Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

“Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng đào tạo ở trường đại học nông lâm thái nguyên hiện nay”,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 108 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt
xuất, đồng thời cũng là nhà giáo dục lớn. Người đã đặt nền móng cho nền giáo
dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục toàn dân, toàn diện, khoa học và
hiện đại. Tư tưởng của Người về giáo dục, là một kho tàng những giá trị nhân
văn cao cả, tư tưởng đó khơng chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối
với sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà cịn có ý nghĩa thiết thực trong sự
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, phục vụ cho quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy, nhà giáo dục vĩ đại đã hình thành
một hệ thống quan điểm giáo dục hiện đại, đặc sắc cho dân tộc ta. Người đã
dành phần lớn cuộc đời mình cho sự nghiệp “trồng người”. Người đã cổ vũ và
tổ chức sự nghiệp khai sáng vĩ đại cho toàn dân tộc Việt Nam, giải phóng
nhân dân ta thốt khỏi vịng nơ lệ, làm cho mọi người Việt Nam ai cũng được
học hành, từng bước nâng cao trình độ văn hố của cả một dân tộc, tạo điều
kiện để dân tộc ta phát huy mọi năng lực và sức mạnh của mình, tạo một lối
sống văn hố mới, góp phần to lớn vào việc đào tạo cho dân tộc Việt Nam
những người con ưu tú, đủ đức đủ tài đưa đất nước vượt qua mn vàn khó
khăn, thử thách để giành những thắng lợi to lớn, làm thay đổi địa vị dân tộc
trên trường quốc tế.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nêu quan điểm: thực sự coi giáo dục – đào tạo là
quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục – đào tạo cùng với khoa học và
công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư


2



cho giáo dục – đào tạo là đầu tư phát triển. Phát triển giáo dục – đào tạo gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học – cơng nghệ và củng
cố quốc phịng, an ninh.
Đại hội X (4/2006) đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế
hệ trẻ tinh thần u nước, lịng tự tơn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lịng
nhân ái, ý thức tơn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp,
không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm
chủ năng lực nghề nghiệp, có ý vươn lên về khoa học – cơng nghệ.
Đại hội XI (1/2011) đề ra quan điểm: Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc
tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo, coi giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương
pháp dạy và học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã, đang và sẽ cho chúng ta những chỉ
dẫn quý báu, sáng suốt để xây dựng thành công chiến lược con người trong điều
kiện mới, nhằm đào tạo cho đất nước những con người mới có đủ tài năng, đạo
đức, sức khoẻ, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó khơng chỉ là
cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường
lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách
mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức
sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm cơng tác giáo dục nói riêng,
ngành giáo dục nói chung hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu, làm sáng tỏ giá trị khoa
học và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, tìm ra những cách thức,
biện pháp đúng đắn để thực hiện tốt hơn tư tưởng đó trong thực tiễn là vấn đề có
ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.



3

Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên với lịch sử hơn 40 năm xây
dựng và trưởng thành, nhà trường đã trải qua nhiều khó khăn để đạt được
những thành tựu trong sự nhiệp “trồng người”. Q trình đó, mặc dù có nhiều
khó khăn và biến động trong các giai đoạn lịch sử nhưng nhà trường luôn
quan tâm tới mục tiêu, chất lượng giáo dục và đào tạo. Quy mô giáo dục và
chất lượng đào tạo của nhà trường ngày càng phát triển. Tuy nhiên, hiện nay
mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động đến một bộ phận giảng viên và
sinh viên, mặt khác một số hạn chế của nội dung chương trình, phương pháp
giáo dục đã ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của nhà trường. Vì vậy, việc
điều tra thực trạng và đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của
nhà trường là vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu.
Từ những lý do trên đây, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài:
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng
đào tạo ở trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên hiện nay”, là một việc
cần thiết và có ý nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Những cơng trình nghiên cứu về giáo dục nói chung
Con người được vũ trang bằng những tri thức hiện đại sẽ là động lực cơ
bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy giáo dục, đào tạo giữ vai trò cốt
tử đối với mỗi quốc gia, phát triển giáo dục phải được coi là quốc sách hàng
đầu. Đây là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm vì nó quyết định sự
đi lên và phát triển của đất nước. Chính vì vậy, mà có rất nhiều tác giả quan
tâm, nghiên cứu và viết về vấn đề này. Trong đó, tiêu biểu là các cơng trình
nghiên cứu dưới đây:
- GS.Phạm Minh Hạc: “Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI”, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn sách tập trung trình bày xu thế phát
triển giáo dục trên thế giới, giới thiệu một số nét đặc trưng về cải cách giáo



4

dục, kinh nghiệm quản lý giáo dục, nguồn kinh phí dành cho giáo dục của một
số nước trên thế giới...Đặc biệt cuốn sách còn đi sâu giới thiệu nền giáo dục
của một số nước như Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Malaixia, Inđơnêxia...
- GS. Nguyễn Cảnh Tồn: “Bàn về giáo dục Việt Nam”, Nxb Lao động,
Hà Nội, 2002. Đây là cuốn sách tuyển chọn những bài viết của tác giả về
nhiều vấn đề giáo dục của Việt Nam. Những bài viết sâu sắc, triết lý, của một
người tâm huyết với nền giáo dục nước nhà, am hiểu về nền giáo dục. Ơng đã
viết một số quan điểm của mình, ơng quan niệm “...Tư duy và nhân cách quan
trọng hơn kiến thức... Người thầy dở là người chỉ đem kiến thức cho học trò,
người thầy giỏi là người biết đem đến cho họ cách tự tìm ra kiến thức...”
- Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục dạy nghề, Viện nghiên cứu
phát triển phương Đơng : “Đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo
Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012. Cuốn sách tập hợp bài
viết, bài nói của các đồng chí lãnh đạo, ngun lãnh đạo các cơ quan Đảng và
Nhà nước, các cơ quan trung ương và địa phương, của các nhà quản lý, các
nhà khoa học nhằm góp phần vào sự thành cơng của cơng cuộc đổi mới căn
bản, tồn diện nền giáo dục Việt Nam.
- PGS.TS. Trần Quốc Toản (Chủ biên): “Phát triển giáo dục trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2012. Nội dung cuốn sách tập trung nghiên cứu và làm rõ bản chất của giáo
dục, hoạt động giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế; luận giải cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn sự tác động của kinh tế thị
trường đối với sự phát triển giáo dục - đào tạo; phân tích kinh nghiệm quốc tế
về phát triển giáo dục - đào tạo trong các nền kinh tế thị trường khác nhau
(kinh tế thị trường tự do: Mỹ, Úc, Anh; kinh tế thị trường xã hội: Đức, Phần
Lan, Thuỵ Điển; kinh tế thị trường của một số nước châu Á: Nhật Bản, Trung
Quốc, Xinhgapo…); với số liệu phong phú, đa dạng có được qua khảo sát và



5

nghiên cứu điển hình trên diện rộng tới 120 cơ sở với đủ loại hình trong cả
nước, cuốn sách phác hoạ lên bức tranh về hiện trạng phát triển giáo dục - đào
tạo và quản lý phát triển giáo dục - đào tạo của Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở
đó, cuốn sách đề xuất hệ thống đồng bộ các định hướng nội dung và giải pháp
đổi mới và phát triển giáo dục - đào tạo; đổi mới nhận thức - tư duy, cơ chế
quản lý nhà nước, cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục - đào tạo, nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục,... ở nước ta trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Cuốn sách gồm các phần:
+ Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận về phát triển giáo dục trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế;
+ Phần thứ hai: Phát triển giáo dục trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế của một số nước trên thế giới;
+ Phần thứ ba: Thực tiễn phát triển giáo dục Việt Nam trong quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế;
+ Phần thứ tư: Phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
2.2. Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Tiêu biểu có những cơng trình sau:
- TS. Đồn Nam Đàn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên”,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn sách trình bày những vấn đề về
nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên,
việc vận dụng tư tưởng giáo dục thanh niên của Người trong điều kiện hiện nay
và những biện pháp nhằm phát triển toàn diện, phát huy năng lực của thanh
niên phục vụ hiệu quả sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
- TS. Vũ Văn Gầu - TS. Nguyễn Anh Quốc: “Tư tưởng Hồ Chí Minh

với sự nghiệp phát triển giáo dục”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.


6

Tác giả đã đưa ra nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục khá đầy đủ từ
nguồn gốc tới nội dung tư tưởng bao gồm: vai trò và mục đích của giáo dục,
nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và đặc điểm giáo dục. Và cuối cùng
là tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục hiện nay.
- Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: “Hồ Chí Minh về giáo dục
và đào tạo”, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2007. Sách gồm 3 phần: phần thứ
nhất, tập hợp những cơng trình của các nhà nghiên cứu khoa học về tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục – đào tạo. Phần thứ hai: cung cấp một cách đầy đủ và hệ
thống tư liệu quý gồm những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng
tác giáo dục – đào tạo. Phần thứ ba: giới thiệu những bài nói, bài viết của các nhà
lãnh đạo Đảng, Nhà nước và một số nhà khoa học nước ta trong nghiên cứu, học
tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo.
- PGS.TS. Nguyễn Thị Nga (chủ biên): “Phát triển nền giáo dục Việt
Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI theo tư tưởng Hồ Chí Minh”,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012. Cuốn sách đã phân tích khái quát tư
tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục trên những khía cạnh như mục
tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục để trên cơ sở đó khẳng định tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục không chỉ là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho
chiến lược phát triển con người, phát triển giáo dục ở Việt Nam trong suốt
mấy chục năm qua, mà còn định hướng cơ bản đối với việc đổi mới, chấn
hưng phát triển nền giáo dục Việt Nam trong thời gian tới.
- TS. Hoàng Anh (chủ biên): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và
vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2013. Nội dung cuốn sách trình bày nguồn gốc, quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời

hoạt động cách mạng của Người cũng như đất nước. Cuốn sách phân tích
tương đối tồn diện, có hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục


7

và nêu bật tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục vào nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay. Từ việc phân tích một
số vấn đề trong cơng tác đào tạo đại học hiện nay như chất lượng sinh viên,
đội ngũ giảng viên, nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục vào nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay.
Trong những năm gần đây, có rất nhiều nhà khoa học, nhà báo, các nhà
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đã rất quan tâm đến nền giáo dục của nước
nhà, đặc biệt là chất lượng giáo dục. Từ đó đã có những bài viết khai thác sâu
hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, có thể kể đến một số bài viết sau:
+ Đinh Xuân Lâm (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, Tạp
chí Thơng tin khoa học xã hội, (8).
+ Bùi Đình Phong (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục
cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (11).
+ Hồng Trang (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – những
nội dung cơ bản”, Tạp chí Giáo dục, (114).
+ TS. Hồng Anh (2005), “Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy các mơn khoa
học Mác – Lênin hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (2).
+TS. Hoàng Anh (2007), “Đổi mới phương pháp giáo dục các môn
khoa học Mác – Lênin trong trường đại học hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính
trị và truyền thơng, (7).
+ TS. Hồng Anh (2008), “Vận dụng phương pháp giáo dục Hồ Chí
Minh vào đổi mới phương pháp giáo dục đại học hiện nay”, Tạp chí Lý luận

chính trị và truyền thống, (5).
+ Phạm Minh Hạc (2011), “Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Cộng sản, (828).


8

Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
cho đến nay rất phong phú với nhiều góc tiếp cận khác nhau. Các tác giả đã bước
đầu nghiên cứu, tập hợp được nhiều bài viết, bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về giáo dục cũng như đưa ra được nhiều nội dung tư tưởng của Người về
vai trị, mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục. Song, theo khảo cứu của
tác giả, đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ
thống về việc “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao
chất lượng đào tạo ở trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: góp phần làm rõ hơn những quan điểm của Hồ Chí
Minh về giáo dục là cơ sở lý luận vận dụng vào việc nâng cao chất lượng đào tạo
ở trường Đại học Nông LâmThái Nguyên hiện nay.
Để có thể đạt được mục tiêu, cần phải hồn thành những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Làm rõ các khái niệm cơ bản: giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
- Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
- Phân tích thực trạng đào tạo ở trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đạo tạo ở Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục: Đề tài làm rõ khái niệm, mục

đích, nhiệm vụ, nội dung, nguyên tắc và phương pháp giáo dục theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
- Thực trạng đào tạo ở trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên hiện nay
(khảo sát từ năm 2008 đến năm 2013).


9

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài tác giả tập trung khảo sát, tìm hiểu các tác phẩm,
bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục; các văn kiện của
Đảng; các bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước và
các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài tư tưởng giáo dục Hồ Chí
Minh. Từ đó rút ra tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, làm cơ sở cho sự vận
dụng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên hiện nay (khảo sát từ năm 2008 đến năm 2013).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối giáo dục của
Đảng Cộng sản Việt Nam và quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
• Luận văn sử dụng hương pháp luận: Vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin: lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
• Phương pháp nghiên cứu cụ thể: lơgíc – lịch sử, phân tích - tổng hợp,
so sánh, thống kê, điều tra xã hội học...
6. Đóng góp khoa học của đề tài
- Hệ thống hóa những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục.
- Phân tích và đánh giá thực trạng đào tạo ở trường Đại học Nông Lâm

Thái Nguyên hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận


10

- Trên cơ sở nghiên cứu những bài nói và bài viết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về giáo dục, đề tài góp phần khẳng định tính tồn diện, sâu sắc của tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
- Chỉ rõ sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài cung cấp những luận cứ khoa học trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện các chương trình đào tạo và chương trình hành động cho phù hợp với
yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả đào tạo ở Đại học Nông Lâm Thái Nguyên trong thời gian tới.
Ngồi ra luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và
giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu gồm: 2 chương và 6 tiết.


11

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀ SỰ CẦN

THIẾT VẬN DỤNG VÀO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO Ở
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
1.1.

Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb. Đà Nẵng, 2005), thuật ngữ giáo dục được

định nghĩa là q trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi
dưỡng cho người ta những phẩm chất đạo đức, những tri thức cần thiết về tự
nhiên và xã hội, cũng như những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết trong đời sống.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nảy sinh và tồn tại mãi mãi
cùng với xã hội loài người, là quá trình người giáo dục truyền đạt cho người
được giáo dục những kinh nghiệm lịch sử - xã hội, giá trị văn hóa và người
được giáo dục lĩnh hội những kinh nghiệm đó để tham gia vào xã hội và lao
động sản xuất. Với cách hiểu này, khái niệm “giáo dục” được hiểu theo hai
nghĩa: “Nghĩa rộng, giáo dục là bao gồm tất cả những quá trình tác động có
mục đích, có kế hoạch của mơi trường tự nhiên và mơi trường xã hội (như nhà
trường, gia đình, đồn thể, cơ quan văn hóa giáo dục…), nhằm hình thành các
sức mạnh thể chất, sức mạnh tinh thần, thế giới quan, bộ mặt giáo dục và
thẩm mỹ của con người”[28, tr.9]. Như vậy, giáo dục theo nghĩa rộng bao
gồm q trình tác động có mục đích, có kế hoạch của môi trường tự nhiên,
của nhiều yếu tố giáo dục, nhằm chuẩn bị cho người học có đủ điều kiện tham
gia vào đời sống xã hội; “Nghĩa hẹp, giáo dục là một q trình tác động có
mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành ở người học những quan điểm, niềm
tin, những phẩm chất, hành vi đạo đức, đồng thời bồi dưỡng tình cảm, năng
lực thẩm mỹ và năng lực rèn luyện thể chất”[28, tr.9].
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội có mục đích, có tổ chức, có
kế hoạch, có kiểm tra đánh giá và được sự tham gia của cộng đồng. Nhằm



12

truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài
người…dẫn con người vượt ra khỏi hiện tại của họ mà vươn tới những gì tốt
lành hơn, hạnh phúc hơn.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục ln có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực.
Theo GS. Song Thành “tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một vấn
đề rộng lớn, bao quát các vấn đề từ mục tiêu, nguyên lý, phương châm giáo
dục; nội dung, phương thức, phương pháp giáo dục cho đến tổ chức, quản lý,
xây dựng đội ngũ, chủ trương, chính sách đối với giáo dục - đào tạo được
Người quan tâm cũng rất rộng: từ mẫu giáo, vỡ lòng, phổ thông, chuyên
nghiệp, đại học cho đến người lớn tuổi, người già”[48, tr.642].
Cũng như các vấn đề khác của cách mạng Việt Nam, giáo dục cũng là
một đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân chủ nhân dân tiến
lên giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng về vai trị, vị trí, mục tiêu, nhiệm
vụ, nội dung, phương pháp giáo dục...”[1, tr.73-74]
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh khơng bó hẹp trong việc giáo dục tri
thức, học vấn cho con người, mà có tính bao qt, sâu xa, nhưng vơ cùng sinh
động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người tồn diện, vừa “hồng” vừa
“chun”, có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ...
Những tư tưởng giáo dục lớn lao và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
từ lâu là nền tảng, là phương hướng của chiến lược trồng người, chiến lược
phát triển giáo dục ở nước ta trong hơn nửa thế kỷ qua và đã giành được



13

những thắng lợi cực kỳ to lớn. Và trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình thế
giới có nhiều phức tạp, q trình tồn cầu hố, nguy cơ tụt hậu kinh tế... thì nó
càng có ý nghĩa to lớn, vì giáo dục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu đào
tạo ra những con người có trí tuệ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước
ngày càng phát triển.
1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
1.2.1. Vai trị của giáo dục
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục xuất phát từ mục đích cao cả của
sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi, thể hiện nhất quán và xuyên suốt
trong tư tưởng, trong cuộc đời hoạt động của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln coi con người là vốn q nhất, là nhân tố quyết định của sự nghiệp cách
mạng. Chính vì vậy mà tồn bộ tư tưởng và cuộc đời hoạt động của Người
đều nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, vì con người và cho con người. Người
từng nói: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[43, tr.627]. Theo Hồ Chí Minh, việc
học dẫn con người đến với hiểu biết, đến với cái thiện, học sẽ mở mang trí tuệ
của con người cũng như hiểu biết của cả dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố con người với những yếu tố như
hiểu biết, năng lực, đạo đức là yếu tố then chốt, có tính chất quyết định đối
với thành cơng của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ của dân tộc và hạnh
phúc của nhân dân. Con người là vốn quý nhất, thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng, sự hưng thịnh và tồn vong của một quốc gia đều phụ thuộc vào con
người, vào sự nghiệp “trồng người” trong đó giáo dục giữ vai trị chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trị vơ cùng quan trọng đối với việc
xây dựng con người phát triển toàn diện, cải tạo con người và định hướng phát



14

triển con người thành người có ích. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến công tác
đào tạo con người mới thơng qua giáo dục bằng các hình thức, tổ chức, đoàn
kết, huấn luyện rồi đưa họ ra đấu tranh giành độc lập, tự do. Chỉ có nền giáo
dục cách mạng mới có thể giáo dục, bồi dưỡng và đào tạo những con người có
ý thức cách mạng. Lớp người này thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước trên một
tầm cao mới, thống nhất tinh thần dân tộc với lòng yêu thương những con
người cùng khổ, thống nhất chủ nghĩa yêu nước truyền thống với chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh gọi đó là những con người mới xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục khơng chỉ có vai trị truyền bá kiến thức, nâng cao trình độ
văn hóa mà giáo dục cịn tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển nhân
cách con người. Trong bài thơ “Dạ bán” của tập Nhật ký trong tù, Người viết:
“Thiện, ác nguyên lai vơ định tính
Đa do giáo dục đích ngun nhân”
Nghĩa là: Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên [31, tr.413]
Tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh đã khắc phục những hạn chế
của các nhà triết học Trung Quốc cổ đại, khi xem bản chất con người do tính
bẩm sinh thiên phú hoặc vốn có những tố chất ác hay thiện. Hồ Chí Minh cho
rằng bản chất con người là sản phẩm của hoạt động giáo dục. Đó là sự kế thừa
truyền thống dân tộc về triết lý sống, về tác dụng, ảnh hưởng của giáo dục đối
với nhân cách con người; “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” nhưng khi được
giáo dục thì “gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bùn”.
Hồ Chí Minh khẳng định vai trị của giáo dục trong việc cải tạo, phát
triển con người, làm biến đổi con người cũ, xây dựng con người mới. Giáo
dục quyết định đến sự biến đổi tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình độ nhận
thức của con người. Giáo dục trở thành điều kiện, tiền đề cho việc hình thành

và phát triển bản chất con người. Người nói: “Ĩc của những người tuổi trẻ


15

trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì
nó sẽ đỏ”[33, tr.120]. Dưới chế độ thực dân, người Việt Nam chịu ảnh hưởng
bởi chính sách làm cho “ngu dân dễ trị” của thực dân Pháp. Hồ Chí Minh đã
dùng ngịi bút với lời lẽ sắc bén để làm sáng tỏ bản chất cái gọi là “khai hóa
văn minh” của thực dân Pháp. Chế độ mới ra đời, Hồ Chí Minh đề cao vai trò
của giáo dục trong việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tri thức, lý tưởng,
đạo đức, sức khỏe , thẩm mỹ…
Giáo dục không phải là nhân tố tác động trực tiếp vào lĩnh vực kinh tế,
văn hoá, xã hội nhưng với ý nghĩa lớn lao trong cơng việc đào tạo con người,
giáo dục có vai trị tác động một cách gián tiếp vào các hoạt động kinh tế,
văn hóa và quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “vơ luận việc gì, đều do
người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”[33, tr.120]. Cho
nên, “kinh tế có kế hoạch, giáo dục cũng phải có kế hoạch”[38, tr.290]. Chiến
lược phát triển giáo dục phải gắn với hoạch định chính sách phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế và
tiến bộ xã hội. Khi điều kiện vật chất được nâng cao tất yếu sẽ tạo ra cơ sở
cho nền giáo dục phát triển. Vì “kinh tế khơng phát triển thì giáo dục cũng
không phát triển được. Giáo dục không phát triển thì khơng đủ cán bộ giúp
cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau”[38, tr.290].
Để đạt được những mục tiêu của chính sách kinh tế - xã hội, theo Hồ Chí
Minh, trước hết phải tạo ra những con người có đủ năng lực, phẩm chất làm
chủ xã hội và làm chủ bản thân.
Giáo dục góp phần đắc lực vào cơng cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước
và đưa Việt Nam bước lên đài vinh quang. Giáo dục được coi là một mặt trận
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Giáo dục có vai trị nâng

cao trình độ nhận thức về đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, giáo


16

dục phải gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân, văn hóa giáo dục
phải phát triển mạnh để phục vụ yêu cầu cách mạng. Vì theo Hồ Chí Minh:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”[32, tr.7].
Giáo dục khơng chỉ có ý nghĩa đối với việc xóa bỏ những tàn dư của lối
sống, cách suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu của nền giáo dục thực dân phong kiến mà
cịn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong việc xây dựng nền giáo dục mới nhằm
đào tạo những con người toàn diện phục vụ sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Người kêu gọi: “Quốc dân Việt Nam! Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm
cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam…phải có kiến thức mới, để có
thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết
viết chữ quốc ngữ”[32, tr.40].
Giáo dục có vai trị to lớn như vậy vì nó tạo ra cho các dân tộc đội ngũ
đơng đảo những chuyên gia, nhà bác học,… trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, mà nhờ họ mới có thể tiếp thu sáng tạo công nghệ mới, kỹ thuật hiện đại,
tạo ra những ngun liệu khơng có sẵn trong tự nhiên và hình thức quản lý
mới đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa, giáo dục cịn góp phần nâng cao
trình độ học vấn, năng lực nhận thức thực tiễn của người lao động – lực lượng
quyết định trực tiếp đến sự phát triển của lịch sử.
1.2.2. Mục đích của giáo dục
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh quan
tâm đặc biệt tới giáo dục với mục đích đào tạo thế hệ trẻ thành lớp người thừa
kế sự nghiệp cách mạng vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX Hồ Chí Minh đã bỏ nhiều cơng sức
phân tích, nghiên cứu nền giáo dục phong kiến, thực dân và từng bước kiến tạo
nền giáo dục cho nước Việt Nam mới. Người cho rằng nền giáo dục phong

kiến là một nền giáo dục kinh viện, xa rời thực tế, không quan tâm tới thực
nghiệm, coi kinh sách thánh hiền là đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Kết quả của


17

nền giáo dục ấy là đào tạo ra những người quân tử, những kẻ sĩ, bậc trượng phu
hoàn toàn xa lạ với những người bình dân, những người lao động. Trong nền
giáo dục phong kiến phụ nữ bị tước quyền được đi học. Tính chất phản động
của nền giáo dục ấy là kìm hãm hơn một nửa nhân loại trong vịng ngu dốt.
Chính điều đó đã tạo nên sự trì trệ cản bước phát triển của xã hội.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, với chính sách “ngu dân dễ trị”,
chúng đã dùng giáo dục nô lệ đồi bại và xảo trá để nhồi sọ thanh niên ta, đầu
độc dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện, làm cho nhân dân ta hư hỏng.
Trường học thiếu một cách nghiêm trọng, có chăng chỉ nhằm mục đích “đào
tạo nên những trí thức nơ lệ để hầu hạ chúng”. Trong tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp”, Hồ Chí Minh đã tố cáo đanh thép tội ác của chế độ thực
dân gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát,
vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng, mất tính nết của người đi học.
Nền “Giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dịng giống
mình”[29, tr.424], dạy cho thanh niên yêu Tổ quốc không phải là Tổ quốc của
mình và đang áp bức mình.
Cách mạng tháng Tám thành công, xã hội mới ra đời – xã hội do nhân
dân lao động làm chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chế độ khác nhau thì
giáo dục cũng khác, “dân tộc được giải phóng, giáo dục được giải phóng thì
giáo dục bây giờ cũng phải khác giáo dục phong kiến”[38, tr.344]. “Về mọi
mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong
kiến”[38, tr.185]. Người chủ trương xây dựng một nền giáo dục hướng vào
các giá trị dân tộc, mang tính hiện đại, thể hiện tính nhân văn cao cả, một nền
giáo dục phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Nền giáo dục mà Hồ Chí Minh dày cơng vun đắp và xây dựng là nhằm
đào tạo nên những con người “hoàn toàn” – những con người vừa hồng, vừa
chuyên để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, phục vụ Tổ quốc và nhân
loại. Trong thư gửi thầy giáo, học sinh, cán bộ, thanh niên và nhi đồng (1955),
Hồ Chí Minh viết: “Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân


18

chủ nhân dân, mục đích đào tạo những người cơng dân, cán bộ tốt, những
người chủ tương lai tốt của nước nhà”[38, tr.185].
Mục đích xuyên suốt trong triết lý giáo dục con người ở Hồ Chí Minh
ln gắn liền với mục đích cao cả của Người trong hoạt động thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đó là một nền giáo dục mới vì con người và cho con người;
vì ấm no, tự do, và hạnh phúc của nhân dân; vì cuộc sống được làm chủ bản
thân và làm chủ xã hội.
Tư tưởng sâu sắc trong triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh ở chỗ khơng
chỉ là giải phóng con người khỏi áp bức bất cơng trong xã hội mà cịn nâng
giá trị con người về mặt văn hóa và nhận thức. Để làm được điều đó thì phải
xây dựng cho được chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Muốn
có con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh khơng có con đường nào
khác ngoài con đường giáo dục.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục đích của giáo dục có ý nghĩa lớn lao
trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, góp phần quan trọng quyết định
thắng lợi của cách mạng tháng Tám đến việc hồn thành cơng cuộc kháng
chiến kiến quốc và góp phần đắc lực trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
1.2.3. Nhiệm vụ của giáo dục
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục ln gắn với thực tiễn cách mạng

Việt Nam. Theo Người, giáo dục phải luôn luôn gắn liền với yêu cầu của cuộc
sống và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng. Mỗi thời kỳ lịch sử có một
nhiệm vụ khác nhau, giáo dục cũng vì thế mà thay đổi sao cho phù hợp với
yêu cầu của thời kỳ ấy.
Trong thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh tập trung vào
việc triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu – Trung Quốc nhằm nâng
cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt nam và cách
mạng thế giới. Người nêu khẩu hiệu “thực hành giáo dục toàn dân”[31, tr.22].
Tức là phải tiến hành phổ cập giáo dục, cực lực lên án chủ trương giáo dục


19

của thực dân Pháp đối với người Việt Nam, đấu tranh hủy bỏ nền giáo dục nô
lệ và thuộc địa, xây dựng nền giáo dục quốc dân; hết thảy con cái người lao
động được học bằng tiếng mẹ đẻ, được học nghề cho đến 16 tuổi.
Từ 1926 đến 1935, Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã
mở nhiều lớp học chữ quốc ngữ cho nhân dân lao động và thanh niên. Trong
cao trào cách mạng 1930-1931, công cuộc chống nạn thất học được đẩy
mạnh. Năm 1938, hội truyền bá chữ quốc ngữ được thành lập, thu hút hàng
vạn người đi học, kết hợp việc học chữ và phát triển phong trào cách mạng.
Năm 1945, Việt Nam có hơn 95% số dân mù chữ, trong đó tỉ lệ phụ nữ
và người dân thiểu số mù chữ chiếm số lượng lớn. Việc mở trường của thực
dân Pháp nhằm thực hiện chính sách giáo dục nơ dịch và đồng hóa, thực chất
là chính sách ngu dân đã làm cho dân tộc ta chìm đắm trong vịng trì trệ ngu
muội, nền giáo dục của ta đã lạc hậu còn lạc hậu hơn.
Cùng với thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Tám, Người đã khai
sinh ra nền giáo dục mới, tiến bộ, dân tộc, nhân dân, khoa học, dân chủ và đại
chúng, đặt cơ sở cho nền quốc học nhân dân của nước ta - nền giáo dục Việt
Nam hiện đại. Trong hồn cảnh cực kỳ khó khăn của buổi đầu mới giành

được độc lập, kinh tế kiệt quệ, thiên tai, nạn đói hồn hành, thù trong giặc
ngồi ra sức chống phá để tiêu diệt cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi
toàn dân ra sức thực hiện ba nhiệm vụ vơ cùng trọng đại và cấp bách là diệt
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Người cho rằng: “nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân chúng ta… phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên
một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với
nước Việt Nam độc lập”[32, tr.7].
Để làm được điều đó, Hồ Chí Minh nêu rõ nhiệm vụ của giáo dục:
Thứ nhất, phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nơ dịch của thực
dân cịn sót lại. Đó là thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và


20

đấu tranh của nhân dân; phải làm cho mọi người dân Việt Nam hiểu biết
quyền lợi của mình, bổn phận của mình, có kiến thức để tham gia vào cơng
cuộc xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới; làm cho “Mỗi người dân
Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái, bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần phải
trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn
hóa”[33, tr.556].
Thứ hai, giáo dục tập trung xây dựng nền văn hóa phục vụ cho mục
tiêu lớn là kháng chiến và kiến quốc. Giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây
dựng nền dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi chuyển hướng giáo dục cho
phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Năm 1947 cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân mới bắt đầu, cuộc kháng chiến đang ở giai đoạn cực
kỳ ác liệt. Nhà trường cần được cải cách cho phù hợp với yêu cầu và hoàn
cảnh chiến tranh. Người yêu cầu phải sửa đổi triệt để nội dung chương trình,
sách giáo khoa cho phù hợp. Những bài phát biểu của chủ tịch Hồ Chí Minh,
về giáo dục đã là những chỉ thị có tính chất định hướng cho cuộc cải cách
giáo dục lần thứ nhất (1950). Cuộc cải cách lần này đã có những quyết sách

rất quan trọng làm cho hệ thống giáo dục quốc dân có khả năng chuẩn bị tốt
nguồn nhân lực cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc lâu dài.
Thời kỳ này, việc dạy học trong điều kiện chiến tranh vô cùng gian
khổ, thời gian học bị rút ngắn, nhưng chất lượng học lại tốt, đào tạo được
những học sinh trung thành với tổ quốc, những cán bộ cốt cán trong bộ máy
nhà nước và quân đội.
Thứ ba, giáo dục tập trung vào việc đào tạo con người mới, trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm vụ của giáo dục là phải “phát triển
mạnh để phục vụ yêu cầu của cách mạng. Văn hóa giáo dục là một mặt trận
quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu


21

tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ của giáo dục là góp phần đào
tạo con người mới – con người tồn diện có tinh thần u nước, u chỉ nghĩa
xã hội, có trình đọ văn hóa, khoa học, kỹ thuật, có ý thức và năng lực làm chủ.
Để đạt được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiệm vụ cụ thể của
từng cấp học:
- Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành,
ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết
hợp với thực tiễn của nước ta để thiết thực giúp ích cho cơng cuộc
xây dựng nước nhà.
- Trung học thì cần đảm bảo cho học trị những tri thức
phổ thơng chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ
xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời
sống thực tế.
- Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công.

Cách dạy phải nhẹ nhàng, vui vẻ, chớ gị ép thiếu nhi vào khn
khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các
cháu [38, tr.186].
“Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thì
trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó
mới ni dạy được các cháu” [40, tr.286].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, từ tiểu học, trung học cho đến đại học
là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên. Sự học tập ở trường lại có ảnh hưởng
rất lớn cho tương lai của họ, tức là tương lai của nước nhà. Vì vậy, cốt lõi
nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí
tự lập, tự cường, quyết khơng chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ.
Đối với bậc mẫu giáo thì Bác dạy: Điều trước tiên dạy các cháu là đạo đức.


22

Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt và ngược lại, nếu làm
không tốt sẽ ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau, tức ảnh hưởng đến tiền đồ,
tương lai của dân tộc.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục xuất hiện một cách có quy
luật, ln ln gắn bó với sự vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam,
luôn luôn đào tạo nguồn nhân lực và nhân tài kịp thời nhằm đáp ứng những yêu
cầu cụ thể của cách mạng, của sự phát triển kinh tế - xã hội. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục vận động và phát triển liên tục theo hướng phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, vì hạnh phúc mỗi con người và tồn nhân loại.
1.2.4. Nội dung giáo dục – giáo dục toàn diện
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người tồn diện là sự kế thừa
truyền thống giáo dục tốt đẹp của dân tộc và quan điểm về con người toàn
diện của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ,
con người Việt Nam được sự dìu dắt, giáo dục, đào tạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam và Hồ Chí Minh đã trở thành yếu tố quyết định, là động lực thực sự
cho sự phát triển của cách mạng suốt mấy chục năm qua. Hơn thế nữa, đối với
Hồ Chí Minh, con người khơng chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cao nhất,
là cái đích hướng tới của cách mạng Việt Nam. Chúng ta làm cách mạng là để
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng và phát triển con người lên
một tầm cao mới, xứng đáng là chủ thể của mọi quá trình phát triển trong xã
hội mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, giáo dục con người về mọi mặt để khơng
ngừng nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực của người chiến sĩ cách mạng,
của công dân, nông dân, trí thức, thanh niên và các tầng lớp nhân dân là tư
tưởng rất quan trọng, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh.
Với quan niệm và cách nhìn con người tồn diện như là một thể thống
nhất, sự kết hợp chặt chẽ giữa các mặt thể lực, sức khoẻ, trí tuệ, trình độ thẩm


23

mỹ, đạo đức cách mạng...Hồ Chí Minh cho rằng giáo dục con người toàn diện
trước hết phải tập trung phát triển tất cả các bộ phận cấu thành nên chỉnh thể đó.
1.2.4.1. Giáo dục chính trị tư tưởng
Theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục đầu tiên phải giáo dục chính trị
tư tưởng. Bởi, chính trị là linh hồn, chuyên mơn là cái xác. Có chun mơn
mà khơng có chính trị thì chỉ cịn cái xác khơng hồn. Phải có chính trị trước
rồi có chun mơn. Thống nhất chính trị tư tưởng sẽ thống nhất hành động.
Khơng có chính trị tư tưởng thì dễ “tả” khuynh hoặc hữu khuynh. Chính trị tư
tưởng làm cho người học tin tưởng vào Đảng, vào nhân dân, vào tương lai
tươi sáng của cách mạng. Giáo dục chính trị tư tưởng sẽ giúp khắc phục tư
tưởng lạc hậu, nâng cao tinh thần tự giác, tính tích cực của người học. Đào tạo
con người xã hội chủ nghĩa thì trước hết phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục chính trị tư tưởng nhằm giáo dục lý tưởng cách mạng cho
nhân dân. Để có lý tưởng cách mạng phải thơng qua sự phân tích, chứng

minh có căn cứ lý luận và thực tiễn sâu sắc. Từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin
truyền bá vào Việt Nam, vấn đề giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênnin, giáo dục
tư tưởng cách mạng cho nhân dân đã được đặt ra và giữ một vị trí quan trọng
trong hệ thống giáo dục quốc dân. Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đất
nước ta trong cảnh lầm than cơ cực, khơng ít người muốn rửa vết nhơ nơ lệ
nhưng khơng được, khơng phải vì họ thiếu tinh thần và ý chí kiên cường,
dũng cảm, mà chính là thiếu phương hướng đường lối đúng đắn.
Trong việc giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và thanh niên, Người
luôn nhắc nhở “người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng
cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội
hoàn toàn thắng lợi trên đất nước và trên thế giới”[42, tr.467]. Lý tưởng cao đẹp
mà Hồ Chí Minh nói tới là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng này trở
thành niềm tin, lẽ sống của nhiều thế hệ kế tục nhau. Do vậy, Hồ Chí Minh ln


24

nhắc nhở phải giáo dục cho người dân nhận thức đúng và hiểu sâu sắc rằng: Vì lý
tưởng cao đẹp mà biết bao chiến sỹ cộng sản, biết bao người con yêu quý của giai
cấp công nhân và của dân tộc đã hy sinh, biết bao lớp tuổi thanh niên đã lên đường
chiến đấu. Con đường đi đến lý tưởng cao đẹp là con đường đã đổ biết bao mồ hôi
xương máu, nhưng cũng đầy vinh quang và anh hùng.
Trong giáo dục chính trị tư tưởng, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn
đề giáo dục tinh thần yêu nước. Trong năm điều Người dạy thiếu niên và nhi
đồng, điều thứ nhất là: Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; đối với thanh niên, trước
hết phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, phải có tinh thần dân tộc vững chắc và
tinh thần quốc tế đúng đắn. Tinh thần yêu nước là vốn quý, là sức mạnh to lớn
giúp dân tộc ta đứng vững trước những thử thách nghiệt ngã trong lịch sử. Nó
được hun đúc từ bao đời và đã trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt
Nam. Ngày nay, trong thời đại Hồ Chí Minh, hơn bao giờ hết, tinh thần ấy

cần được đề cao và khơi dậy một cách mạnh mẽ để đưa chúng ta vượt qua đói
nghèo, tụt hậu. Có thể khẳng định rằng, giáo dục tinh thần yêu nước theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là việc làm đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay,
tiếp thêm nguồn sức mạnh, trí sáng tạo cho hàng triệu công dân đang ngày
đêm lao động, cống hiến trên mọi lĩnh vực vì sự vững bền của đất nước, cho
sự thăng hoa của dân tộc, cho dáng đứng Việt Nam tạc sâu vào thiên niên kỷ.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục tinh thần yêu nước cho đến nay vẫn
còn nguyên giá trị và mang ý nghĩa thời sự. Chúng ta tuy đã giành được độc
lập tự do, đất nước hịa bình và thống nhất, song vẫn cịn biết bao khó khăn và
thử thách. Sự nghiệp chấn hưng đất nước, đưa nền kinh tế nước ta phát triển
ngang với trình độ của những cường quốc lớn địi hỏi mỗi người dân hôm nay
phải phấn đấu, nỗ lực cống hiến nhiều hơn nữa. Họ phải tự giác rèn luyện, trở
thành những con người có ý chí bền vững, có lòng dũng cảm gan dạ để vượt
qua những cám dỗ thấp kém, những thói hư tật xấu,...


25

Thứ hai, Hồ Chí Minh chú ý đến việc nâng cao trình độ giác ngộ chính trị
cho mọi người. Hồ Chí Minh cho rằng, giáo dục chính trị là giáo dục, truyền bá
chủ nghĩa Mác Lênin, nâng cao đạo đức cách mạng cho các bộ đảng viên và
quần chúng nhân dân, nhằm thống nhất về tư tưởng, ý chí, phẩm chất cách mạng
và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết
ấy vào cuộc sống. Chính vì vậy nội dung của giáo dục chính trị tư tưởng rất
rộng, bao gồm việc giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường
lối quan điểm của Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng, xây
dựng Đảng, những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước.
Giáo dục chính trị tư tưởng có nhiều hình thức như các lớp học tập lý luận,
những đợt sinh hoạt chính trị, Nghị quyết của Đảng, những báo cáo chuyên đề lý
luận chính trị,... đặc trưng của giáo dục chính trị tư tưởng là phương pháp giảng

dạy và học tập theo chương trình nhất định nhằm làm cho nguời học nắm được
một cách cơ bản lý luận Mác - Lênin, đường lối quan điểm, chủ trương, chính
sách, Nghị quyết của Đảng và của Nhà nước.
Với Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác là học tập cái biện chứng, bởi
cách mạng là sáng tạo. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi mỗi người muốn hồn
thành nhiệm vụ phải sáng tạo, phải có sáng kiến trong các lĩnh vực công tác.
Giáo dục, học tập lý luận Mác – Lênin không phải giáo điều từng câu, từng chữ,
mà phải nắm vững lập trường, quan điểm, phương pháp, tinh thần cách mạng,
mà học để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta.
Trong cách học, là học ở mọi nơi, mọi lúc, học suốt đời coi trong việc
tự học, bởi Người đã chỉ rõ: "Cách mạng tiến lên mãi, Đảng ta tiến lên
mãi"[39, tr.610]. Cho nên cán bộ đảng viên phải thường xun trau dồi lý
luận chính trị, vì cán bộ là gốc của mọi công việc. "Công việc thành hay bại là
do cán bộ tốt hay xấu"[35, tr.318]. Sự phát triển của tư duy, nhận thức, học
vấn, trình độ văn hoá của cán bộ đảng viên là quá trình khổ cơng rèn luyện,


×