Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bài tiểu luận kết thúc môn xã hội học giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.65 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA XHH & CTXH
--------  --------

BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: XÃ HỘI HỌC GIỚI

CHỦ ĐỀ : Vấn đề bất bình giới trong giáo dục và
giải pháp khắc phục tại Việt Nam hiện nay
Lâm Đồng, ngày 10 tháng 07 năm 2021
GVHD: T.S Võ Thị Thùy Dung
SVTH: Đặng Trần Duy
MSSV: 1810618
Lớp : XHK 42

Đà Lạt – 2021


Mục lục
1

Lời nói đầu :..................................................................................................2
1.1 Lý do chọn đề tài:.....................................................................................3
1.2 Mục đích nghiên cứu :..............................................................................3
1.3 Mục tiêu nghiên cứu :..............................................................................3
1.4 Đối tượng nghiên cứu – Khách thể nghiên cứu.......................................4
1.5 Phương pháp nghiên cứu..........................................................................4
1.6 Khung phân tích.......................................................................................4

2


II. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH....................................................................5
2.1 Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn...............................................................5

3

2.1.1

Các khái niệm công cụ....................................................................5

2.1.2

Phương pháp luận...........................................................................6

2.1.3

Cơ sở thực tiễn................................................................................7

. Kết quả nghiên cứu.....................................................................................7
3.1 Thực trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục..........................................7
3.1.1
Cơ hội tham gia vào hệ thống giáo dục quốc dân của học sinh nam
và học sinh nữ...............................................................................................8
3.1.2

Đầu tư cho giáo dục......................................................................11

3.1.3
Sự chênh lệch về trình độ chun mơn và cơ hội nâng cao trình dộ
chun mơn.................................................................................................12
3.2 Ngun nhân bất bình đẳng giới trong giáo dục....................................13

3.2.1

Định kiến giới...............................................................................14

3.2.2

Phân biệt đối xử theo giới.............................................................15

3.2.3

Khuôn mẫu giới............................................................................17

3.3 Đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục
hiện nay...........................................................................................................19
4

KẾT LUẬN.................................................................................................20

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................22

1


Tên đề tài : Vấn đề bất bình giới trong giáo dục và
giải pháp khắc phục tại Việt Nam hiện nay
1 Lời nói đầu :
Trong thời đại hiện nay những đóng góp của phụ nữ khơng chỉ tạo ra một xã
hội tiến bộ, văn minh mà cịn phát triển chính bản thân người phụ nữ. Chiếm
trên 50% dân số và hơn 48% lực lượng lao động xã hội, phụ nữ Việt Nam có
mặt trong mọi lĩnh vực, trên mọi địa bàn, chủ động tham gia các hoạt động của

đời sống xã hội, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước,
đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời,
phụ nữ còn làm tốt vai trò người vợ, người mẹ, người thầy đầu tiên, là điểm
tựa tinh thần vững chắc, gắn kết các thành viên trong gia đình, cùng chăm lo
xây dựng gia đình hạnh phúc. Trong giáo dục, đào tạo và y tế, cán bộ nữ chiếm
tỷ lệ lớn, nhiều người có trình độ cao. Sự trưởng thành của phong trào phụ nữ,
những đóng góp xứng đáng của các cấp hội phụ nữ đạt được trong nhiệm kỳ
vừa qua, đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận, trao tặng nhiều danh hiệu và
phần thưởng cao quý. Nhiều tập thể, cá nhân nữ được tặng Huân chương Độc
lập và Huân chương Lao động các hạng; hàng ngàn chị em được phong tặng
danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn quốc, nhà giáo, thầy thuốc ưu tú; nhà giáo, thầy
thuốc nhân dân; nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân... Nhiều tấm gương thầm lặng
làm nhiều việc tốt, việc thiện đã tơ đẹp thêm hình ảnh cao q của phụ nữ Việt
Nam.. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn sự chênh lệch khá lớn giữa vai trò và vị thế
xã hội của phụ nữ. Q trình cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước đã và
đang tạo điều kiện, cơ hội, và thúc đẩy phụ nữ tham gia ngày càng nhiều
những cơng việc ngồi xã hội. Mặc dù phụ nữ tham gia vào thị trường lao
động khá cao, nhưng họ ln phải gánh chịu những thiệt thịi như: bất bình
đẳng giới trong giáo dục, trong công việc nội trợ, trong công việc và thu nhập,
trong đề bạt thăng tiến, trong chính sách của nhà nước về tuổi hưu, v.v Vì vậy,
để tạo ra sự cân bằng giữa vị trí và vai trò của phụ nữ, cần thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về giới và vấn đề
bình đẳng giới.
Mặc dù bình đẳng giới được coi là vấn đề quan trong ở Việt Nam nhưng bất
bình đẳng giới đối với phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật vẫn chưa được giải
quyết. Các nghiên cứu đã chỉ ra rõ rằng trẻ em gái khuyết tật bị bất lợi nhiều
hơn so với trẻ em trai khuyết tật, và bất lợi hơn so với trẻ em gái không bị
2



khuyết tật về cơ hội và khả năng tiếp cận giáo dục (Nguyen va Mitchell
(2014)). Về chất lượng giáo dục, Chính phủ Việt Nam thừa nhận định kiến và
khn mẫu giới vẫn cịn tồn tại trong giáo dục. Theo đó, Bộ GDĐT đã có
những nỗ lực trong việc lồng ghép vấn đề giới vào chương trình đào tạo ở các
trường cao đẳng, đại học và giáo dục thường xuyên, vào sách giáo khoa,
hướng dẫn giảng dạy và giáo cụ trực quan để xoá bỏ định kiến giới trong dạy
và học. Những nỗ lực này đã được hưởng lợi từ sự hợp tác giữa UNESCO và
Chính phủ Việt Nam, cũng như giữa UNICEF và Bộ GDĐT trong việc hỗ trợ
lồng ghép giới cũng như khuyến khích việc sử dụng số liệu trên cơ sở giới,
trên cơ sở quyền và có phân tách giới trong lập kế hoạch giảng dạy, nghiên
cứu, giám sát, đánh giá và phân bổ ngân sách giáo dục cả ở trung ương và địa
phương. Những can thiệp này đã tăng cường sự đáp ứng giới trong hệ thống
giáo dục tại Việt Nam.

1.1

Lý do chọn đề tài:

Trong nhưng năm gần đây Việt Nam đang dần bước từ một nước nghèo
chuyển dịch sang nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp
và hơn thế nữa. Với việc thực hiện cam kết quốc tế coi bình đẳng giới là mục
tiêu vừa là cơ sở vững. để tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.Hướng tới
xã hội ổn định đồng thuận phát triển đất nước một cách bền. Việt Nam cũng đã
quy định quyền bình đẳng giữa nam và nữ là hai giới tính chủ đạo trong hệ
thống pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt là sự ra đời của
luật bình đẳng giới năm 2006 giúp cải thiện đáng kể trong bất bình đẳng giới ở
Việt nam trên mọi phương diện và lĩnh vực. Nhờ đó theo báo cáo Phát triển
con người tồn cầu năm 2020 cũng chỉ ra rằng Việt Nam đã và đang thực hiện
tốt bình đẳng giới. Với chỉ số phát triển giới (GDI) là 0,997, Việt Nam đứng

thứ 65 trong số 162 quốc gia và nằm trong nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên
thế giới. Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội đưa Việt Nam vào nhóm cao nhất
trong 3 nhóm trên tồn cầu. Ngồi những kết quả tích cực đã đạt được, báo cáo
cũng chỉ ra Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với những thách thức về bất bình
đẳng giới. Việt Nam vẫn nằm trong nhóm cuối trong 3 nhóm trên tồn cầu về
tỷ số giới tính khi sinh (1,12), bạo lực đối với phụ nữ (34,4%). Trong các lĩnh
vực như chính trị, kinh tế, lao động, việc làm, giáo dục và đào tạo, y tế, văn
hóa, gia đình,...vẫn cịn xuất hiện bất bình đẳng giới trong đó. Trong nhiều
năm qua phụ nữ trong lĩnh vực việc làm, lao động và giáo dục đã dần khẳng
định được mình về vai trị và vị trí trong gia đình và xã hội nhưng như vậy vẫn
3


chưa đủ để lấp đầy khoảng cách giới hiện nay. Từ đó em chọn đề tài tiểu luận “
Bất bình đẳng giới trong giáo dục tại Việt Nam ” để có thể tìm hiểu rõ hơn
tình trạng bất bình đẳng giới trong khía cạnh giáo dục hiện nay từ đó đề xuất
một số giải pháp để giảm thiểu tình trạng trên.

1.2

Mục đích nghiên cứu :

Bài tiểu luận hướng đến phân tích thực trạng nguyên nhân và đề xuất giải
pháp cho vấn đề bất bình đẳng giới trong giáo dục tại Việt Nam hiện nay.

1.3

Mục tiêu nghiên cứu :

Mục tiêu 1 : Mơ tả thực trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục hiện nay ở

Việt Nam
Mục tiêu 2 : Phân tích những ngun nhân chính gây ra bất bình đẳng giới
trong giáo dục tại Việt Nam
Mục tiêu 3 : Đề xuất một số giải pháp khắc phục vấn đề bất bình đẳng trong
giáo dục

1.4

Đối tượng nghiên cứu – Khách thể nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: bất bình đẳng giới trong Giáo dục ở Việt Nam.
- Khách thể nghiên cứu: nam và nữ trong hệ thống Giáo dục ở Việt Nam.

1.5

Phương pháp nghiên cứu

Trong phạm vi một bài tiểu luận, em sử dụng phương pháp phân tích tài
liệu:
- Phân tích tài liệu thứ cấp thông qua số liệu từ Tổng cục Thống kê. Đây
là một nguồn tài liệu chính thống và có độ tin cậy cũng như độ chính xác cao.
- Phân tích nhiều các tài liệu khác như các sách, giáo trình, bài báo, bài
viết trên các diễn đàn, tạp chí khoa học…
Các tài liệu thứ cấp thơng qua số liệu từ Tổng cục Thống kê, các tài liệu sơ
cấp và thứ cấp có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

4


1.6 Khung phân tích

Định kiến
Giới

Phân biệt đối
xử theo giới

Khn mẫu
giới

Bất bình đẳng Giới
trong Giáo dục

Cơ hội tham gia

Trình độ chun
mơn

Đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng

2 II. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
2.1 Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
2.1.1 Các khái niệm cơng cụ
- Bất bình đẳng xã hội:
Những khác biệt về địa vị xã hội, chủ yếu dựa trên sự khác biệt về nguồn
gốc xã hội, gia đình, giai cấp, lợi ích kinh tế, ảnh hưởng chính trị, tài sản, giáo
dục, tập quán và đạo đức trong một xã hội. Những tầng lớp giai cấp xã hội
khác nhau trong xã hội nắm được quyền lực, chính trị và kinh tế đã gây ảnh
hưởng và đưa tới sự bất bình đẳng xã hội.
- Bất bình đẳng giới:
Bình đẳng giới là việc phụ nữ, nam giới có địa vị, quyền và trách nhiệm như

nhau. Từ định nghĩa trên có thể hiểu bất bình đẳng giới là thái độ đánh giá thấp
phụ nữ, sự thiên lệch về quyền được học hành, quyền được có việc làm và thu

5


nhập tương xứng như nam giới, quyền ra quyết định và sử dụng các nguồn lực
trong gia đình, trách nhiệm chăm sóc gia đình…
- Bất bình đẳng giới trong Giáo dục:
Bất bình đẳng giới trong giáo dục tức là cơ hội học tập của nam và nữ
là không giống nhau, việc phát triển tiềm năng của một giới được coi trọng
hơn giới còn lại.
- Định kiến giới:
Định kiến giới là nhận thức, thái độ, đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc
điểm, vị trí, vai trị và năng lực của nam hoặc nữ.
- Phân biệt đối xử theo giới
Phân biệt đối xử theo giới là những hành vi ngăn cản và hạn chế phụ nữ
phát triển năng lực, được công nhận và được thừa hưởng những quyền lợi và
lợi ích tối thiểu.
- Khn mẫu giới:
Khn mẫu giới là những hình ảnh lý tưởng về nam tính hoặc nữ tính, dùng
để nhìn nhận một con người dựa trên sự tổng hợp đơn giản của thuộc tính của
nhóm, của giới mà người đó quy thuộc.
- Giáo dục:
Nghĩa rộng: giáo dục được coi là sự tác động đến con người từ toàn bộ
hệ thống và các quan hệ xã hội. Với mục đích chuyển tải những kinh nghiệm
xã hội hay những tri thức cần thiết cho cuộc sống xã hội của con người. Do
vậy, con người có thể học hỏi kinh nghiệm của tri thức đó ở mọi nơi, mọi
nhóm xã hội khác nhau.
Nghĩa hẹp: giáo dục là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế

hoạch hướng đến con người từ phía chủ thể giáo dục nhất định, nhằm truyền
đạt cho chúng ta một hệ thống các tri thức, chuẩn mực, kinh nghiệm xã hội
làm cho chúng ta dần có được phẩm chất năng lực theo yêu cầu của xã hội.
Những kiến thức hay kinh nghiệm đó con người chỉ có thể nhận được qua chủ
thể của giáo dục như nhà trường. Với nghĩa này thì giáo dục được coi như một
thiết chế xã hội hay một hệ thống xã hội có tổ chức. Nó gắn liền với một hệ
thống giáo dục quốc gia.

2.1.2 Phương pháp luận
Lý thuyết chức năng giới:
Thuyết chức năng giới gắn liền với tên tuổi Miriam Johnson. “Bà ghi nhận
sự thất bại của thuyết chức năng để tìm hiểu một cách tương thích sự bất lợi
của phụ nữ trong xã hội. Bà thừa nhận rằng có một xu hướng phân biệt giới
tính khơng chủ định trong lý thuyết của Talcott Parson về gia đình và rằng
thuyết chức năng đã đặt ra ngoài lề các vấn đề về sự bất bình đẳng xã hội, sự
thống trị và sự áp bức - một khuynh hướng có tính ngun thuỷ trong mối
6


quan tâm cơ bản của thuyết chức năng đối với trật tự xã hội”. Lý thuyết này
phân biệt vai trò giới, đặc biệt là chức năng của phụ nữ và đàn ơng trong gia
đình; qua đó, định vị nguồn gốc của bất bình đẳng giới trong xã hội theo chế
độ gia trưởng.
Johnson cho rằng vai trị của gia đình là xã hội hố trẻ em và tái tạo về mặt
tình cảm các thành viên trưởng thành. Vai trị đó được người phụ nữ đảm nhận
bởi họ có chức năng biểu đạt cịn người đàn ơng có chức năng duy lý cơng cụ;
tức là, người đàn ơng có chức năng về mặt kinh tế, đời sống vật chất và đối
ngoại với cộng đồng xã hội, cịn người phụ nữ có chức năng duy trì tình cảm
của các thành viên trong gia đình. Các chức năng của phụ nữ trong gia đình đã
chi phối tới chức năng kinh tế của họ. Phụ nữ được hướng nghiệp tới các nghề

nghiệp mang tính biểu cảm như giáo viên, y tá, bác sĩ, đầu bếp, thợ may…
Trong những lĩnh vực mà đàn ông thống trị, họ có thể tham gia nhưng khó có
thể chiếm được vị trí cấp cao và ln bị ảnh hưởng bởi những trách nhiệm gia
đình nặng nề. Chức năng giới được truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Các bé trai và các bé gái học hỏi vai giới từ cha và mẹ của chúng và tái tạo
trong tương lai.
Ứng dụng lý thuyết chức năng giới của Johnson trong bài viết này nhằm lý
giải nguyên nhân nảy sinh bất bình đẳng giới trong giáo dục. Với những quan
điểm chủ đạo trên, trẻ em nữ khó có khả năng tiếp cận hệ thống giáo dục ở cấp
cao với lý do các em sinh ra chỉ để thực hiện những vai trị giới trong gia đình.
Lý thuyết chức năng giới có thể áp dụng để lý giải bất bình đẳng giới tại những
gia đình theo chế độ gia trưởng. Tuy nhiên, để lý giải bất bình đẳng giới trong
xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại, sử dụng các yếu tố như định kiến
giới, phân biệt đối xử theo giới và khn mẫu giới sẽ mang lại cái nhìn rõ nét
hơn khi phân tích các biểu hiện của bất bình đẳng giới trong giáo dục. Cần lưu
ý rằng, lý thuyết chức năng giới cung cấp nền tảng lý luận để giải thích các
yếu tố chi phối bất bình đẳng giới trong giáo dục.

2.1.3 Cơ sở thực tiễn
Bình đẳng giới trong giáo dục là vấn đề hết sức đáng lưu tâm bởi giáo
dục là phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, bình đẳng giới trong giáo dục
đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao một cách đồng đều và phát
huy tối đa. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, đã có rất nhiều chương trình, dự
án quan tâm nghiên cứu về vấn đề này, ngồi ra, cịn có rất nhiều những tài
liệu khác về vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục nói riêng và các vấn đề giới
nói chung.

7



3 . Kết quả nghiên cứu
3.1 Thực trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục
“Những kinh nghiệm toàn cầu cho chúng ta thấy những quốc gia tích cực
cho việc ủng hộ quyền của người phụ nữ và tăng cường khả năng tiếp cận của
người phụ nữ với các nguồn lực và cơ hội giáo dục sẽ phát triển nhanh hơn và
có tỉ lệ nghèo đói thấp hơn. Nhưng sự bình đẳng như vậy chỉ có thể đạt được
thơng qua hành động. Cần có những biện pháp cụ thể nhằm thu hẹp khoảng
cách giữa nam và nữ trong giáo dục, cơ hội có việc làm, các quyền đối với tài
sản, tiếp cận tín dụng, tiếng nói chính trị và quyền tham gia quyết định.”
Có thể nói, bình đẳng giới là nhân tố quan trọng đảm bảo sự phát triền bền
vững, đồng đều của mỗi xã hội, mỗi quốc gia. Riêng đối với lĩnh vực giáo dục,
lĩnh vực có vai trị nền tảng đối với sự phát triển của xã hội bởi vai trò đào tạo,
nâng cao nguồn nhân lực cho mỗi quốc gia, bình đẳng giới cũng cần phải được
thực hiện đảm bảo khai thác nguồn vốn con người một cách triệt để, đồng thời
đem lại cơ hội phát triển bình đẳng về mọi mặt của cả hai giới. Hiện nay, Việt
Nam được coi là một trong những nước có những thành cơng đáng kể trong
việc thực hiện bình đẳng giới. Mặc dù vậy, bất bình đẳng giới ở nước ta vẫn
còn tồn tại với những biểu hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống. Trong giáo
dục, bất bình đẳng giới thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó có thể kể đến một
vài biểu hiện cụ thể như: cơ hội tham gia vào việc hệ thống giáo dục quốc dân
của nam nữ học sinh không tương đương nhau, sự chênh lệch về trình độ học
vấn, trình độ chun mơn của nam và nữ, cơ hội nâng cao trình độ chun
mơn không chia đều cho 2 giới.

3.1.1 Cơ hội tham gia vào hệ thống giáo dục quốc dân của học
sinh nam và học sinh nữ
Sự tham gia của học sinh nam, nữ ở các cấp học có sự khác biệt rõ rệt.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển chung
của toàn xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã khơng ngừng có những biện pháp
nhằm không chỉ nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục về nội dung, phương

pháp giảng dạy và cơ sở vật chất mà cịn có những chính sách cụ thể hướng tới
hỗ trợ từng nhóm đối tượng cụ thể, nhằm đảm bảo quyền được giáo dục của
mọi công dân. Những nỗ lực đó đã có kết quả tích cực với những thành công
của các kế hoạch phổ cập giáo dục, tỉ lệ học sinh bỏ học giảm đáng kể. Kết quả
Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, có 8,3% trẻ em trong độ tuổi đi học phổ
8


thông nhưng không đến trường, giảm 12,6 điểm phần trăm so với năm 1999 và
giảm 8,1 điểm phần trăm so với năm 2009 (năm 1999: 20,9%; năm 2009:
16,4%). Tỷ lệ trẻ em không đến trường của nam giới cao hơn 1,7 điểm phần
trăm so với nữ giới. Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, mặc dù tỷ lệ trẻ
em không đến trường trên phạm vi cả nước chỉ còn 8,3% nhưng sự khác biệt
vẫn còn khá lớn.
Từ năm 1999 đến nay, những nỗ lực đưa trẻ em đến trường đã góp
phần thu hẹp bất bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái. Tỷ lệ trẻ em gái
trong độ tuổi đi học chưa bao giờ đi học hoặc bỏ học khơng những giảm mà
cịn đổi chiều từ mức cao hơn tỷ lệ của trẻ em trai xuống cịn thấp hơn, mặc dù
mức thấp hơn này khơng nhiều. Tỷ lệ ngoài nhà trường của trẻ em trai và trẻ
em gái các năm 1999, 2009 và 2019 lần lượt là: 18,5% so với 23,5%; 17,3% so
với 15,3% và 9,2% so với 7,5%.. Bên cạnh những thành cơng đó, tỉ lệ học sinh
nam và nữ trong các cấp học cũng như trong tổng số học sinh bỏ học cho thấy,
trong hệ thống giáo dục vẫn tồn tại sự bất bình đẳng về giới.
Trước hết phải kể đến cơng tác xóa mù chữ đã được thực hiện ở nước ta
trong thời gian dài, và đã đạt được những con số đáng chú ý. Kết quả Tổng
điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên là
95,8%, tăng 1,8 điểm phần trăm so với năm 2009. Trong 20 năm qua, tỷ lệ biết
chữ của nữ tăng 7,7 điểm phần trăm; khoảng cách chênh lệch về tỷ lệ biết chữ
giữa nam và nữ được thu hẹp đáng kể. Năm 1999, tỷ lệ biết chữ của nam là
93,9%, cao hơn của nữ 7,0 điểm phần trăm; đến năm 2019, tỷ lệ biết chữ của

nam đạt 97,0%, cao hơn tỷ lệ này của nữ 2,4 điểm phầm trăm. Sự chênh lệch tỉ
lệ nam và nữ biết chữ cho thấy, cơ hội xóa mù chữ đối với nam và nữ tại nước
ta khơng bình đẳng. thể hiện rõ nhất ở nông thôn Việt Nam hiện nay.
Tỉ lệ trẻ em học chung các bậc trong cả nước cũng đang có xu hướng trở
nên cân bằng hơn. Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự chênh lệch giữa tỉ lệ nam và tỉ lệ
nữ học chung, mức độ chênh lệch này tùy theo các bậc học. Đối với bậc học
trung học cơ sở, tỉ lệ nữ học chung là 86,46% và tỉ lệ nam là 90,21%. Bậc phổ
thông trung học, tỉ lệ nữ học chung là 45,2% và tỉ lệ nam là 45,7%. Mặc dù
khoảng cách giữa tỉ lệ nam và nữ đang có xu hướng thu hẹp theo thời gian và
theo các cấp học, nhưng tỉ lệ này vẫn còn ở mức thấp đối với những cấp học từ
phổ thông trung học trở lên. Thực tế cũng cho thấy, tỉ lệ trẻ em nữ hoàn thành
các cấp học cao hơn tỉ lệ nam. Chẳng hạn, năm học 2003 – 2004, tỉ lệ học sinh
nữ hoàn thành cấp học tiểu học đạt 99,83%, tỉ lệ nam đạt 99,80%. Bên cạnh
đó, tỉ lệ bỏ học tại các cấp học của học sinh nữ cũng thấp hơn nam, tỉ lệ học
sinh nữ bỏ học cấp tiểu học năm 2003 – 2004 là 3,09% và tỉ lệ này ở nam là
3,16%. Thực trạng trên cho thấy, mặc dù học sinh nữ có tỉ lệ tốt nghiệp các bậc
9


học cao hơn nam và tỉ lệ bỏ học ít hơn nam nhưng tỉ lệ nam nữ học chung lên
các cấp học cao hơn của nữ lại thấp hơn. Một trong những nguyên nhân của
tình trạng này là do các học sinh nam bỏ học, nhưng sau đó số lượng quay trở
lại học lại, cũng như số lượng học chuyển tiếp lên chiếm tỉ lệ đơng hơn nữ.
Trong khi đó, hiện tượng quay lại học sau khi bỏ học ở nữ dường như ít xảy ra
hơn. Bởi các em nữ khi càng lớn, càng cần phải đảm nhiệm nhiều hơn những
cơng việc gia đình. Một lý do khác cần được đề cập đến đó là khi kinh tế gia
đình khơng đủ khả năng chi phí cho giáo dục thì các bậc cha mẹ thường chọn
các em nữ là “vật hy sinh” trước tiên để giảm gánh nặng về kinh tế đồng thời
tăng thêm nhân công lao động cho kinh tế gia đình. Những con số này cũng
cho thấy, đối với những cấp học càng cao thì khả năng được tiếp tục học của

học sinh nữ càng giảm. Mặc dù hiện tượng này cũng tồn tại ở những học sinh
nam, nhưng tỉ lệ nam khơng được học tiếp ít hơn nữ thể hiện ở tỉ lệ học chung
ở các cấp học của nam ln cao hơn nữ.
Sự bất bình đẳng giới trong sự tham gia và hệ thống giáo dục quốc dân được
thể hiện hết sức rõ nét ở số năm học trung bình của nam và nữ. Số năm đi học
bình quân của dân số Việt Nam là 9,0 năm, trong đó số năm đi học bình qn
của nam giới cao hơn nữ giới là 0,7 năm (năm đi học bình quân của nam giới
là 9,4 và nữ giới là 8,7 năm). Chênh lệch này một phần là do sự khác nhau
trong cơ hội được tiếp cận giáo dục giữa nam giới và nữ giới trong quá khứ.
Người dân ở khu vực thành thị có số năm học bình qn cao hơn người dân ở
khu vực nông thôn. Số năm học trung bình của cả nước là 9,0 năm, tương ứng
với số năm học cuối cùng của cấp THCS. Đồng bằng sơng Hồng là vùng có số
năm đi học bình quân cao nhất (10,6 năm), nhiều hơn 3,5 năm so với Đồng
bằng sơng Cửu Long, vùng có số năm đi học bình quân thấp nhất (7,1 năm).
Số năm đi học kỳ vọng là 12,2 năm - con số này đã vượt qua số năm đi học
của tất cả các bậc học phổ thông. Điều này cho thấy, thế hệ tiếp theo của dân
số Việt Nam sẽ được tiếp cận sâu, rộng hơn với các loại hình giáo dục từ giáo
dục phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp và đào tạo nghề. Số năm đi học kỳ
vọng cung cấp một tín hiệu tốt về tương lai của nền giáo dục và cơ hội tiếp cận
với giáo dục chuyên sâu.
Kết quả cuộc điều tra cũng cho biết, số năm đi học kỳ vọng của nam giới và nữ
giới là năm đi học kỳ vọng của nữ giới cao hơn 0,4 năm so với nam giới
(tương ứng là 12,4 năm và 12,0 năm). Số năm đi học kỳ vọng của khu vực
thành thị cao hơn khu vực nông thôn. Đồng bằng sông Hồng là vùng có số
10


năm đi học kỳ vọng cao nhất, Tây Nguyên có số năm đi học kỳ vọng thấp nhất.
Tuy sự chênh lệch này là nhỏ nhưng cũng phần nào thể hiện sự bình đẳng giới
đang có những thay đổi theo hướng tích cực trong giáo dục. Tuy nhiên, Tỷ lệ

dân số từ 15 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường hoặc khơng có bằng cấp của
nữ giới là 18,0%, gấp 1,6 lần so với của nam giới . Kết quả điều tra cho thấy,
số năm học nói chung của dân số thành thị cao hơn nhiều so với dân số khu
vực nông thôn. Quan trọng hơn, thực tế cũng cho thấy, mặc dù khoảng cách số
năm học trung bình của nam và nữ chênh lệch ít (0,4 năm), nhưng điều đó
cũng thể hiện mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục ở khu vực nơng thơn
có những biểu hiện rõ nét hơn khu vực đô thị. Nguyên nhân của tình trạng này
khơng chỉ do điều kiện kinh tế gia đình, mà chủ yếu là do tư tưởng trọng nam
khinh nữ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề, nhận thức về ý nghĩa quan trọng của
giáo dục, đào tạo vẫn chưa đầy đủ.
Nhìn chung, cơ hội tham gia và hệ thống giáo dục quốc dân với mục đích
nâng cao dân trí của nữ luôn thấp hơn nam, sự chênh lệch này tăng lên theo
từng cấp học và tùy từng khu vực. Như đã phân tích ở trên, trẻ em nữ ở khu
vực thành thị có cơ hội được hưởng quyền được giáo dục cao hơn những trẻ
em ở khu vực nông thơn. Thực trạng này có thể do ngun nhân về điều kiện
kinh tế gia đình và nguyên nhân khác biệt về trình độ nhận thức. Nói chung,
người dân ở khu vực thành thị có trình độ hiểu biết cao hơn, do vậy, những
biểu hiện trên của bất bình đẳng giới trong giáo dục ở khu vực thành thị cũng
có xu hướng xảy ra ở mức độ nhẹ hơn.

3.1.2 Đầu tư cho giáo dục
Sự đầu tư cho giáo dục ở nước ta chủ yếu từ phía Nhà nước và phía các gia
đình. Trong những năm gần đây, mức đầu tư cho giáo dục của Nhà nước không
ngừng tăng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo chung. Mức đầu tư
này dành chung cho toàn hệ thống giáo dục, với các hình thức hỗ trợ đối với
những trường hợp có những khó khăn đối với việc tiếp cận nền giáo dục quốc
dân. Những hình thức hỗ trợ này khơng hề phân biệt theo giới tính mà chỉ phân
biệt theo từng mức độ khó khăn của mỗi đối tượng. Đối với các gia đình, mức
chi phí cho giáo dục tăng dần theo mức chi tiêu chung của xã hội . Ngoài
những khoản chi phí khi tham gia và hệ thống giáo dục quốc dân tại nhà

trường và các trung tâm cơ sở giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay
những chi phí khác như chi phí học thêm, hay các chi phí cho đồ dùng học tập
và sách vở cũng có xu hướng tăng, thậm chí cịn có thể vượt mức chi phí cho
11


Nhà trường và các cơ sở giáo dục tương đương khác. Trong trường hợp này,
mức đầu tư cho giáo dục đối với mỗi gia đình khơng giống nhau phụ thuộc lớn
vào điều kiện kinh tế gia đình và nhận thức của gia đình về mức độ quan trọng
của giáo dục. Không những thế mức đầu tư cho giáo dục đối với nam và nữ
cũng có sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền. Kết quả một cuộc điều tra
(của Viện Xã hội học, 2012) về tương quan giữa mức chi tiêu bình quân cho
giáo dục trong 1 năm và trình độ học vấn ở đơ thị và nơng thơn đã góp phần
làm rõ hơn nhận xét trên. Cụ thể là: ở mức chi tiêu bình quân đầu người cho
giáo dục thấp (dưới 1.200.000đ/năm) thì khu vực nơng thơn (11,9%) có tỷ lệ
cao hơn khu vực đơ thị (2,8%); đồng thời, ở mức chi tiêu lớn (6 triệu - 11,9
triệu đồng/năm và trên 12 triệu đồng/năm) thì khu vực đơ thị (lần lượt là
28,8% và 44,6%) lại có tỷ lệ cao hơn khu vực nông thôn (19,9% và 20,6%).
Về số tiền vay bình quân cho con cái đi học trong 12 tháng qua giữa ĐT - NT,
khu vực nông thôn có số tiền vay cho con cái đi học cao hơn khu vực đô thị
khoảng 4.500.000đ (nông thôn là 17.689.000đ, đơ thị là 13.252.000đ). Và số
lượng hộ gia đình phải đi vay tiền để cho con đi học ở nông thôn cao gần gấp 2
lần ở đô thị (60 hộ gia đình ở nơng thơn so với 33 hộ gia đình ở đơ thị). Đây
cũng là một yếu tố gia tăng gánh nặng nợ nần ở các hộ gia đình có con đang đi
học ở nơng thơn cao hơn ở đơ thị.. Kết quả này cho thấy, các gia đình đơ thị có
khả năng đầu tư cho giáo dục tốt hơn các gia đình ở nơng thơn. Mặc dù vậy,
nam vẫn được ưu tiên đầu tư trong giáo dục nhiều hơn nữ.
Kết quả một cuộc điều tra (của Viện Xã hội học, 2012) (Bảng 1) cho thấy
rằng: sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái về việc học thêm là khá cao (hơn
70%), song tỷ lệ hộ gia đình cho con đi học thêm ở đơ thị cao hơn ở nơng thơn

khoảng hơn 10%. Khơng có sự khác biệt nhiều giữa tỷ lệ cho con trai hay con
gái đi học thêm ở mỗi khu vực. Có nhiều lý do cho con đi học thêm, nhưng
phần lớn tập trung vào việc mong muốn con cái có thêm kiến thức, nâng cao
chất lượng học tập. Một chỉ báo khác quan trọng hơn phản ánh sự quan tâm
của cha mẹ đối với việc học tập của con cái, đó chính là chỉ báo về mức chi
tiêu cho con đi học thêm ở khu vực ĐT - NT. Tính trung bình mức chi tiêu cho
con đi học thêm trong 12 tháng qua ở khu vực đô thị cao hơn 2 lần so với ở
nông thôn (đô thị là 8.614.000đ/năm, trong khi ở nơng thơn chỉ là
3.775.000đ/năm). Thậm chí, có một số khơng nhỏ hộ gia đình ở cả ĐT - NT đã
phải đi vay để cho con cái được đi học.

12


3.1.3 Sự chênh lệch về trình độ chun mơn và cơ hội nâng cao
trình dộ chun mơn
Thực tế cho thấy, tỉ lệ học ở các cấp của nữ thấp hơn nam nên kết quả tất
yếu là sự chênh lệch về trình độ chun mơn của nam và nữ, trong đó ưu thế
về trình độ chun mơn thuộc về nam giới. Thực trạng này có thể được nhìn
nhận qua tỉ lệ số nam nữ theo trình độ chun mơn, hay cụ thể hơn trong chính
ngành giáo dục, tỉ lệ giáo viên nam và nữ cũng khơng cân bằng nhau.
Trước hết, trình độ học vấn – trình độ chun mơn của nam trong cơ cấu
dân số nói chung cao hơn của nữ.

Chưa đi
học

Phổ thông

Cao

đẳng

Đại học
trở lên

- Nam

3,0

91,1

1,1

4,8

- Nữ

4,8

89,7

2,0

3,5

Tổng số

3,9

90,5


1,5

4,2

Bảng : Phân bố phần trăm dân số 5 tuổi trở lên theo cấp
giáo dục – đào tạo, chia theo giới tính (Đơn vị %)
Kết quả điều tra biến động dân số 1/4/2006, Tổng cục thống kê . Tỉ lệ số nữ
từ 5 tuổi trở lên chưa đi học chiếm 4,8%, cao hơn tỉ lệ số nam chưa đi học
(3%). Đồng thời, tỉ lệ nữ tham gia vào các cấp học phổ thơng nói chung thấp
hơn tỉ lệ nam. Tỉ lệ nữ chỉ có 89,7%, trong khi tỉ lệ nam là 91,1%. Tuy nhiên,
kết quả điều tra cũng cho thấy sự chênh lệch cũng thể hiện rõ nét ở các cấp học
13


cao hơn. Có 2% dân số nữ tham gia vào cấp giáo dục cao đẳng, cao hơn số
nam chỉ có 1,1%; nhưng ở cấp giáo dục cao hơn, cấp đại học trở lên, nam có
ưu thế hơn với 4,8% và nữ chỉ có 3,5%. Kết quả điều tra cho thấy, khoảng cách
về trình độ học vấn giữa hai giới tuy đã thu hẹp trong những năm gần đây,
nhưng nam giới nhìn chung vẫn có trình độ chun mơn cao hơn, càng lên các
cấp học cao thì điều này càng thể hiện rõ.
Tình trạng khơng bình đẳng này là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng tới sự tham gia của người phụ nữ vào hoạt động kinh tế gia đình nói
riêng và hệ thống kinh tế quốc dân nói chung.
Qua đó có thể thấy, phụ nữ chủ yếu tham gia vào các cơng việc gia đình
khơng hưởng lương, trong khi nam giới chủ yếu tham gia vào các thành phần
kinh tế “ngồi xã hội” nhiều hơn, bởi vậy họ cũng có nhiều cơ hội để nâng cao
trình độ chun mơn và nghiệp vụ nhiều hơn phụ nữ.

3.2


Nguyên nhân bất bình đẳng giới trong giáo dục

Bất bình đẳng giới trong giáo dục được thể hiện bởi sự khác biệt xã hội giữa
cơ hội tham gia học tập và trình độ học vấn của nam và nữ. Nhìn chung, phụ
nữ ít có cơ hội tham gia học tập đạt trình độ cao như nam giới. Một số yếu tố
lý giải cho sự khác biệt làm phương hại đến nhu cầu và lợi ích của phụ nữ
trong giáo dục nói riêng và các mặt khác của đời sống xã hội là định kiến,
phân biệt đối xử theo giới và khn mẫu giới, hình thành từ lâu đời và ăn sâu
vào tiềm thức của mỗi người dân.

3.2.1 Định kiến giới
“Nói một cách chung nhất, định kiến được hiểu là những thái độ tiêu cực
nảy sinh trên cơ sở của những cảm nhận khơng có cơ sở chắc chắn, tập hợp
các quan niệm, ý kiến, niềm tin hoặc biểu tượng có tính rập khn và đơn giản
hố q mức về những đặc điểm bề ngồi, thái độ và hành vi ứng xử xã hội,
những ấn tượng xấu… về một nhóm người nào đó tuỳ theo sự qui thuộc xã hội
riêng của họ.” Như vậy, định kiến xã hội thường mang ý nghĩa tiêu cực về một
nhóm đối tượng đặc thù. Cơ sở hình thành định kiến khơng mang tính khoa
học, nhưng được truyền đạt thơng qua giao tiếp xã hội và dễ dàng được tiếp
thu. Cã hội có sự phân hố giữa các nhóm dựa trên những đặc điểm khác biệt,
nhất là những đặc điểm đó có sự mâu thuẫn với nhau thì chắc chắn sẽ tồn tại
định kiến giữa các nhóm.
Định kiến giới là định kiến xã hội, hình thành trong những điều kiện lịch sử,
xã hội cụ thể. Cũng như khi đề cập tới bất bình đẳng giữa nam và nữ, định kiến
giới được ngầm hiểu là định kiến về phụ nữ. Đôi khi, định kiến giới khiến ta
14


có cái nhìn sai lệch về người khác giới và có lúc nghi ngờ chính bản thân

mình. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, định kiến giới không hề mất đi mà vẫn
tồn tại trong mọi mặt của đời sống xã hội, không loại trừ thiết chế giáo dục.
Qua phân tích thực trạng bất bình đẳng giới, có thể thấy một số hình thức biểu
hiện của định kiến giới trong giáo dục được thể hiện rõ nét trong gia đình và
trong xã hội.
Trước hết, định kiến giới như là một trong những yếu tố về mặt nhận thức
chi phối các vấn đề về giáo dục trong gia đình. Gia đình khơng chỉ là “cái nơi”
mà cịn là “mái trường” đầu tiên để mỗi người tiếp thu vốn kinh nghiệm và
tri thức xã hội. Đó cũng là nơi trẻ hình thành và tiếp nhận vai trị giới thơng
qua mơi trường giáo dục phi chính thức và q trình xã hội hố cá nhân. Gia
đình đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành, giảm bớt hoặc “kht sâu”
định kiến giới, thơng qua việc cha mẹ quyết định cơ hội học tập và đầu tư cho
giáo dục cho các bé trai và bé gái. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, nhìn
chung, các bậc phụ huynh nhìn nhận việc đầu tư cho giáo dục không theo xu
thế cân bằng giữa con trai và con gái. Dường như, “con gái là con người ta”
nên thực trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục vẫn tồn tại hiện nay. Ngồi
việc khơng có nhiều cơ hội được học tập ở các bậc học cao, trẻ em gái cịn
sớm được định hình chức năng giới trong gia đình, định hướng nghề nghiệp
theo giới và định hướng theo khn mẫu hành vi mà xã hội kì vọng ở những
người phụ nữ. Sự hình thành vai trị, chức năng giới, nghề nghiệp theo giới hay
hệ thống hành vi chuẩn được cha mẹ truyền đạt và trẻ em gái tiếp thu. Một số
chức năng giới của phụ nữ bộc lộ những hạn chế đối với phụ nữ như “thiên
chức” làm vợ, làm mẹ, có chức năng tái sản xuất những yếu tố tinh thần, tình
cảm,… bó buộc họ trong phạm vi gia đình. Vì thế, bản thân trẻ nữ, sau khi lĩnh
hội một số quan điểm trên sẵn sang “hi sinh” quyền lợi và nghĩa vụ học tập.
Đó là sự thiệt thòi lớn đối với các em.
Mặt khác, định kiến giới về giáo dục còn được biểu hiện rộng rãi trong xã
hội. Ở các bậc học, trẻ em được “phân luồng” theo giới tính bởi một số quan
điểm như: học sinh nữ có “năng khiếu” các mơn khoa học xã hội, ngược lại,
học sinh nam có tài năng “bẩm sinh” về các môn khoa học tự nhiên. Nhận định

trên khơng có cơ sở và căn cứ khoa học, nhưng vẫn được phổ biến rộng rãi tại
các trường học. Ngay cả những hình thức kỉ luật cũng có sự khác biệt theo giới
tính. Đối với những trẻ hiếu động, nghịch ngợm, nếu là nam, thì giáo viên
dường như có xu hướng coi nhẹ việc hình thức xử phạt, bởi “con trai thì phải
hiếu động”; nhưng nếu đó là nữ sinh, thì thơng thường, họ có cái nhìn tiêu cực
và không tán thành với hành vi của nữ sinh. Như vậy, hình thức, phương pháp
và nội dung giáo dục vẫn có hơi hướng của định kiến giới. Với những hình
15


thức tồn tại của định kiến giới trong giáo dục ở gia đình và nhà trường, trong
xã hội cũng khơng tránh khỏi sự xuất hiện và chiếm lĩnh của định kiến giới về
vấn đề giáo dục, đào tạo. Các thành viên cùng chia sẻ những quan niệm chung,
không rõ ràng tính đúng – sai nhưng được họ thống nhất thừa nhận, đã trở
thành nền tảng để hình thành khn mẫu hành vi theo giới, có tác động khơng
nhỏ tới điều kiện và cơ hội học tập của nam giới và nữ giới.
Định kiến giới tạo nên sự nhìn nhận và thái độ khác biệt về các nhóm đối
tượng được hưởng quyền lợi và lợi ích từ giáo dục. Vì thế, nhiều nguyên nhân
khiến phụ nữ chịu nhiều “thiệt thòi” trong giáo dục hơn đàn ông bắt nguồn từ
những quan điểm tiêu cực, cách nhìn nhận và thái độ sai lệch về người phụ nữ.

3.2.2 Phân biệt đối xử theo giới
Nếu như định kiến chỉ dừng lại ở mức độ biểu hiện những thái độ thì phân
biệt đối xử là sự biểu hiện rõ ràng ở những hành vi cụ thể. Bắt nguồn từ yếu tố
nhận thức sai lệch và mang tính tiêu cực đối với sự khác biệt giới tính, phân
biệt đối xử theo giới đã ngăn cản và hạn chế phụ nữ phát triển năng lực, được
công nhận và được thừa hưởng những quyền lợi và lợi ích tối thiểu. Đó là một
trong những căn nguyên cơ bản của bất bình đẳng giới.
Phân biệt đối xử giới theo giới trong giáo dục ngăn cản phụ nữ tiếp cận với
sự bình đẳng trong giáo dục. Sự bất bình đẳng ở chỗ: đa số phụ nữ không được

hưởng sự đầu tư cho giáo dục, không được tham gia các hoạt động giáo dục,
khơng có trình độ học vấn ngang bằng với nam giới. Phân biệt đối xử theo giới
có thể được biểu hiện thơng qua:
Thứ nhất, cá nhân (phụ nữ) có những hành vi chống lại chính mình do chịu
tác động bởi định kiến giới và khuôn mẫu hành vi giới. Họ có cái nhìn méo
mó, lệch lạc về vị trí và vai trò của bản thân, dựa trên những đặc điểm tiêu cực
do xã hội qui gán, dẫn tới hành động đem lại hậu quả cho bản thân. Trong giáo
dục, khơng ít những trường hợp các em gái tự đưa ra những quyết định như
khơng đi học vì thương cha mẹ, thương các anh em trai và mình là “phận gái”.
Trong những trường hợp bị bắt buộc phải bỏ học do hồn cảnh gia đình, thì
hầu như các em gái cam chịu và chấp nhận sự sắp đặt của cha mẹ cho con gái
của họ. Điều đó khiến tỉ lệ nữ bỏ học, tỉ lệ nữ mù chữ cao và trình độ học vấn
của nữ ln thấp hơn so với nam.
Thứ hai, phân biệt đối xử theo giới còn là những hành động của “phái
mạnh” nhằm qui gán và thừa nhận định kiến giới về phụ nữ. Sự phân biệt đối
xử theo giới từ phía người đàn ơng gắn liền với tính gia trưởng và chế độ phụ
quyền. Cùng với sự phân biệt đối xử từ phía đối tượng chịu tác động, những
hành vi phân biệt đối xử theo giới của phái mạnh đã góp phần bảo lưu và gìn
16


giữ những cái nhìn sai lệch về năng lực, quyền và lợi ích của phụ nữ. Phân biệt
đối xử theo giới trong giáo dục được thể hiện bởi những hành vi của những
người thân trong gia đình, hoặc bạn bè của phụ huynh, người hàng xóm là nam
giới, thầy giáo… cản trở việc học tập của các trẻ em gái. Người cha có thể bắt
con gái mình bỏ học vì khơng có tiền cho “con người ta” mà chỉ có tiền cho
“con mình” đi học. Một số người thầy có thể dạy dỗ các em gái hướng tới hình
mẫu của những bà nội trợ đảm đang. Một ơng bác có thể khuyên em trai và em
dâu mình chỉ cho con gái họ học hết cấp bậc nhất đình rồi cho nó lấy chồng,
sinh con. Ngay cả bạn trai, người yêu, hay chồng sắp cưới của các nữ thanh

niên cũng bộc lộ thái độ khó chịu, thậm chí có những hành vi ngăn cản người
họ yêu thương tiếp tục học tập… Trong những trường hợp như vậy, người chịu
thiệt thịi, khơng chỉ về mặt giáo dục – đào tạo luôn là phụ nữ.
So với định kiến giới, phân biệt đối xử theo giới ở mức độ cao hơn hẳn.
Định kiến giới chỉ dừng lại ở những thái độ, và nhiều khi khơng rõ ràng,
nhưng phân biệt đối xử theo giới thì không chỉ dừng lại ở mức độ những biểu
hiện cảm xúc, tình cảm, thái độ nữa. Phân biệt đối xử theo giới và định kiến
giới là những yếu tố cơ bản tạo nên bất bình đẳng giới, vẫn dai dẳng tồn tại
trong mọi mặt của đời sống hiện nay, không chỉ riêng giáo dục – đào tạo.

3.2.3 Khuôn mẫu giới
Như trên đã phân tích, định kiến giới chi phối hệ thống hành vi mà xã hội kì
vọng ở nam và nữ, tạo nên khn mẫu giới và đặt nó trong mối quan hệ qua lại
với định kiến giới. Nói một cách nôm na, khuôn mẫu giới qui định những điều
được làm, và khơng được làm bởi mỗi giới tính khác nhau. Khuôn mẫu giới
được thể hiện chủ yếu ở những quan điểm khác biệt về khuôn mẫu hành vi ứng
xử, tính cách, định hướng nghề nghiệp… với mỗi giới tính. Đã là khn mẫu,
thì mỗi sự qui chuẩn theo những chuẩn mực chung của xã hội thường mang
tính rập khn và phổ quát. Tất cả phụ nữ và đàn ông được coi là có những đặc
điểm khác biệt nhất định.
Khn mẫu giới trong giáo dục đã góp phần khơng nhỏ tạo nên sự định hình
của bất bình đẳng giới trong giáo dục. Biểu hiện của khuôn mẫu giới trong
giáo dục như sau:
Khn mẫu giới trong mơi trường giáo dục chính thức:
Khi tham gia vào bất kì mơi trường giáo dục nào, người được giáo dục luôn
bị ảnh hưởng trước tiên và nhiều nhất bởi người giáo dục họ. Xét môi trường
nhà trường là đơn vị cơ bản và tiêu biểu cho mơi trường giáo dục này, có thể
nói, giáo viên có khả năng ảnh hưởng lớn tới người học khơng chỉ trong sự
tiếp thu vốn kiến thức mà quan trọng hơn là sự hình thành nhân cách trong
17



suốt quá trình tham gia vào hệ thống giáo dục. Khn mẫu giới được thể hiện
chính trong cách ứng xử của giáo viên đối với mỗi học sinh nam và học sinh
nữ khơng giống nhau. Một ví dụ có thể coi là phổ biến cho hiện tượng này đó
là ngay từ những bậc học thấp giáo viên luôn “uốn nắn” học sinh theo những
cách cư xử mang đặc trưng giới rõ nét. Chẳng hạn như, một cô giáo sẽ tỏ ý
khơng hài lịng, thậm chí trách mắng một học sinh nữ có những trị chơi nghịch
ngợm trong lớp, đưa ra những đặc tính được cho là mang tính chất của giới nữ
như: hiền lành, nết na, chăm chỉ để định hướng hành vi cho học sinh này.
Nhưng cũng cô giáo ấy sẽ có ứng xử khác nếu học sinh đó là nam, thay vì đưa
ra những yếu tố nhằm định hướng ngược lại của hành vi ban đầu như trường
hợp thứ nhất, cơ giáo đó sẽ chỉ có thái độ khuyên răn em học sinh cẩn thận hơn
với những trò chơi của mình. Chính những ứng xử như thế này khiến trong
nhân cách của mỗi học sinh đều định hình những yếu tố tính cách theo hướng
nam tính hoặc nữ tính.
Thêm vào đó, khn mẫu giới cũng được biểu hiện trong sách giáo khoa. Ở
nước ta, nội dung những câu chuyện, các bài học trong các sách ngữ văn, giáo
dục công dân, truyện đọc… đều hướng tới mô tả những nhân vật có những đặc
trưng về giới như con gái phải hiền dịu, nết na, thường xuyên giúp đỡ cha mẹ
việc nhà; con trai phải mạnh mẽ, ham tìm tịi học hỏi. Các học sinh từ các cấp
học thấp đã quen với những hình ảnh của những cơng chúa xinh đẹp, và dịu
dàng và những người con trai khỏe mạnh, dũng cảm, tài trí hơn người. Những
hình ảnh được mơ tả trong sách giáo khoa cũng hướng các em học sinh tới
những loại hình về nghề nghiệp được quy gán cho là phù hợp với mỗi giới.
Điều này ảnh hưởng lớn tới việc định hướng nghề nghiệp của trẻ em nam và
nữ từ các cấp học nhỏ. Chẳng hạn như trẻ em nữ thường có ý muốn làm những
cơng việc nhẹ nhàng như làm cô giáo, bác sĩ, y tá…trong khi trẻ em nam
thường định hướng với những công việc thể hiện sức mạnh hay trí thơng minh
như nhà thám hiểm, nhà khoa học, phi cơng…

Tóm lại, cách ứng xử của giáo viên và những kiểu mẫu nhân vật được mơ tả
trong sách giáo khoa vơ hình chung đã định hướng một phần những quan niệm
về những chuẩn mực hành vi, mơ hình, quy tắc ứng xử… trong nhân cách của
trẻ em từ những cấp học thấp nhất.
Khuôn mẫu giới trong mơi trường giáo dục phi chính thức:
Có thể nói, đây là môi trường giáo dục rộng nhất và không có giới hạn mà ai
ai cũng phải tham gia vào đó. Khn mẫu giới được thể hiện trong mơi trường
này thông qua những quan điểm chung đã được xã hội hay thậm chí chỉ một
nhóm người trong xã hội chấp nhận. Mỗi cá nhân ngay từ khi sinh ra đến khi
18


trút hơi thở cuối cùng đều trải qua qúa trình xã hội hóa cá nhân. Vì vậy, những
giá trị, chuẩn mực là nhân tố quan trọng trong q trình đó.
Trong gia đình, mỗi cá nhân trước hết chịu tác động của truyền thống gia
đình, hay nề nếp gia đình. Cách ứng xử khác nhau của các bậc cha mẹ trong
mối quan hệ với các thành viên trong gia đình hình thành nên ở mỗi cá nhân
những khuôn mẫu về giới nhất định. Chẳng hạn, con gái trong gia đình ln
được quan niệm là phải đảm đang việc gia đình, chăm lo cho gia đình, học tập
những đức tính của người mẹ như đức hy sinh, sự dịu dàng… Trong khi đó,
con trai trong gia đình ln được cho là phải mạnh mẽ, thơng minh, có khả
năng gánh vác gia đình, “lo những việc lớn”. Dần dần, những cách ứng xử như
vậy của các bậc cha mẹ, ông bà với những khác biệt nhất định đó khiến khn
mẫu giới được áp đặt đối với hành vi cá nhân.
Xã hội Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo, trọng nam
khinh nữ. Biểu hiện cụ thể nhất có thể kể đến là những câu dân ca, ca dao của
người thời xưa để răn dạy con cái cách ứng xử. Mặc dù, hiện nay nước ta đã
phát triển thành một xã hội cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng những quan
điểm đó vẫn khơng hồn tồn mất đi mà vẫn tồn tại những tàn dư dù chỉ là rất
nhỏ. Chẳng hạn như quan điểm con gái không cần học hành nhiều ở một số

nơi, quan điểm con gái cần phải nói năng nhẹ nhàng và phục tùng người
chồng…. từ những điều này chính là lực cản cho sự tiến bộ của nữ giới hiện
nay trong thời đại CNH-HĐH.

3.3 Đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng bất bình đẳng
giới trong giáo dục hiện nay
Sự bất bình đẳng về giáo dục vẫn còn tồn tại khi tỷ lệ học sinh nữ ở cấp tiểu
học và THCS thấp hơn học sinh nam. Các nghiên cứu và thực tiễn đã chứng
minh, giữa phụ nữ và nam giới chỉ có sự khác biệt về mặt sinh học chứ khơng
có sự khác biệt về mặt xã hội. Để điều chỉnh, giảm thiểu và tiến tới xóa bỏ
định kiến giới là một q trình khó khăn địi hỏi phải tiến hành liên tục, đồng
bộ, kiên trì và sáng tạo.
Trong đó, việc đầu tiên là tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức về
giới và bình đẳng giới, trong đó, nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ giữa 3
môi trường: giáo dục, nhà trường, gia đình và xã hội, những nơi mà định kiến
giới đang tồn tại. Định kiến giới tác động đến mọi đối tượng, khơng phân biệt
tuổi tác, giới tính, hồn cảnh sống. Theo đó, muốn xóa bỏ định kiến giới phải
xem giáo dục bình đẳng giới là một trong những nội dung giáo dục chính và
19


được lồng ghép trong chương trình của các cấp học, từ giáo dục mầm non đến
giáo dục đại học.
Thêm vào đó phụ nữ với khả năng và tinh thần cơng hiến góp phần xây
dựng đất nước cũng cần được tuyên dương và đề cao nhằm khuyến khích
những thành viên trong xã hội tơn trọng đề cao cao vai trị của nữ giới. Bảo
đảm các vấn đề về giới, bình đẳng giới được lồng ghép trong chương trình
tổng thể, chương trình môn học, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới; Nâng
cao chất lượng cơng tác truyền thơng về bình đẳng giới và các vấn đề liên quan
đến giới trong các cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở đào tạo, cha mẹ học sinh và

cộng đồng; Phòng chống bạo lực học đường, bạo lực học đường trên cơ sở
giới, thúc đẩy mơi trường học tập an tồn, thân thiện.
Thứ nhất, nâng cao, cải thiện mức sống và khả năng chi trả cho giáo dục của
người dân cả nước, trong đó chú trọng nhiều hơn đến những người dân sống ở
khu vực nơng thơn, nhóm người nghèo, nhóm người yếu thế. Trong đó cần
miễn hoặc giảm học phí và các đóng góp về giáo dục, đồng thời cho vay vốn
để tham gia giáo dục (học sinh, sinh viên thuộc các hộ gia đình nghèo, gia đình
thuộc diện chính sách xã hội và hộ gia đình cận nghèo...).
Thứ hai, nâng cao trình độ học vấn, nhận thức và sự quan tâm về giáo dục
của người dân ở nông thôn nhiều hơn so với đơ thị, bằng các chương trình
tun truyền, giáo dục, vận động người dân tham gia giáo dục kèm theo thúc
đẩy khuyến khích nữ giới tham gia vào giáo dục.
Thứ ba, đổi mới cơ chế phân bổ, quản lý nguồn tài chính dành cho giáo dục
nhằm hướng đến giảm bất bình đẳng giữa khu vực ĐT - NT, giữa các bậc học.
Có cơ chế phân bổ nguồn tài chính cho giáo dục một cách hợp lý giữa đô thị nông thôn và giữa đầu tư phát triển - chi thường xuyên.
Thứ tư, có chiến lược đào tạo để đáp ứng đầy đủ số lượng và chất lượng
giáo viên, đồng thời có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để huy động, thu hút các
giáo viên có trình độ cao về làm việc lâu dài, ổn định ở khu vực nông thôn.
Kết hợp thi tuyển và cử tuyển; đa dạng hóa các hình thức đào tạo giáo viên
phù hợp với khu vực nơng thơn (chính qui, tại chức, từ xa, tập huấn...) có
những chính sách giúp các giáo viên nữ n tâm công tác tại địa bàn nhất là
những giáo viên đang trong thai kì.
Ưu đãi về lương, phụ cấp cho giáo viên nữ. Tạo cơ hội thăng tiến về chuyên
môn, vị thế xã hội (ưu tiên đi học, tập huấn, đề bạt cán bộ...); v.v.. Thứ năm, có
kế hoạch phát triển và mở rộng các trường, lớp học một cách hợp lý giữa khu
vực ĐT - NT, nhất là các trường, lớp học ở trình độ cao (THPT và ĐH/CĐ).

20



Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mở các trường, lớp học ở khu
vực nông thôn; đa dạng hóa các loại hình trường, lớp phù hợp với khu vực
nông thôn. Đầu tư hợp lý để tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và
học, có chất lượng phù hợp đối với các cấp học thuộc vùng nơng thơn. Xóa các
trường, các lớp học tranh/tre/nứa/lá ở khu vực nông thôn; Xây dựng thêm
nhiều hơn các trường, lớp học và đầu tư đầy đủ trang thiết bị đạt tiêu chuẩn ở
nông thôn.

4 KẾT LUẬN
Trong môi trường giáo dục trong những năm gần đây những cách biệt về
giới đã giảm đi đáng kể. Nữ giới tham gia vào nghành giáo dục đã góp phần
rất lớn trong cơng cuộc đào tạo nguồn nhân lực trẻ. Việc thực hiện phổ cập hóa
giúp cho tất cả trẻ em từ nam hay nữ, lớn hay nhỏ đều được tiệp cận với kiến
thức hiện nay. Mặc dù vậy, nhưng bất bình đẳng giới trong giáo dục vẫn còn là
vấn đề hiện hữu trong xã hội hiện nay. Điều này cần sự vào cuộc của cả gia
đình, nhà trường, xã hội,.. để chung tay góp phân thay đổi hướng đến xóa bỏ
định kiến giới, khn mẫu giới là tác nhân gây nên bất bình đẳng giới trong xã
hội hiện nay.
Để khắc phục được vấn đề bất bình đẳng đối với nữ giới, chắc hẳn trách
nhiệm khơng riêng mình ai. Đó là sự chung tay của tồn thể cộng đồng nói
chung. Và khơng chỉ là bất bình đẳng trong giáo dục mà cịn ở kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, lao dộng và việc làm,... Theo báo cáo năm 2017 của Diễn
đàn Kinh tế thế giới, vẫn có thể mất thêm 100 năm nữa trước khi khoảng cách
bình đẳng tồn cầu giữa nam và nữ biến mất hồn tồn. Điều đó có nghĩa là
thế kỷ 21 này là thế kỷ quan trọng, như tuyên bố Tổng Thư ký LHQ Antonio
Guterres: “Đã tới lúc ngừng cố gắng thay đổi phụ nữ, và bắt đầu thay đổi các
hệ thống ngăn cản phụ nữ đạt được tiềm năng của họ. Thế kỷ 21 phải là thế kỷ
của sự bình đẳng đối với phụ nữ…”. Với chủ đề “Mỗi người vì sự bình đẳng” ,
chiến dịch 8/3 năm nay của LHQ tập trung vào từng thay đổi nhỏ mà mỗi cá
nhân có thể tạo ra. Thơng điệp chính mà các nhà hoạt động muốn nhắn gửi

nhấn vào nội dung một thế giới bình đẳng là điều có thể thực hiện được và mỗi
người có thể có những hành động riêng của mình để góp phần biến nó thành
hiện thực. Những sự kiện trong chiến dịch diễn ra trên khắp thế giới này thu
hút sự quan tâm của dư luận với ý tưởng rằng bình đẳng giới khơng phải là vấn
đề của riêng phụ nữ mà là vấn đề kinh tế, vấn đề cộng đồng.
Doanh nghiệp, cơ quan chính phủ và các phương tiện truyền thông chỉ là một
21


số yếu tố chính được nhấn mạnh trong chiến dịch. Nếu khơng có những cá
nhân nhỏ lẻ, đặt ra những câu hỏi đầu tiên rằng tại sao phụ nữ không được đi
học, không được ước mơ, không được trả lương như nam giới thì sẽ khơng có
những cuộc tổng đình cơng, những phong trào nữ quyền hay mục tiêu bình
đẳng giới. Và bằng cách tìm ra con đường riêng để tôn vinh các thành tựu của
phụ nữ, nâng cao nhận thức về sự bất cơng và chỉ ra tình trạng bất bình đẳng,
mỗi người có thể góp phần mang đến sự thay đổi tích cực trong vấn đề bình
đẳng giới, để mang lại một xã hội tốt đẹp hơn cho thế hệ tương lai. Bình đẳng
giới vẫn cần được lồng ghép trong nhiều lĩnh vực của giáo dục, từ lập kế
hoạch, quản lý, đào tạo giáo viên, chương trình và tài liệu dạy và học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tóm tắt tình hình giới ở Việt Nam năm 2016 (UN)
2. (Phạm Ngọc Toàn, Nguyễn Vân Trang (2013) Tác động của bình đẳng
giới trong giáo dục và việc làm đến tăng trưởng kinh tế .
3. />4. />5. />6. />22


7. />8. />9. />10. />
23




×