Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Vai trò của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở hà nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.2 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==================

NGƠ QUANG DUY

VAI TRỊ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

==================

NGƠ QUANG DUY

VAI TRỊ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08

Người hướng dẫn khoa học: TS Ngô Thị Phượng


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS Ngô Thị Phượng. Các số liệu, tài liệu tham khảo
trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2014

Tác giả luận văn

Ngô Quang Duy

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài ................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................ 8
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 9

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 9
6. Đóng góp mới của luận văn..................................................................... 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .................................................................... 9
8. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 10
NỘI DUNG .........................................................................................................11
Chương 1. XÂY DỰNG NÔNG THƠN MỚI Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH
QUYỀN CẤP XÃ Ở HÀ NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ... 11
1.1. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử và xây dựng nông thôn mới ở Việt
Nam hiện nay ............................................................................................ 11
1.1.1. Đặc điểm của nông thôn Việt Nam trong lịch sử .......................... 11
1.1.2. Nông thôn mới và những nội dung cơ bản trong xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam hiện nay ............................................................... 20
Nông thôn mới ở Việt Nam ................................................................... 20
1.1.3. Những yếu tố tác động đến xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện
nay ......................................................................................................... 28
1.2. Chính quyền cấp xã và chính quyền cấp xã ở tỉnh Hà Nam............. 32
1.2.1. Đặc điểm của cấp xã và vị trí, vai trị, chức năng của chính quyền
cấp xã .................................................................................................... 32
1.2.2. Khái quát về tỉnh Hà Nam và chính quyền cấp xã ở tỉnh Hà Nam42
Kết luận chương 1 ..............................................................................................51
ii


Chương 2: VAI TRỊ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRONG XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG,
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP ................................................52
2.1. Thực trạng vai trị của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn
mới ở Hà Nam hiện nay ........................................................................... 52
2.1.1. Vai trị của chính quyền cấp xã trong triển khai, tổ chức thực hiện
xây dựng nông thôn mới ở Hà Nam ...................................................... 52

2.1.2. Vai trị của chính quyền cấp xã trong kiểm tra, giám sát q trình
xây dựng nơng thơn mới ở Hà Nam ....................................................... 57
2.1.3. Vai trị của chính quyền trong sự phối kết hợp với các Đoàn thể cấp
xã trong xây dựng nông thôn mới ở Hà Nam ......................................... 62
2.2. Hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với chính quyền cấp xã trong xây
dựng nơng thơn mới ở Hà Nam ................................................................. 67
2.2.1. Hạn chế của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở
Hà Nam ................................................................................................. 67
2.2.2. Những vấn đề đặt ra đối với chính quyền cấp xã đối với quần
chúng nhân dân trong xây dựng nông thôn mới ở Hà Nam .................... 76
2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hơn vai trị của chính
quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở Hà Nam............................ 81
2.3.1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ và quần chúng nhân dân về
xây dựng nông thôn mới ........................................................................ 81
2.3.2. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền và các tổ chức
trong hệ thống chính trị cấp xã để xây dựng nơng thơn mới ................... 84
2.3.3. Nâng cao tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ cấp xã trong
xây dựng nông thôn mới ........................................................................ 87
Kết luận chương 2 ..............................................................................................91
KẾT LUẬN .........................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................95
iii


BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH

Chủ nghĩa xã hội


HĐND

Hội đồng nhân dân

NĐ – CP

Nghị định - chính phủ

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

TW

Trung ương

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm đa số trong dân

cư. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, nông dân chiếm hơn 90 % dân số,
đến nay nông dân vẫn chiếm khoảng 70% dân số cả nước. Vì vậy, phát triển
nơng nghiệp, xây dựng nơng thơn hiện đại có vị trí chiến lược quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời là nền tảng bảo đảm
phát triển kinh tế bền vững, ổn định chính trị, an ninh quốc phịng, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn vừa nhằm phát huy vai trị chiến lược của kinh tế nông
nghiệp và đội quân chủ lực nông dân đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
làm nền tảng vững chắc cho xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa nhằm nâng cao
đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần và xây dựng người nơng dân mới - người
nơng dân xã hội chủ nghĩa. Qua đó, nâng cao hơn nữa vị thế của giai cấp nông
dân trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của nơng nghiệp, nơng dân,
nơng thơn đối với q trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm, chăm lo đến vấn đề này. Điều đó
được thể hiện thơng qua các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đối với vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn mà tiêu biểu là Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày
05/8/2008 tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về
nơng nghiệp, nông dân, nông thôn với mục tiêu: Xây dựng nơng thơn mới có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý, gắn nơng nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch
vụ, đô thị theo quy hoạch. Xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc, dân trí được nâng cao, mơi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống
chính quyền cấp xã ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
1


Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đất nước ta đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.., trong đó, nổi lên vấn đề rất quan

trọng là xử lý mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới
hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới chính trị nhằm thực
hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo động lực cho đổi mới và phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở nước ta. Đổi mới
hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay phải đặc biệt chú trọng tới việc đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở theo tinh thần Nghị quyết
Hội nghị Trung ương năm khóa IX.
Trong hệ thống quản lý bốn cấp ở nước ta, cấp xã thuộc cấp cơ sở, là
cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị, quản lý địa bàn nơng thơn. Cấp xã có
vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng, gắn liền nơng nghiệp, nông thôn và nông
dân. Tỉnh Hà Nam hiện nay có 117 đơn vị cấp cơ sở, trong đó có 100 xã, 7 thị
trấn, 10 phường. Như vậy, trong số đơn vị cấp cơ sở của tỉnh Hà Nam, cấp xã
là chủ yếu, chiếm tới 85% đơn vị cấp cơ sở. Trong quá trình đổi mới đất
nước, đặc biệt là đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị, hệ thống chính
quyền cấp xã ở tỉnh Hà Nam đang tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, hoạt
động cũng như đội ngũ cán bộ. Trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện
chương trình xây dựng nơng thơn mới, chính quyền cấp xã có vai trị đặc biệt
quan trọng.
Mặc dù vậy, hoạt động hệ thống chính quyền cấp xã vẫn cịn nhiều hạn
chế nhất là trong xây dựng nơng thơn mới. Cụ thể là, tổ chức bộ máy của hệ
thống chính quyền cịn nhiều bất cập, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong q trình
xây dựng nông thôn mới. Sự phân công và phối hợp giữa chính quyền với tổ
chức Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội chưa cụ thể, rõ ràng, minh bạch.
Cơng tác tổ chức cán bộ tiến hành cịn chậm, chưa kiên quyết. Năng lực và
2


trình độ của cán bộ chưa đáp ứng được chức năng nhiệm vụ. Tình trạng quan
liêu, tham nhũng, mất đồn kết nội bộ vẫn còn xảy ra ở một số nơi. Một bộ

phận cán bộ cấp xã thối hóa, biến chất vừa vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân vừa tham ơ, tham nhũng làm mất lịng tin trong nhân dân.
Những hạn chế, yếu kém trên của hệ thống chính quyền đã và đang tác
động khơng nhỏ đến q trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh nói
chung và q trình xây dựng nơng thơn mới nói riêng. Điều này đặt ra yêu cầu
khách quan cho việc nhận thức đúng đắn vai trò của hệ thống chính quyền cấp
xã trong việc xây dựng nơng thơn mới. Đồng thời có những quan điểm, giải
pháp phù hợp để đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ
sở nơng thơn Hà Nam nhằm phát huy những thế mạnh của tỉnh, hạn chế
những yếu kém, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống cho nhân dân ở nơng thơn. Xây dựng nơng thơn mới và hệ thống
chính quyền cấp xã ở nông thôn là những vấn đề quan trọng, bức xúc hiện
nay, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu một cách nghiêm túc cả trên lĩnh vực lý
luận và thực tiễn để giải quyết kịp thời những khó khăn ở chính cơ sở.
Xuất phát từ những lý do trên, tơi chọn vấn đề “Vai trị của chính quyền
cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở Hà Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Trong những năm gần đây, có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận văn. Các cơng trình đó được chia thành hai nhóm vấn đề:
Thứ nhất, nghiên cứu về chính quyền cấp xã, có một số cơng trình tiêu
biểu sau:
"Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
trong giai đoạn hiện nay ở nước ta", của tác giả Bùi Tiến Quý, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Ở cơng trình này, Tác giả đã trình bày khá rõ cơ
cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, vai trò của các bộ phận trong bộ máy chính
3


quyền cấp cơ sở, qua đó cho thấy hoạt động của chính quyền cấp cơ sở ở địa

trong giai đoạn hiện nay.
"Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã" của hai tác giả Thang
Văn Phúc và Chu Văn Thành, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban Tổ
chức Cán bộ chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Các tác giả đã
khái quát đặc điểm, chức năng của chính quyền cấp xã và vai trị của chính
quyền trong việc quản lý nhà nước ở địa phương. Từ đó thấy được chức năng
nhiệm vụ của đội ngũ chính quyền cấp xã, tổ chức chính quyền ở địa phương
là nơi trực tiếp điều hành quản lý ở nơng thơn.
"Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam", do tác giả
Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Cuốn
sách tập hợp các bải tham luận của các nhà khoa học và quản lý Nhà nước
trình bày trong Hội thảo khoa học về kiến nghị các giải pháp cải cách hành
chính giai đoạn 2001- 2005 của Học viện Hành chính quốc gia. Đồng thời,
cuốn sách cuãng đã phân tích các tiến trình cải cách hành chính ở nước ta
những năm qua, nguyên nhân, những hạn chế, kiến nghị một số giải pháp cơ
bản thúc đẩy cải cách hành chính của Việt Nam trong thời gian tới.
"Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay", của hai tác giả Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thơng (chủ biên),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các tác giả đã trình bày, phân tích quy
chế dân chủ ở cấp cơ sở việc tổ chức, thực hiện quy chế dân chủ ở cấp cơ sở,
đánh giá những kết quả, hạn chế, bất cập trong thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở trong giai đoạn hiện nay.
“Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp”, của tác
giả Vũ Hồng Cơng, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2002. Cơng trình
này đã phân tích một cách khoa học - thực tiễn về đặc điểm của hệ thống
chính trị cấp cơ sở đồng thời dự báo xu hướng vận động của hệ thống đó. Từ
đó đề xuất nhiều giải pháp có giá trị để phát huy vai trị của hệ thống chính trị
cấp cơ sở ở nước ta.

4



“Hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn nước ta hiện nay”, của tác giả
Hồng Chí Bảo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2005. Cơng trình này đã
đi sâu phân tích đặc điểm của cấp cơ sở, thực trạng cơ cấu tổ chức và của hệ
thống chính trị ở cơ sở nơng thơn, từ đó đề ra những quan điểm và giải pháp
nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở
nơng thơn…
Các cơng trình nghiên cứu trên đây đã đi vào tìm hiểu những khía cạnh
khác nhau của hệ thống chính trị ở cơ sở, phân tích, lý giải về yêu cầu và cách
thức tổ chức, hoạt động để đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở.
Thứ hai, nghiên cứu về xây dựng nơng thơn mới, có một số cơng trình
tiêu biểu như sau:
“Những quy định pháp luật và công tác văn hóa xã hội ở cơ sở và xây
dựng nơng thơn mới”, của tác giả Bùi Văn Thấm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2003. Cơng trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập và giới thiệu các
quy định của Nhà nước về cơng tác văn hóa xã hội và quy định về nông thôn
mới, về việc xây dựng nông thôn mới ở các vùng miền của đất nước, trong đó,
nhấn mạnh miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
“Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau hai mươi năm đổi mới - quá khứ
và hiện tại” của tác giả Nguyễn Văn Bích, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
năm 2000. Cuốn sách này tác giả đã phân tích những sự thay đổi cơ bản trong
cơ cấu kinh tế nơng nghiệp và đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn
Việt Nam sau hơn hai mươi năm đổi mới.
“Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam”, của tác giả
Nguyễn Hữu Tiến, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội năm 2007. Cuốn sách là tập
hợp các công trình nghiên cứu của tác giả trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở
nơng thơn. Qua đó thấy được những tồn tại và hạn chế của việc phát triển kinh
tế xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay.

5


“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau”, của
chuyên gia nghiên cứu về nông nghiệp, nơng thơn Việt Nam, tác giả Đặng
Kim Sơn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008. Cơng trình này đã nêu
lên thực trạng các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay,
những thành tựu cũng như những khó khăn, vướng mắc cịn tồn tại. Xuất phát
từ thực tiễn đó, tác giả đã đề xuất những định hướng và kiến nghị chính sách
nhằm đưa nơng nghiệp, nơng dân, nông thôn ngày càng phát triển.
“Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp
Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Từ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2008. Cơng trình này khơng chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản về hội nhập
kinh tế quốc tế, các hiệp định thương mại khu vực và tồn cầu liên quan đến
nơng nghiệp nói chung và đến ngành nơng nghiệp Việt Nam nói riêng, những
ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nơng nghiệp Việt Nam
trong thời gian qua, mà cịn nêu lên quan điểm và những giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển nền nông nghiệp nước ta trong xu hướng hội nhập quốc tế.
“Xây dựng nông thôn mới những vấn đề lý luận và thực tiễn”, do tác giả
Vũ Văn Phúc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2012. Cơng
trình này là tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan
Trung ương, địa phương, các ngành, các cấp về xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam, gồm những vấn đề lý luận chung về nông thôn mới, kinh nghiệm
quốc tề về xây dựng nông thôn mới, thực tiễn và kết quả bước đầu trong xây
dựng nông thôn mới ở một số địa bàn trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các địa
bàn thí điểm xây dựng nơng thơn mới.
“Nhìn lại hơn 3 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới: Kết quả và một số bài học kinh nghiệm” của Phó Thủ tướng,
Trưởng ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới,
Tạp chí Cộng sản, (số 94), năm 2014, tr.8-14. Bài viết đã trình bày những kết

quả quan trọng bước đầu trong hơn 3 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu
6


quốc gia xây dựng nông thôn mới căn cứ và 19 tiêu chí của nơng thơn mới.
Đồng thời bài viết cũng khái quát những ưu điểm, hạn chế, vướng mắc từ các
cấp chính quyền địa phương, cơ chế, chính sách, văn bản hướng dẫn thực hiện
đến nguồn vốn đầu tư cho Chương trình, từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ
yếu tiếp túc đẩy mạnh thực hiện Chương trình xây dựng nơng thơn mới trong
thời gian tiếp theo…
Ngồi các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trên, vấn đề nơng nghiệp, nông
thôn, nông dân và vấn đề xây dựng nông thơn mới cịn là tiêu điểm trong
nhiều tạp chí như tạp chí Nơng thơn mới, tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí
Nghiên cứu lý luận… với nhiều bài viết như: Bài viết của tác giả Thanh An
đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 278 (kỳ 1, tháng 9/2010) với nhan đề “Gỡ
thế cho “tam nông” phát triển là cơ hội để nông dân làm giàu”. Bài viết đã đề
cập đến các ý kiến khác nhau trong việc tạo hướng đi mới cho nông nghiệp,
nông dân Việt Nam hiện nay.
Bài viết của tác giả Hải Sơn đăng trên tạp chí Nông thôn mới số 279 (kỳ
2, tháng 9/2010) với nhan đề “Thi đua xây dựng nông thôn mới việc lớn phải
làm đến cùng”. Bài viết đã đề cập đến vai trị, tầm quan trọng của việc xây
dựng nơng thơn mới đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Đắc đăng trên tạp chí Nơng thơn mới số
290 (kỳ 1, tháng 3/2011) với nhan đề: “Kiện toàn Ban chỉ đạo xây dựng nông
thôn mới từ Trung ương đến cơ sở”. Trong bài viết này, tác giả chủ yếu đề cập
đến việc củng cố, kiện toàn ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới từ Trung
ương đến cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng nông thôn
mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết của tác giả Hồng Chương đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng số
3/2011 với nhan đề: “Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ xã trong việc quy hoạch

xây dựng nông thôn mới ở Thái Bình”. Trong bài viết này, tác giả đã đi sâu
7


phân tích vai trị của Đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong việc quy
hoạch xây dựng nơng thơn mới…
Ngồi ra cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu và bài viết khác về hệ thống
chính quyền cấp xã và vấn đề xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.
Các cơng trình nghiên cứu mặc dù đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau
của hệ thống chính trị cấp cơ sở, vấn đề nơng nghiệp, nơng dân, nông thôn và
vấn đề xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay, tuy nhiên, việc nghiên
cứu vai trị của hệ thống chính quyền cơ sở ở từng địa phương vẫn cịn rất
khiêm tốn. Đặc biệt, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống vai trị của chính quyền cấp xã đối với việc xây dựng nơng thơn mới ở
Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Từ vị trí vai trị của chính quyến cấp xã, luận văn trình bày
thực trạng thực hiện vai trị của chính quyền cấp xã trong xây dựng nơng thơn
mới ở Hà Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trị của
chính quyền cấp cơ sở, đáp ứng u cầu xây dựng nông thôn mới ở địa
phương hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trình bày đặc điểm nơng thơn Việt Nam và những nội dung cơ bản
trong xây dựng nơng thơn mới ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích các yếu tố tác động đến xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.
- Khái qt vai trị của chính quyền cấp xã và vai trị của chính quyền cấp
xã ở Hà Nam.
- Trình bày thành tựu và hạn chế trong thực hiện vai trị của chính quyền
cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở Hà Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của chính quyền cấp xã

trong việc xây dựng nơng thơn mới ở Hà Nam hiện nay.
8


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được triển khai nghiên cứu trên cơ sở quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vai trị của chính quyền cấp xã. Đồng thời, luận văn
cũng kế thừa những kết quả của các cơng trình nghiên cứu trước về chính
quyền cấp xã và vai trị của chính quyền cấp xã đối với việc xây dựng nông
thôn mới.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn...
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vai trị của chính quyền cấp xã trong xây dựng
nông thôn mới ở Hà Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát vai trò của
chính quyền cấp xã trong việc xây dựng nơng thơn mới từ năm 2009 đến nay
ở Hà Nam.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn làm rõ vai trò của chính quyền cấp xã trong xây dựng nơng
thơn mới ở Hà Nam, từ đó đề ra một số giải pháp cho việc phát huy hiệu quả
việc xây dựng nông thôn mới ở Hà Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ những khía cạnh lý luận về
vai trị của chính quyền cấp xã trong xây dựng nơng thơn mới ở Việt Nam
hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan
tới chính quyền cấp xã. Đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo để tuyên

truyền đối với công tác xây dựng nông thôn mới ở các địa phương, trong đó
đưa ra những bất cập của đội ngũ chính quyền cấp xã và một số giải pháp
9


nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của bộ máy chính quyền cấp xã trong xây
dựng nơng thơn mới hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.

10


NỘI DUNG
Chương 1. XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH
QUYỀN CẤP XÃ Ở HÀ NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Nông thôn Việt Nam trong lịch sử và xây dựng nông thôn mới ở Việt
Nam hiện nay
1.1.1. Đặc điểm của nông thôn Việt Nam trong lịch sử
Theo quan niệm thông thường nông thôn là địa bàn sinh sống của một
bộ phận dân cư, chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, tức là nông
dân. Nông thôn cũng được dùng để chỉ một khu vực kinh tế trong xã hội kinh tế nông nghiệp. Nghiêng về khía cạnh văn hóa, xã hội, thì nơng thơn là
một mơi trường xã hội, là khơng gian văn hóa mà ở đó những yếu tố văn hóa,
đặc điểm xã hội truyền thống được duy trì khá lâu trong lịch sử.
Tuy nhiên, quan niệm chính thức về nơng thơn cũng có nhiều ý kiến
khác nhau, tùy theo căn cứ và phương pháp nhất định. Theo tổ chức Nông
lương Liên Hiệp Quốc (FAO), có hai phương pháp chính định nghĩa nơng
thơn. Phương pháp thứ nhất, căn cứ vào đặc điểm và dùng phép loại trừ dựa
vào khái niệm đối lập với nơng thơn là thành thị. Theo đó, thành thị được xác

định là tất cả những trung tâm của huyện, tỉnh, thành phố, các vùng cịn lại
được hiểu là nơng thơn. Nông thôn là nơi tập trung hầu hết những lao động
chủ yếu là nơng nghiệp. Các làng, xã đều có đặc điểm là xa những trung tâm
kinh tế xã hội cho nên đời sống kinh tế xã hội của nông thôn thường lạc hậu
hơn nhiều so với thành thị. Sự khác biệt lớn giữa thành thị và nơng thơn đó là
lao động, nghề nghiệp, mức độ thu nhập và về dịch vụ. Về mặt xã hội sự
khác biệt giữa nông thôn và thành thị thể hiện trong lối sống, giao tiếp, văn
hóa, gia đình, mật độ dân số, nhà ở. Về mặt môi trường nông thôn là môi
trường sống gần gũi với tự nhiên. Nhấn mạnh từ góc độ xã hội nông thôn
cũng như đô thị đều là những hệ thống xã hội, cộng đồng xã hội có đặc trưng
11


riêng biệt, như những xã hội thu nhỏ, trong đó có đầy đủ các yếu tố, các vấn
đề xã hội và các thiết chế xã hội.
Phương pháp thứ hai, sử dụng mức độ tập trung dân số, và cũng bằng
phép loại trừ để xác định nông thôn. Theo cách này, dân số ở thành thị sống
thành cụm quan sát được. Trong một vùng có các hộ gia đình sống gần nhau
tạo nên cộng đồng lớn hơn một số nhất định nào đó, ví dụ 2000 người thì
được coi là thành thị, khu vực cịn lại là nơng thơn. Phương pháp này đã đưa
ra một giới hạn xác định rõ ràng. Tuy nhiên, giới hạn này rất khác nhau theo
từng quốc gia.
Theo những phương pháp trên, nông thôn được xác định dựa vào khái
niệm đối lập với nó là thành thị và mới chỉ căn cứ vào một vài tiêu chí nhất
định. Cách này chưa cho thấy được đầy đủ nội hàm khái niệm nơng thơn.
Ngồi ra, một số quốc gia sử dụng cách tính mức độ sẵn có của các loại
hình dịch vụ để xác định vùng thành thị, phần cịn lại là nơng thơn. Phương
pháp này thích đáng ở quan điểm phân tích nghèo đói, bởi sự thiếu vắng các
dịch vụ cần thiết thường đi kèm với đói nghèo. Theo đó, nơng thơn là khu vực
kém phát triển so với thành thị, là khu vực mà các dịch vụ cần thiết cho nhu

cầu của con người thường không đầy đủ.
Ở Việt Nam, theo phương pháp thứ nhất để phân định nông thôn và
thành thị. Nông thôn, theo quy định về hành chính và thống kê của Việt Nam
là những địa bàn thuộc xã (những địa bàn thộc phường hoặc thị trấn được quy
định là khu vực thành thị)” [Dẫn theo 50; tr. 121 -122]. Trong điều kiện hiện
nay ở nước ta, nhìn nhận dưới góc độ chính trị- xã hội, có thể hiểu nơng thơn
là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó phần lớn là nơng dân. Tập
hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi
trường trong một thể chế nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác.
Nông thôn Việt Nam là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về
điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội, thành phần tộc người, văn hóa, là nơi bảo
12


tồn, lưu giữ các phong tục, tập quán của cộng đồng người Việt. Trong lịch sử
phát triển của dân tộc, nơng thơn Việt Nam đã có sự chuyển biến khá toàn
diện biểu hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong sự
chuyển biến đó, vẫn có thể thấy những yếu tố ổn định, để phân biệt sự khác
nhau giữa nông thôn với đô thị (nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị
trấn):
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế ở nơng thơn Việt Nam mang tính thuần nơng,
trình độ cá thể, tiểu nơng và kinh nghiệm.
Do sự đa dạng về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, thời tiết, nên nông
thôn Việt Nam cũng mang tính vùng rõ rệt, Nơng thơn vùng miền núi, nơng
thơn vùng trung du (ven đồi), nông thôn vùng ven song (đồng bằng) và nông
thôn vùng ven biển (dọc ven bờ biển Đông và hải đảo). Giữa các vùng nông
thôn này có sự khác nhau nhất định trong phương thức lao động sản xuất, sinh
sống. Tuy nhiên, bên cạnh sự khác biệt, vẫn có mẫu số chung là kinh tế nơng
nghiệp - trồng trọt và chăn ni, trong đó, trồng trọt có sự vượt trội hơn so với
chăn ni. Nghề trồng trọt và chăn nuôi là phương thức sinh tồn chủ yếu của

cư dân nông thôn Việt Nam. Do vậy, trong tâm thức người Việt cổ thì, thứ
nhất canh trì (ao), thứ nhì canh viên (vườn), thứ ba canh điền (ruộng). Ngồi
trồng trọt và chăn ni, ở một số vùng nơng thơn Việt Nam cịn có các nghề
thủ cơng, nghề bn. Tuy vậy, cư dân ở các làng nghề vẫn có ruộng, vườn,
ao, chứ không tách hẳn khỏi nghề nông. Nghề nơng được đề cao so với cơng,
thương, thậm chí, việc bn bán có lúc bị coi khinh. Nhìn vào xã hội Việt
Nam trong lịch sử, nông thôn lấn át đô thị, đơ thị khơng thốt khỏi sự chi phối
của nơng thôn.
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là lao động phụ thuộc nhiều vào tự
nhiên, chịu sự chi phối, ác động bởi những biến đổi của thời tiết. Đối tượng
của sản xuất nơng nghiệp là động, thực vật sống, địi hỏi sự chăm sóc tỉ mỉ
với kỹ thuật khơng hồn tồn giống với các ngành kinh tế cơng nghiệp. Mặt
13


khác, trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu chính, giữ vai trị quyết
định. Quy mơ đất đai là cơ sở để cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Kỹ
thuật canh tác nông nghiệp ở Việt Nam nhìn chung kém phát triển cùng với
sự phân tán về đất đai là sơ sở nảy sinh tính chất cá thể, sự phân tán trong lao
động sản xuất ở nông thơn Việt Nam. Vì vậy khi nói đến nơng thơn Việt Nam
trong lịch sử, thì khơng ít người người nghĩ đến hình ảnh con trâu đi trước,
cái cày theo sau. Đó cũng là hình ảnh khái qt về cánh thức lao động sản
xuất truyền thống của nông dân và ở nơng thơn Việt Nam.
Với trình độ sản xuất, lao động cá thể, thì tất yếu thói quen, kinh
nghiệm, tập qn nhiều đời được sử dụng như nguyên tắc trong lao động sản
xuất ở nông thôn Việt Nam. Kinh nghiệm về xem thời tiết, kinh nghiệm trồng
trọt, kinh nghiệm chăn nuôi… Những kinh nghiệm này được cư dân khái quát
và lưu truyền từ đời này qua đời khác. Tuy nhiên, nguyên tắc này dẫn đến tệ
sùng bái kinh nghiệm, cản trở việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong quá
trình lao động sản xuất. Do vậy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như

lao động sản xuất ở nơng thơn Việt Nam lạc hậu, trì trệ.
Phù hợp với sự phân tán về ruộng đất, trình độ lao động cá thể, phân
tán, cách thức tổ chức lao động sản xuất ở nông thôn Việt Nam là tự cấp, tự
túc. Sản phẩm làm ra chủ yếu để thảo mãn nhu cầu tiêu dùng của gia đình, địa
phương. Các thức tổ chức lao động này chính là một yếu tố kìm hãm sự phát
triển của nơng thơn Việt Nam trong lịch sử.
Trải qua các thời kỳ cách mạng của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng
về phát triển nông nghiệp- nông dân- nông thôn qua chủ trương hợp tác hóa
nơng nghiệp bậc thâp, bậc cao những năm 60 của thế kỷ XX, đến thực hiện
“khốn” trong nơng nghiệp và chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thôn, bộ mặt nông thôn Việt Nam ngày càng thay da đổi thịt, cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn bước đầu có sự chuyển dịch gắn liền với

14


q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong đó, sản xuất nơng nghiệp có xu hướng giảm, sản xuất
cơng nghiệp và dịch vụ tăng lên. Tổ chức sản xuất trong nông nghiệp chuyển
từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, sự chuyển biến đó mới chỉ
diễn ra ở một số địa bàn chứ không phải là tồn bộ khu vực nơng thơn Việt
Nam. Do vậy, sự khác biệt giữa nông thôn và đô thị vẫn biểu hiện rõ nét ở kết
cấu kinh tế mang tính thuần nông của nông thôn.
Thứ hai, thiết chế quản lý xã hội ở nơng thơn Việt Nam thể hiện tính
cộng đồng và tự trị cao
Cùng với sự phát triển cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông
nghiệp, thiết chế quản lý xã hội ở nông thôn Việt Nam cũng có sự thay đổi
tương ứng. Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là trong các thiết chế quản lý xã
hội ở nông thôn Việt Nam bao giờ cũng tồn tại song song hai loại tổ chức.
Các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội dân sự. Các tổ chức chính

trị- xã hội là tổ chức của nhà nước, là công cụ để giai cấp cầm quyền thể hiện
và thực hiện quyền lực của mình. Các tổ chức xã hội dân sự (phe, giáp, dòng
họ, phường hội…) là các tổ chức tự nguyện của cư dân nơng thơn, do dân sự
tổ chức, có tính độc lập tương đối, thể hiện tính tự quản của cư dân và nhằm
bảo vệ lợi ích của họ. Các tổ chức này tồn tại như hai thực thể, nhưng không
tách biệt với nhau mà có sự hỗ trợ nhau trong quản lý xã hội ở nông thôn.
Hoạt động của các tổ chức đó, đặc biệt, sự tồn tại của các tổ chức xã
hội dân sự, cho thấy tính cộng đồng và tính tự trị ở nơng thơn cao hơn so với
khu vực đô thị. Điều này được lý giải trước tiên từ điều kiện sản xuất nông
nghiệp trồng lúa nước buộc người dân nông thôn phải liên kết với nhau chống
hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh… bởi vì đã “lụt thì lụt cả làng”. Mặt khác, đơn vị tụ
cư của cư dân nơng thơn Việt Nam là làng (bản, bn, sóc…). Làng dường
như một xã hội khép kín, bị hạn chế bởi các mối quan hệ quẩn quanh trong
lũy tre làng, như quan hệ gia đình, họ mạc và rộng hơn là làng xóm. Chính
15


trong các quan hệ ấy, tính cộng đồng được củng cố. Theo nhà nghiên cứu Hà
Văn Tấn: “Làng là đơn vị cộng cư có một vùng đất chung của cư dân nơng
nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội nơng nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc, mặt
khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nơng,
với gia đình - tơng tộc gia trưởng, đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã
hội nông nghiệp” [54. Tr.130]. Từ điều kiện kinh tế và xã hội ấy, tính cộng
đồng của cư dân nơng thơn hình thành và củng cố, trở thành một đặc trưng
tâm lý nổi bật, một giá trị văn hóa của người Việt Nam nói chung và cư dân
nơng thơn nói riêng. Tính cộng đồng như một sợi dây thắt chặt mối quan hệ
xã hội ở nông thôn, là chỗ dựa vững chắc cho mỗi cá nhân. Nó cũng tạo ra
sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh với những thất thường của thiên nhiên
cũng như mọi sự xâm lược từ bên ngồi. Tuy nhiên, với tính cộng đồng, đơi
khi “cái tơi” bị xóa nhịa trong “cái ta” - làng, xu hướng đồng nhất các giá trị

xã hội chi phối xã hội nơng thơn. Tính cộng đồng, khi bị đề cao quá mức dẫn
đến chủ nghĩa bình quân, cào bằng, và tâm lý “xấu đều hơn tốt lỏi”. Bên cạnh
đó, với môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, điều kiện sản xuất nhỏ, phân tán
đã tạo cho người dân chỉ lo thu vén cho mình, gia đình, dịng họ, làng mình,
lâu dần thành thói quen, nếp sống và mang sắc thái cục bộ địa phương,
“Trống làng nào làng ấy đánh, Thánh làng nào làng ấy thờ”. Tính cộng đồng
của cư dân nơng thôn được thể hiện ở sự ra đời của các tổ chức xã hội dân sự
trong nông thôn, như gia đình, dịng họ, thơn xóm, phường hội, các tổ chức
hợp tác của nhân dân về kinh tế, xã hội … với những quy ước nhất định của
từng tổ chức. Các tổ chức ấy, ở những mức độ nhất định, đã tham gia vào việc
quản lý xã hội, quản lý con người ở nơng thơn.
Cũng chính sự tồn tại của các tổ chức xã hội dân sự đó, cho thấy, đi đơi
với tính cộng đồng là tính tự trị, tự quản của cư dân nơng thơn, đồng thời thể
hiện tính độc lập của các tổ chức xã hội dân sự so với các thiết chế chính trị xã hội nơng thơn. Với hoạt động và quy ước cụ thể của các tổ chức đó, cho
16


thấy “nước có luật của nước”, “làng có luật của làng”, “nhà nước có pháp luật
quy định, cịn dân có những điều ước riêng”. Đôi khi, “phép vua thua lệ làng”.
Tính tự trị, tự quản của nơng thơn Việt Nam biểu hiện rõ nét nhất ở hương
ước của mỗi làng. Hương ước, một mặt, là công cụ để quản lý xã hội ở nơng
thơn. Mặt khác, hương ước cịn là công cụ để nhà nước can thiệp vào xã hội
nông thơn, quản lý xã hội nơng thơn hay nói cách khác, là trung gian mà qua
nó pháp luật của nhà nước mới vào được xã hội nông thôn.
Trong điều kiện phát triển hiện nay, các tổ chức dân sự có xu hướng
phục hồi và phát triển. Đó cũng là lẽ tự nhiên, bởi nó phù hợp với nhu cầu xã
hội phong phú và phức tạp. Từ vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong
quản lý xã hội ở nông thôn Việt Nam, cho thấy, ngày nay, để quản lý tốt xã
hội nơng thơn, cần có sự kết hợp hài hịa giữa tổ chức chính trị - xã hội của
Đảng và Nhà nước với các tổ chức có tính chất tự quản ở nơng thơn.

Thứ ba, đời sống văn hóa - tinh thần ở nơng thơn Việt Nam mang đậm
dấu ấn của nền văn minh nông nghiệp
Nếu như văn minh là tìm cách hịa mình vào dịng chảy không ngừng
của nhịp độ phát triển đi lên với thế giới thì tìm về văn hóa lại là cú lội ngược
dịng vào trong tâm khảm để tìm lại những giá trị bền vững, truyền thống, tinh
hoa được kết tụ ngàn năm trong mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Khơng có một đất nước nào chỉ cơng nghiệp hóa, lãng qn vào việc giữ gìn
văn hóa mà có thể tồn tại cân đối và lâu dài. Và có lẽ, trên thế giới này, chẳng
một dân tộc nào chịu phải trả một cái giá quá đắt khi đánh rơi đi cái tơi riêng,
khn mặt riêng, cá tính riêng của họ. “Cái tơi văn hóa”, hay người ta vẫn gọi
là bản sắc văn hóa ấy , tiêu tốn khơng biết bao nhiêu giấy mực mà vẫn còn là
một dấu hỏi lớn. Cho nên là nông thôn Việt Nam cũng là nơi có một cách
thức sinh hoạt văn hóa rất riêng. Khu vực nông thôn lưu giữ và bảo tồn nhiều
di sản văn hóa của đất nước như các phong tục tập quán cổ truyền về đời
sống, lễ hội, sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề truyền thống, các di tích

17


lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh. Đây chính là nơi chứa đựng kho
tàng văn hóa dân tộc, đồng thời là khu vực giải trí và du lịch sinh thái phong
phú hấp dẫn đối với trong và ngoài nước. Nơng thơn Việt Nam hiện cịn lưu
giữ khá nhiều phong tục tập quán cần chú tâm tìm hiểu. Trong số rất nhiều
những phong tục mang giá trị truyền thống, có những làng có hầu như tất cả,
có những làng cịn lại vài phong tục chính, nhưng hầu như người nơng dân
nào cũng khẳng định sức mạnh, tính tích cực của phong tục, tập tục trong sinh
hoạt văn hóa ở nơng thơn. Về tập tục hiện có ở nơng thơn, người dân chú ý lễ
mừng thọ, cúng gia tiên, cúng ông công ông táo, tục lên lão, cúng thổ địa,
cúng thành hoàng, lệ khuyến học, lệ bán con cho chùa, tục kết chạ, hội thi đọc
sử làng, lễ thôi nôi… Như vậy, có thể thấy trong sự phong phú, thậm chí phức

tạp của sự tồn tại các tập tục tại nơng thơn, có sự tập trung tơn vinh một số tục
đẹp, phù hợp với truyền thống sinh hoạt và văn hóa truyền thống như: lễ
mừng thọ, lễ cúng gia tiên, tục lên lão, thờ thành hồng, lệ khuyến học. Đó là
xu hướng cần được hỗ trợ, khuyến khích. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cần
xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng để loại bỏ dần những hủ tục vẫn còn đây đó
trong đời sống sinh hoạt làng xã, trong đó các hình thức sinh hoạt văn hóa dân
gian, đặc biệt là cầu cúng, hủ tục trong lễ hội…
Trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự phát triển kinh tế xã hội,
văn hóa nơng thơn đang đứng trước những thuận lợi cơ bản cũng như những
thách thức không nhỏ. Sự biến động về quy luật phát triển và thực trạng biểu
hiện của kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn vẫn đang diễn ra một cách
nhanh chóng và chắc chắn sẽ có những thay đổi trong tất cả những yếu tố đã
nêu. Nhưng dù có biến đổi thế nào, thì với những gì được thể hiện, văn hóa
nơng thơn cả nước nói chung vẫn giữ được cho mình những hằng số văn hóa.
Đó là sinh hoạt văn hóa mang đậm nét dấu ấn, phong vị văn hóa văn minh
nơng nghiệp trồng lúa nước với cơ cấu tổ chức xã hội thơn làng tương đối
khép kín, nay có điều kiện để trở thành một pháo đài, xây dựng đời sống văn
18


hóa cơ sở; là sự bền vững phong phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa dân
gian thơn làng kết hợp với sự gia tăng ngày càng nhiều hình thức sinh hoạt và
hưởng thụ văn hóa hiện đại, tạo điều kiện cho người dân sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa nhiều hơn, cao hơn; là dân trí ngày càng được nâng cao bởi sự
phát triển kinh tế hộ, kinh tế làng, khiến mức sống của người dân tăng lên khá
ổn định, tạo điều kiện gia tăng khả năng học tập, dịch chuyển, giao tiếp dưới
nhiều hình thức; là ý chí vươn lên của người nơng dân trong tất cả các lĩnh
vực học tập vốn có truyền thống từ xưa (với lệ khuyến học); là rất nhiều nét
đẹp trong giao tiếp, ứng xử, thực hành văn hóa của người nơng dân… Với

hành trang văn hóa ấy người nơng dân đang tự nâng mình để xây dựng nơng
thơn mới theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày càng giàu đẹp, cơng
bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện đại, có mặt bằng dân trí và
văn hóa cao. Đây cũng là một đặc điểm rất khác biệt của nông thôn Việt Nam
và cũng là điều kiện để nông thôn phát triển những thế mạnh của mình. Nhằm
góp phần vào nhiệm vụ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nơng thơn.
Thứ tư, quan hệ xã hội ở nông thôn Việt Nam bị chi phối bởi quan hệ
huyết thống, dòng họ
Làng là một cộng đồng dân cư của nơng dân. Mỗi làng có một đình là
là nơi sinh hoạt của cộng đồng dân cư. Mỗi làng có một phong tục tập qn
thậm chí cả giọng nói khác nhau. Trong làng có một số dịng họ cùng sinh
sống. Một số vùng có nghề thủ cơng, người dân trong làng có thể làm một
ngành nghề nhất định. Trong mỗi làng cịn có những tổ chức nhỏ về tuổi tác,
nghề nghiệp của những người cùng làm nghề thủ công hay buôn bán, về học
thức… Trong hệ thống các mối quan hệ đó bất cứ người nào cũng tìm thấy vị
trí của mình trong một mảng của cộng đồng và có thể thỏa mãn nhu cầu về
mặt này hay mặt khác và chấp nhận những thiếu hụt. Trong quan hệ ứng xử
giữa con người với con người ở nông thôn Việt Nam, các hành vi của mỗi cá

19


×