến gì đƣợc coi là câu trả lời thoả đáng. Ví dụ, bằng
việc thiết lập những chuẩn mực lý tính, hoặc thông qua những giá trị đƣợc đề
cao (nhƣ những giá trị cá nhân; lợi ích chung; cái thiện của những cộng đồng,
nhƣ dân tộc, nhà thờ, con ngƣời, sinh quyển), một nền văn hoá có thể cho
chúng ta một “ngôn ngữ” để thiết lập những giới hạn cho những vấn đề triết
học nào có thể đƣợc coi là có ý nghĩa để suy ngẫm.
Cuối cùng, nói rộng hơn, một số ngƣời có thể nói rằng, “triết học xuất
hiện từ văn hoá” theo nghĩa văn hoá cung cấp, hoặc áp đặt bộ khung khái
niệm cho những suy ngẫm (nghiên cứu) triết học. C. Mác đã nói rằng “triết
học là tinh hoa văn hóa của một thời đại, là linh hồn sống động của của văn
hóa” [15.tr.18]
Văn hóa là một lĩnh vực đƣợc nghiên cứu bởi nhiều ngành khoa học
khác nhau, lƣợng kiến thức tích hợp, thu thập kết quả nghiên cứu của một loạt
khoa học chuyên ngành nhân học văn hóa, nhân học xã hội, dân tộc học, xã
hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học, sử học… là vô cùng đồ sộ. Phƣơng pháp
luận nghiên cứu giữ vai trò quan trọng trong nghiên cứu văn hóa. Nhiệm vụ
của nó là giúp các nhà nghiên cứu tìm ra quy luật và bản chất của các đối
tƣợng văn hóa; cho phép đi từ những quy luật chung đến thấu hiểu các hiện
tƣợng văn hóa riêng.
Nhƣ vậy, triết học văn hóa là môn khoa học sử dụng các phƣơng pháp
triết học vào việc nghiên cứu văn hóa để tìm ra quy luật, bản chất, vai trò của
văn hóa trong đời sống xã hội.



18
1.2. Tổng quan về phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lôgic
1.2.1. Tổng quan về phương pháp lịch sử
Trong lịch sử nhận thức khoa học, cả phƣơng pháp lôgic và phƣơng
pháp lịch sử từ lâu đã tồn tại nhƣ những công cụ nhận thức chuyên biệt
truyền thống.
Ở trình độ kinh nghiệm, hai phƣơng pháp này độc lập với nhau xét về
vai trò cũng nhƣ về chức năng. Trong lịch sử nhận thức khoa học, phƣơng
pháp lịch sử luôn giữ vị trí hàng đầu trong các khoa học lịch sử, khảo cổ, phân
loại học… Trong các ngành khoa học nhƣ toán, vật lý, lôgic học… phƣơng
pháp lôgic đƣợc áp dụng nhƣ là phƣơng pháp chủ đạo.
Nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của phương pháp lịch sử:
Bất cứ một sự vật, hiện tƣợng nào khi đã tồn tại đều trải qua một quá
trình lịch sử của sự nảy sinh, hình thành, phát triển và tiêu vong. Quá trình đó
bao gồm các trạng thái, các giai đoạn khác nhau về chất, nảy sinh kế tiếp nhau
theo cách cái nọ kế tiếp cái kia, tạo nên sự phát triển của sự vật từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Thuật ngữ lịch sử trong tiếng Hy Lạp cổ, lúc đầu chỉ những sự kiện
diễn ra trong đời sống tự nhiên và xã hội. Cùng với sự phát triển của nhận
thức nhân loại, phạm trù lịch sử dùng để chỉ mọi quá trình phát triển thực tế,
tức là toàn bộ hiện thực trong sự phát triển của nó với những hình thức biểu
hiện phong phú, đa dạng, cụ thể.
Lịch sử luôn mang tính khách quan nội tại vốn có, độc lập với ý thức,
tƣ tƣởng của con ngƣời. Phát triển là một thuộc tính cơ bản, là khuynh hƣớng
chung của mọi sự vật, hiện tƣợng trong thế giới hiện thực. Do vậy, để nhận
thức đƣợc bản chất của sự vật, cần phải xem xét nó trong sự vận động, sinh
thành, phát triển.

19

Cho đến cuối thế kỷ XVIII, các ngành khoa học chủ yếu vẫn ở trình độ
mô tả, đến nửa đầu thế kỷ XIX, nhiều ngành khoa học đã chuyển thành khoa
học về các quá trình cùng với những mối liên hệ gắn bó không chỉ giữa các
yếu tố trong một quá trình, mà cả giữa những quá trình với nhau. Hàng loạt
ngành khoa học giáp ranh đã xuất hiện. Dƣới con mắt của nhà khoa học, giới
tự nhiên và xã hội hiện ra nhƣ một quá trình trong tính chỉnh thể, toàn vẹn.
Đây là trình độ phát triển tất yếu của nhận thức nhân loại trên cơ sở tích hợp
những tri thức kinh nghiệm cần thiết: trình độ lý luận.
Đó là lý do phƣơng pháp lịch sử đƣợc hình thành. Trên cơ sở tổng kết
và khái quát các tri thức kinh nghiệm, nhận thức lý luận phát hiện ra những
mối liên hệ tất yếu, phổ biến ẩn giấu đằng sau những hiện tƣợng, các sự kiện
riêng biệt của hiện thực. Dựa vào những mối liên hệ khách quan có tính quy
luật, nó tái hiện dƣới dạng hình ảnh tinh thần sự phát triển của khách thể
nghiên cứu.
Mục đích của phƣơng pháp lịch sử là khám phá ra sợi chỉ đỏ xuyên
suốt quá trình lịch sử, liên kết các sự kiện, các mặt dƣờng nhƣ tách biệt thành
một chỉnh thể toàn vẹn, để tái hiện khách thể trong quá trình vận động, phát
triển. Phƣơng pháp lịch sử là phƣơng pháp tái hiện sự vật thông qua những
mối liên hệ lịch sử căn bản, xem xét mỗi vấn đề trên quan điểm sự vật đó xuất
hiện nhƣ thế nào trong lịch sử, đã trải qua những giái đoạn phát triển chủ yếu
nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển để xem hiện nay nó là gì.
Nhiệm vụ của phương pháp lịch sử là hình dung sự vật xuyên qua lăng
kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bƣớc quanh co, những gián đoạn theo
trình tự thời gian. Nét quan trọng nhất của phƣơng pháp lịch sử là sự mô tả sự
kiện – niên đại con đƣờng lịch sử - cụ thể của sự hình thành sự vật, nó phản ánh
sự vật theo trình tự phát sinh nghiêm ngặt. Giá trị của phƣơng pháp này là ở chỗ

20
nhờ nó có thể nắm sự vận động lịch sử phong phú và nhiều vẻ của các hình thái
biểu hiện cụ thể của nó và thông qua nó có thể nắm bản chất khách thể.

Nhƣ vậy, sự kiện đóng vai rất quan trọng trong nhận thức lịch sử. Các
sự kiện với tƣ cách là những mặt, những yếu tố nào đó của hiện thực, đƣợc
con ngƣời thụ cảm và đƣợc nghi nhận dƣới một hình thức nhất định, đóng
một vai trò quan trọng không những đối với nhà nghiên cứu lịch sử, mà còn
đối với tất cả các nhà khoa học. Bởi vì sự kiện là không khí của nhà khoa học.
Chỉ có thể dựa trên sự kiện nhà khoa học mới có thể đi sâu vào bản chất của
khách thể nghiên cứu, khám phá ra những thuộc tính và những mối liên hệ tất
yếu của nó, những quy luật phát triển của nó.
1.2.2. Tổng quan về phương pháp lôgic
Lôgic ngoài triết học: Cũng nhƣ bản thân thế giới, nhận thức của nhân
loại trải qua một quá trình phát triển lịch sử lâu dài. Chỉ đến một trình độ phát
triển nhất định của nhận thức nhân loại, thế giới mới đƣợc quan niệm nhƣ một
hệ thống, ở trong quá trình vận động tiến lên, thông qua những bƣớc
quanh co, thụt lùi.
Phƣơng pháp lôgic xem xét quá trình phát triển của đối tƣợng ở thời
điểm nó đạt đến hình thức kinh điển chín muồi nhất. Có đƣợc khả năng đó là
do khi tái hiện sự vật ở hình thức cao, chín muồi của nó, hình thức này đã bao
hàm những giai đoạn phát triển trƣớc đây dƣới dạng lọc bỏ. Chúng ta nhờ vậy
nhận thức đƣợc cả những mốc lịch sử cơ bản của nó.
1.2.3. Trước phép biện chứng duy vật, phương pháp lôgic và phương
pháp lịch sử tồn tại độc lập tương đối
Nhu cầu kết hợp hai phƣơng pháp lôgic và lịch sử đã xuất hiện từ sớm
trong lịch sử nhận thức. Trong các ngành khoa học thực nghiệm, phƣơng pháp
lịch sử đƣợc sử dụng để mô tả, sƣu tập theo trình tự thời gian các tài liệu thực

21
nghiệm thu đƣợc từ quan sát thí nghiệm. Phƣơng pháp lôgic lại là việc vận
dụng các thủ pháp duy lý (thuật toán, các thao tác lôgic nhƣ quy nạp, diễn
dịch, loại tỷ… ) vào việc xử lý các tài liệu ấy.
Khi còn ở trình độ nhận thức kinh nghiệm, do thói quen xem xét sự vật

theo cách kinh nghiệm chủ nghĩa, hai phƣơng pháp này đƣợc quan niệm tách
biệt, loại trừ nhau. Đối tƣợng của phƣơng pháp lịch sử là những sự kiện đơn
nhất, ngẫu nhiên, bề ngoài… xảy ra theo trình tự thời gian; trái lại, phƣơng
pháp lôgic lại lấy cái phổ biến, tất nhiên, bản chất làm “vƣơng quốc” riêng
của mình, chỉ tuân thủ trình tự lôgic của chính nó.
Khi nhận thức chuyển từ trình độ kinh nghiệm lên trình độ lý luận thì
tình trạng đối lập tuyệt đối giữa hai phƣơng pháp này cũng biến mất. Thay vì
nghiên cứu các sự vật, hiện tƣợng riêng lẻ, biệt lập, nhân loại cũng đặt ra cho
nhận thức lý luận nhiệm vụ nghiên cứu các hệ thống, các quá trình. Khách thể
của nhận thức lý luận là một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa cái bản
chất và hiện tƣợng, cái chung và cái riêng, cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, quy
luật và sự phát triển hiện thực… Do đó trình độ nhận thức không còn chỗ cho
những cái suy diễn, lập luận lôgic hình thức. Một cách tất yếu, không tồn tại
phƣơng pháp lôgic và phƣơng pháp lịch sử dƣới dạng thuần túy, đƣợc sử
dụng hoàn toàn biệt lập trong hoạt động nhận thức khoa học.
Theo đó, phƣơng pháp lôgic đƣợc hiểu là phƣơng pháp lịch sử, chỉ có
điều đã thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên pha trộn. Còn
phƣơng pháp lịch sử là sự ứng dụng của phƣơng pháp lôgic vào những tài liệu
lịch sử cụ thể.
Phải đến khi phép biện chứng ra đời, sự thống nhất của phƣơng pháp
lôgic và lịch sử thực sự mang tính lý luận, hệ thống.

22
1.3. Sự thống nhất của phƣơng pháp lôgic - lịch sử trong phép biện
chứng duy vật
1.3.1. Cái lôgic, cái lịch sử và nguyên tắc thống nhất lôgic - lịch sử
* Quan niệm về cái lôgic
Cái lôgic chính là tƣ tƣởng, tƣ duy. Rô-đen-tan viết: “Lôgic” là hình thức
của nhận thức của sự phản ánh hiện tƣợng, là bản sao của tƣ tƣởng, là bức ảnh
chụp từ hiện thực, là trật tự nhất định của sự vận động tƣ tƣởng tiến đến khách

thể. V.A.Grisenko thì viết: “Lôgic… biểu hiện với tƣ cách là phạm trù triết học
dùng để chỉ tổng số các quy luật của tƣ duy trừu tƣợng mà sự phản ánh phù
hợp thế giới diễn ra theo quy luật ấy, là tổng số các quy luật mà theo đó kết cấu
của thế giới vật chất đƣợc thể hiện trong kết cấu của tƣ tƣởng” [34.tr.15].
Khía cạch hợp lý của tất cả những định nghĩa trên về cái lôgic là thừa
nhận nó phản ánh sự vật khách quan. Nhƣng sẽ không đúng nếu đồng nhất
lôgic với tƣ duy, tƣ tƣởng hoặc với nhận thức nói chung. Nếu “lịch sử” đƣợc
hiểu là sự vận động của sự vật thực tế, còn “lôgic” là sự phản ánh sự vận động
và phát triển của sự vật trong ý thức con ngƣời, khi đó vấn đề tƣơng quan của
lôgic và lịch sử sẽ giản đơn chỉ là tên gọi khác của vấn đề cơ bản của triết
học - vấn đề quan hệ của tƣ duy và tồn tại.
Cái lôgic không chỉ tồn tại trong lĩnh vực tinh thần mà ngay cả trong
lịch sử hiện thực khách quan. Đây là khuynh hƣớng khách quan hóa cái lôgic,
tiêu biểu của một số tác giả nhƣ E.V.Iliencov, V.A.Grisenko… Theo họ, bản
thân sự phát triển hiện thực của khách thể đã hàm chứa cái lôgic nội tại của nó
và cái lôgic này mang một ý nghĩa hoàn toàn khách quan. Quan điểm trên đây
có những mặt hạn chế nhất định. Mặc dù kế thừa từ quan điểm của Lênin về
lôgic khách quan nhƣng lôgic khách quan của Lê nin là chỉ các tính quy luật,
tính tất yếu trong sự vận động và phát triển của các sự vật hiện tƣợng của thế

23
giới khách quan. Và tính tất yếu này không thể đồng nhất với tính tất yếu
trong sự phát triển của tƣ duy, mặc dù xét đến cùng, lôgic ấy phải là sự phản
ánh đúng các quy luật khách quan của thế giới vật chất, nhƣng cái phản ánh
và cái đƣợc phán ánh là khác nhau về cơ bản.
Vậy cái lôgic là gì? Cái lôgic là một phạm trù của lôgic biện chứng
dùng để chỉ tính tất yếu trong sự phát triển của tƣ duy lý luận khi tái hiện
khách thể trong sự phát triển lịch sử của nó. Cái lôgic thể hiện thành các mối
liên hệ tất yếu liên kết các phạm trù (khái niệm) theo một trình tự phát triển
xác định từ trừu tƣợng đến cụ thể, phù hợp với quy luật phát triển khách quan

của hiện thực đƣợc nó phản ánh (cái lịch sử). Lôgic là sự biểu hiện khái quát,
trừu tƣợng trong tƣ duy các khách thể của thế giới bên ngoài, các thuộc tính
và quan hệ của chúng dƣới hình thức hệ thống khái niệm, phạm trù và quy
luật của khoa học. Lênin nhận xét rằng “Những quy luật của lôgic là phản ánh
cái khách quan vào trong ý thức chủ quan của con ngƣời”, rằng “những hình
thức lôgic và những quy luật lôgic không phải là một cái vỏ trống rỗng, mà là
phản ánh của thế giới khách quan” [34. tr.42].
Cái lôgic phản ánh thế giới khách quan thông qua hệ thống những khái
niệm. Những khái niệm, phạm trù lôgic có tính biện chứng; chúng nằm trong
sự liên hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau, trong sự đồng nhất
các mặt đối lập. Thông qua hoạt động của các quy luật lôgic, ý thức con ngƣời
có khả năng khám phá ra bản chất nội tại của các sự vật, giải phóng nó khỏi
những ngẫu nhiên và những cái thứ yếu, nắm tính nhiều vẻ của các hiện tƣợng
của hiện thực dƣới dạng cô đọng. Do đó theo Ăngghen, cái lôgic đó là cái lịch
sử nhƣng đã đƣợc trừu tƣợng hoá, tức đƣợc rút ra, đƣợc làm sạch khỏi cái
ngẫu nhiên, đƣợc gải phóng khỏi những quanh co của lịch sử thực tế, tức là sự
phản ánh đã đƣợc sửa chữa, đƣợc thoát khỏi những hình thức lịch sử và

×