Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ 1954 TIỂU LUẬN MÔN HỌC ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.27 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NHÓM: TIẾN LÊN –LỚP: LSĐ-N02
----------

BÀI BÁO CÁO
TÊN ĐỀ TÀI
CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ 1954

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn: Phan Nguyễn Khánh Long
Nhóm thực hiện: Nhóm Tiến Lên

Danh sách thành viên:

1


Mục lục

Số Trang

Tóm tắt

3

Mở đầu


3

Lí do chọn đề tài

3

Nhiệm vụ nghiên cứu

4

Nội dung nghiên cứu

4

Kết quả nghiên cứu

5

Nội dung

5

Bối cảnh

5

Nguyên nhân dẫn đến chiến trang

6


Diễn biến

6

Kết quả

9

Đường lối chỉ đạo của đảng

9

Bài học kinh nghiệm

12

Kết luận

15

Danh mục tài liệu tham khảo

16
Huế, ngày 01 tháng 06 năm 2021

MỤC LỤC

2



TÓM TẮT
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong 55 ngày đêm, nhưng các trận đánh không diễn ra
liên tục mà được chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ ngày 13 đến 17-3-1954, quân ta đã tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc
Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp
sân bay Mường Thanh; Pi rốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo
binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.
Giai đoạn 2: Từ ngày 30-3 đến 30-4-1954, quân ta đồng loạt tiến cơng các cứ điểm phía
Đơng phân khu trung tâm; thắt chặt vịng vây, chia cắt, kiểm sốt sân bay Mường Thanh, hạn
chế tiếp viện của địch cho Tập đồn cứ điểm.
Đây là đợt tấn cơng dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành
giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1, ta và địch giằng co
nhau tới 20 ngày và đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện

3


Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất
tinh thần cao độ.
Giai đoạn 3: Từ ngày 1 đến 7-5-1954, ta đánh dứt điểm dãy đồi phía Đơng và tổng tiến
cơng tiêu diệt các vị trí cịn lại, bắt sống Tướng De Castries, kết thúc chiến dịch.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64
ô tô và tồn bộ vũ khí, đạn dược, qn trang qn dụng của địch
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

"Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị
áp bức trên thế giới".

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân
1953-1954 là chiến cơng lớn nhất, chói lọi nhất của tồn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Chiến thắng này góp phần
quyết định đập tan hồn tồn dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc
chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh ở Đông Dương, mở ra một thời kỳ
mới cho cách mạng Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, góp phần quan trọng đối với phong trào
giải phóng dân tộc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa to lớn, là sự kết tinh
của nhiều nhân tố, trong đó, quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh; của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, của ý chí quyết chiến, quyết thắng và sức mạnh của Quân
đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời là
chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân
3 nước Đông Dương và sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn bè quốc tế.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của các

4


nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
của phong trào đấu tranh vì hịa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: Các
dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết
đồn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. chủ động tạo nên sự
chuyển hóa căn bản về thế và lực, làm cho sức ta càng đánh càng mạnh và đẩy quân địch vào
tình thế ngày càng khốn đốn, phải đầu hàng vô điều kiện.
Chiến thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ cịn bắt nguồn từ tình đồn kết trong sáng, thủy
chung của nhân dân và quân đội 3 nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia trên một chiến hào
chống kẻ thù chung và sự ủng hộ chí tình, to lớn, có hiệu quả về vật chất và tinh thần của các

nước xã hội chủ nghĩa anh em cùng với sự cổ vũ, động viên của các nước bạn bè, các đảng
cùng chí hướng, của nhân loại tiến bộ dành cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đều là
những nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần làm nên chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ.
2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Làm rõ nguyên nhân dẫn đến chiến tranh và nắm bắt những diễn biến của trận chiến.
- Phân tích đường lối chỉ đạo của Đảng trong trận chiến.
- Thống kê kết quả và rút ra bài học kinh nghiệm.
3. NỘI DỤNG NGHIÊN CỨU

- Bối cảnh lịch sử của nước ta giai đoạn trước trận chiến.
- Nguyên nhân dẫn đến trận chiến.
- Diễn biến cuộc chiến giữa ta và địch.
- Kết quả.
- Bài học kinh nghiệm.
- Đường lối chỉ đạo của Đảng trong suốt thời gian chiến tranh.

5


4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Từ nguồn tài liệu, các sách báo tham khảo, hình ảnh, video clip kí sự liên quan,
nhóm đã viết lại bằng sự hiểu biết của mình những thơng tin của trận chiến, song vì có
những thơng tin địi hỏi sự chính xác cao nên có những phần nội dung nhóm xin phép
trích dẫn tồn bộ ngun văn từ các nguồn.
NỘI DUNG
1. BỐI CẢNH

1. Về phía địch:

Vì kế hoạch Na-va không thực hiện được theo dự kiến, Pháp quyết định xây dựng Điện Biên
Phủ thành một tập đồn cứ điểm mạnh nhất Đơng Dương, với lực lượng lúc cao nhất lên đến
16.200 quân, được bố trí thành một hệ thống phòng thủ chặt chẽ gồm 49 căn cứ điểm.
Pháp và Mỹ đều đưa Điện Biên Phủ là “ pháo đài bất khả xâm phạm”. Điện Biên Phủ trở
thành địa điểm trung tâm của kế hoạch Nava.
2. Về phía ta:
Từ tháng 11-1953 đến tháng 2- 1954, bộ đội ta liên tục mở các cuộc tiến công ở Tây Bắc,
Trung Lào, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào và các chiến trường phối hợp khác. Chiến thắng đó
đã làm cho kế hoạch Na-va của địch đứng trước nguy cơ bị phá sản.
Đã giành được thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, vùng giải phóng đã mở rộng,
hậu phương đã lớn mạnh, quân đội ta đã trưởng thành, có đủ tinh thần và lực lượng đảm bảo
cho việc giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ.
Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở chiến dịch Điện Biên Phủ, nhằm tiêu
diệt lực lượng địch ở đây, giải phóng Tây Bắc tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh
ngoại giao để kết thúc chiến tranh.

6


Ta đã huy động đại bộ phận lực lượng chủ lực tham gia chiến dịch gồm 4 đại đoàn bộ binh
( 308, 312, 316, 304), một đại đoàn pháo binh, nhiều tiểu đồn cơng binh, thơng tin, vận tải,
qn y,…thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương và các cấp để đảm bảo chi viện
cho tiền tuyến, trong một thời gian ngắn có khoảng 55 nghìn qn, hàng chục tấn vũ khí, đạn
dược, 27 nghìn tấn gạo… được đưa ra mặt trận. Như vậy, Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết
chiến chiến lược của quân dân Việt Nam.

2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CHIẾN TRANH.

Về phía Pháp: Sau gần 9 năm kháng chiến Pháp bị tổn thất lớn và sa lầy ở Đông Dương,
Quân đội VNDCCH đã chiếm phần lớn miền núi phía Bắc, Liên khu 3, Liên khu 5 và phần

lớn ĐBSCL. Điện Biên Phủ là một cứ điểm chiến lược án ngữ cửa ngõ Tây Bắc đồng bằng
Bắc bộ, Thượng Lào.
Được Mĩ giúp sức pháp tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành một “Pháo đài bất khả
xâm phạm” gồm hơn 16 tiểu đồn lính Âu-Phi lúc cao nhất tới 16200 quân, dài 10km rộng
5km trang bị hiện đại gồm súng phun lửa, súng đại liên nhiều nịng có thiết bị quan sát và bắn
vào ban đêm. Pháp và Mĩ cịn tun bố rằng nếu tấn cơng vào Điện Biên Phủ chủ lực Việt
Minh sẽ bị nghiền nát.
- Về phía Việt Nam: Kể từ sau năm 1950 do nối thông biên giới với Trung Quốc, lại
được sự viện trợ quân sự to lớn của Trung Quốc và Liên Xô, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã
lớn mạnh rất nhiều, với các sư đoàn (đại đoàn) bộ binh và các trung đồn pháo binh, cơng
binh đã có kinh nghiệm đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn của quân Pháp trong phịng ngự kiên cố.
Trong khi đó qn đội ta đã trưởng thành có cơ sở kinh nghiêm và sở trường đánh địch ở
vùng rừng núi , hậu phương của ta đã vững mạnh , có thể đảm bảo viện binh cho chiến trường
Do vậy , sau sự so sánh tương quan lực lượng thì tháng 3-1954 chúng ta bắt đầu chiến dịch
Điên Biên Phủ và dành được thắng lợi to lớn. Đây là trận quyết chiến chiến lược của
QĐNDVN.
3. DIỄN BIẾN

– Diễn biến chiến dịch chia làm 3 đợt:
7


Đợt 1: ( từ 13-3 đến 17-3-1954): tiến công địch ở phân khu Bắc, tiêu diệt cứ điểm Him
Lam, Độc Lập, buộc địch ở Bản Kéo phải ra hàng.
– Ngày 13-3-1954: Lúc 17 giờ 5 phút , Đại tướng Võ Nguyên Giáp hạ lệnh mở màn chiến
dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của trận đầu tiên là Him Lam. Vào 20 giờ 30 phút, Đại đoàn
312 báo cáo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
– Ngày 15-3-1954:3 giờ 30 phút, trận tiến công đồi Độc Lập bắt đầu (trễ khoảng 10 tiếng
đồng hồ, do trời mưa lớn cản trở việc chuyển pháo). Vào 6 giờ 30 phút, cờ Quyết Chiến
Quyết Thắng bay trên đỉnh đồi.

– Ngày 17-3-1954: vào buổi sáng, quân địch bỏ chạy khỏi đồi Bản Kéo. Quân địch mất
Him Lam, đồi Độc Lập, đồi Bản Kéo, phân khu bắc của tập đồn cứ điểm Điện Biên Phủ
khơng cịn tồn tại. Đợt 1 chiến dịch kết thúc. Ta bố trí lực lượng cắt lìa Hồng Cúm ra khỏi
phân khu trung tâm và bắt đầu xây trận địa chiến hào tiến công khu trung tâm.
Đợt 2: ( từ 30-3 đến 26-4-1954): liên tiếp mở nhiều cuộc tiến công đánh vào các vị trí
phịng thủ phía Đơng phân khu trung tâm cứ điểm , gồm hệ thống phòng thủ trên các dãy đồi
A1, D1, C1,E1, Mỹ phải tăng cường viện trợ khẩn cấp cho Pháp ở Đông Dương.
– Ngày 30-3-1954: đúng 18 giờ, đợt tiến cơng thứ hai vào tập đồn cứ điểm Điện Biên Phủ
bắt đầu.
– Ngày 31-3-1954: Địch phản kích hịng chiếm lại C1, D1, E1, nhưng hồn tồn thất bại. Ở
đồi A1, trung đoàn 102 của Đại đoàn 308 tới thay 174 của binh đoàn 316, khoảng 18 giờ tiến
đánh đỉnh đồi, đánh suốt đêm, không thành công.
– Ngày 1-4-1954: 5 giờ sáng ngày 1-4, quân tăng viện địch tới đồi A1, cùng lực lượng đồn
trú còn lại trên đỉnh đồi bắt đầu phản kích. Quân ta giữ vững. Đến đêm ta lại đánh lên đỉnh
đồi, vẫn không thành cơng.
– Ngày 2-4-1954: Địch tiếp tục phản kích ở đồi A1. Ta vẫn giữ được phần đồi đã chiếm,
nhưng tạm ngưng tiến cơng lên đỉnh để bảo tồn lực lượng. Cũng ngày này, ở cứ điểm 311
phần lớn quân địch đầu hàng, một số bỏ chạy, ta chiếm mà không phải đánh.

8


– Ngày 6-4-1954:Hội nghị sơ kết đợt 2 quyết định ta sẽ tiếp tục đánh tiêu diệt các điểm cao
phía đơng, siết chặt vịng vây, tiến hành đánh chiếm sân bay trung tâm để vừa tiêu hao sinh
lực địch vừa khủng bố tinh thần chúng.
– Ngày 10-4-1954: Vào khoảng 6 giờ sáng, địch mở một cuộc tiến công với chi viện hỏa
lực rất lớn nhằm chiếm lại đồi C1.
– Ngày 11-4-1954: Vào khoảng 2 giờ sáng, sau gần một ngày một đêm giao tranh cực kỳ
ác liệt, quân ta tiến xuống sườn phía đơng của đồi C1, tổ chức phịng ngự.
– Ngày 12-4-1954: 11 giờ 40 phút, pháo bắn rơi chiếc máy bay thứ 50. Đó là chiếc B24

chở đầy bom chưa kịp thả. Lượng thuốc nổ chiến lợi phẩm lớn này dự định được đưa vào cuối
đường hầm đang đào trên đồi A1.
– Ngày 15 đến ngày 18-4-1954: Căn cứ điểm 105 bảo vệ phía bắc sân bay Mường Thanh
bị quân ta uy hiếp. Địch huy động ba tiểu đoàn để cố giải tỏa áp lực, nhưng thất bại. Đêm 18,
trung đồn 165 xóa sổ cứ điểm này.
– Ngày 19 đến ngày 22-4-1954: vào buổi sáng, trung đoàn 36 tiến cơng cứ điểm 206 bảo
vệ phía tây sân bay Mường Thanh. Ngày 23-4, Đờ Cát cho bộ binh theo xe tăng tới phá chiến
hào của ta, nhưng bị chống cự kịch liệt, phải rút lui.
– Ngày 23-4-1954: vào buổi trưa, địch dùng 12 máy bay chiến đấu ném bom và 4 máy bay
B26 chuyên ném bom bắt đầu đánh phá khu vực cứ điểm 206.
– Ngày 27-4-1954: Pháp tiến hành Chim kền kền cổ khoang, đưa quân từ Lào sang giải
vây cho Điện Biên Phủ. Quân viện địch mới tới gần Mường Khoa đã bị bộ đội phục kích đánh
tan, hốt hoảng tháo chạy về Lào.
– Ngày 29-4-1954: với khoảng một tháng trời cân nhắc, cơ bản do không thuyết phục được
đồng minh, Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao-ơ quyết định ngừng kế hoạch Chim kền kền thả bom
nguyên tử xuống quân ta ở Điện Biên Phủ.
– Cuối tháng 4-1954: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với một nhà báo người Úc về quân Pháp ở
chiến dịch Điện Biên Phủ: Họ khơng thể thốt.

9


Đợt 3: (từ 1-5 đến 7-5-1954): đồng loạt tiến công tiêu diệt các điểm dễ kháng của địch.
Chiều 7-5-1954 , quân ta đánh vào sở chỉ huy của địch, 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954 tướng
Đờcátxtơri cùng toàn bộ ban tham mưu của địch bị bắt.
– Ngày 1-5-1954: 17 giờ, đợt tiến cơng thứ ba vào tập đồn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt
đầu.
– Ngày 2-5-1954: 2 giờ sáng, trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) tiêu diệt hoàn toàn hai cứ
điểm 505 và 505A ở phía đơng sơng Nậm Rốm. Cũng sáng ngày 2, ở Hồng Cúm, trung đoàn
57 ( Đại đoàn 304) ép địch phải rút chạy khỏi khu C.

– Ngày 4-5-1954: Đờ Cát họp các sĩ quan cao cấp dưới quyền mình, phổ biến kế hoạch
“Hải âu lớn. Đêm ngày 4, ở phía tây trung đồn 36 (Đại đoàn 308) tiêu diệt căn cứ điểm
311B.
– Ngày 6-5-1954: 20 giờ, pháo ta bắn vào A1, C2 ở phía đơng, 506 phía bắc, 310 phía tây.
Ở phía tây, trung đồn 102 (Đại đoàn 308) tiêu diệt căn cứ điểm 310.
– Ngày 7-5-1954:Trước khi trời sáng, trung đoàn 174 ( 316 ) làm chủ hoàn toàn đồi A1.9
giờ 30 sáng, trung đoàn 98 (316) chiếm đồi C2. Bộ chỉ huy khu đông và rất nhiều sĩ quan bị
bắt sống.Vào 14 giờ, trung đồn 209 (312) lại bắt đầu tiến cơng cứ điểm 507. Lần này quân
địch nhanh chóng tan rã và phân tán. Trung đoàn 209 thừa thắng đánh tiếp qua 508, rồi
509.Vào 15 giờ, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh tổng cơng kích vào Mường Thanh.Vào 17 giờ
30, Đại đoàn 312 báo cáo toàn bộ quân địch tại khu trung tâm đã đầu hàng, các chiến sĩ đại
đội 360 tiểu đoàn 130 đã bắt được tướng Đờ Cát, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.
4. KẾT QUẢ

Trong Đông – Xuân năm 1953-1954, loại khỏi vòng chiến đấu 128.200 quân địch, thu
19.000 súng, bắn rơi và phá hủy 162 máy bay, giải phóng nhiều vùng rộng lớn trong cả nước.
Riêng tại mặt trận Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 địch, bắn rơi và phá hủy
62 máy bay, thu tồn bộ vũ khí và đồ dùng qn sự.
Thắng lợi của cuộc tiến công Đông – Xuân năm 1953-1954, và chiến dịch Điện Biên Phủ
đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava của Pháp,Pháp bị giáng đòn nặng nề không dám xâm

10


lược Việt Nam lần nữa, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo cơ sở thực lực về quân sự,
chính trị cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ, kết thúc cuộc kháng chiến.
Là đỉnh cao của truyền thống bất khuất, ý chí quyết tâm “ thà hy sinh tất cả chứ không
chịu khuất phục mất nước, không chiu làm nô lệ” của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt
Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ không phải là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà nó là thắng

lợi của các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cổ vũ
tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh chống
chủ nghĩa thực dân Đế quốc.
5. ĐƯỜNG LỐI CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG

Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của lòng yêu nước, trí tuệ và tinh thần quyết
chiến, quyết thắng quân và dân ta; là minh chứng về đường lối lãnh đạo sáng suốt, tài tình của
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo nhạy bén, chính xác của Tổng Quân
ủy trong chiến dịch quyết chiến chiến lược, làm nên bước ngoặt lớn trong tiến trình lịch sử
dân tộc, đồng thời, có ý nghĩa quốc tế và thời đại hết sức sâu sắc và to lớn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi
rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc
khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”. Những giá trị lịch sử của Chiến thắng
Điện Biên Phủ đã và đang đóng góp vào thành cơng của cơng cuộc đổi mới, xây dựng đất
nước hiện nay.
1.Nhận rõ âm mưu và thủ đoạn của đối phương.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta. Sau 8 năm
(1945-1953) tiến hành chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp đã mất hàng chục vạn sĩ quan và
binh lính. Chính trường nước Pháp khủng hoảng trầm trọng, phong trào đấu tranh của nhân
dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương ngày càng mạnh mẽ. Đế quốc Mỹ
tăng cường can thiệp vào không giấu diếm tham vọng hất cẳng Pháp tại Đông Dương, gánh
trên 70% chiến phí, thúc thực dân Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược theo ý
đồ của Mỹ. Trước những thất bại liên tiếp về quân sự và chính trị ở Đơng Dương thực dân
Pháp đứng trước hai con đường: hoặc phải thắng trong chiến tranh, hoặc phải chịu thua và đề
11


nghị Mỹ nhảy vào thay thế. Chính phủ Pháp chủ trương xin thêm viện trợ của Mỹ, tập trung
mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hịng tìm lối thốt bằng thắng lợi quân sự.

Tháng 5 năm 1953, Tướng Hăng-ri Na-va, Tham mưu trưởng lục quân của khối Bắc Đại
Tây Dương được cử làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Na-va vạch
một kế hoạch quân sự tồn diện trong 18 tháng, hịng chuyển bại thành thắng. Trọng tâm của
kế hoạch này là tổ chức khối chủ lực cơ động tập trung tiêu diệt chủ lực của Việt Minh. Kế
hoạch tác chiến của Na-va chia thành 2 bước: Bước 1: từ Thu đông 1953 - Xuân 1954, giữ thế
phịng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở phía Bắc, thực hiện tiến cơng chiến lược ở phía
Nam nhằm chiếm đóng vùng tự do của ta ở Khu 5 (Nam Trung Bộ) và ở Hậu Giang (Nam
Bộ); Bước 2: từ mùa thu 1954, tập trung toàn bộ lực lượng tác chiến trên chiến trường phía
Bắc, giành thắng lợi quyết định.
Sau những địn chủ động tiến cơng đầu tay bị chặn lại, phát hiện quân ta chuyển hướng lên
Tây Bắc, Na-va lập tức cho đổ quân xuống Điện Biên Phủ vào ngày 20-11-1953. Tiếp đó,
ngày 3-12-1953, Na-va hạ quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ trở thành một tập đoàn cứ điểm
mạnh, hịng nghiền nát các đại đồn chủ lực của Việt Minh. Thung lũng Điện Biên Phủ trở
thành nơi thể hiện ý chí xâm lược và nỗ lực cao nhất, niềm hy vọng lớn nhất của thực dân
Pháp hòng thay đổi cục diện cuộc chiến.
2. Xác định đúng phương châm chiến lược
Kế hoạch quân sự Na-va và sự xuất hiện tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thật sự là một
thách thức lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Nắm rõ ý định chiến lược của đối
phương, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã xây dựng chủ trương đối phó trên khắp các mặt
trận. Phương hướng tiến công chiến lược của Đảng trong Đông Xuân 1953-1954 được hoạch
định ngay sau Chiến dịch Tây Bắc (cuối năm 1952). Tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa II) họp từ ngày 25 đến 30 tháng 1 năm 1953, Đảng đã vạch ra
phương hướng chiến lược, quyết tâm tác chiến và tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong chiến cuộc
Đông Xuân 1953-1954. Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày bản báo cáo
quan trọng, phát triển và cụ thể hóa đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đường
lối kháng chiến của Đảng. Người nhấn mạnh hai nhiệm vụ chủ yếu để đưa kháng chiến đến
thắng lợi: Một là, chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến
lược; Hai là, phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất.

12



Về chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) xác định:
Một là, phương hướng chiến lược của ta là tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực
lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch mở rộng vùng tự do, tạo điều kiện giải phóng hồn tồn
Bắc Bộ.
Hai là, phương hướng tác chiến của quân đội ta là phải đánh địch ở những nơi chúng sơ hở,
đồng thời đẩy mạnh hoạt động mạnh sau lưng địch; tập trung lực lượng mở những cuộc tiến
công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ
phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó
với ta.
Ba là, về tư tưởng chỉ đạo tác chiến: Khơng chủ quan khinh địch, khơng nóng vội, không
mạo hiểm, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng, khơng
chắc thắng thì kiên quyết không đánh.
Bốn là, tăng cường bộ đội chủ lực và xây dựng bộ đội địa phương, các vùng tự do và vùng
căn cứ du kích đi đơi với xây dựng dân qn du kích khơng thốt ly sản xuất để trấn áp bọn
phản động, giữ gìn trị an, bảo vệ lợi ích quần chúng, phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực.
Trên cơ sở tổng kết sâu sắc những kinh nghiệm chỉ đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân trong những năm kháng chiến đã qua, để sẵn sàng làm thất bại những
âm mưu và hành động xâm lược mới của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Tháng 9 năm 1953,
Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phê chuẩn
phương án tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954 do Tổng Quân ủy trình bày với hướng tiến cơng
chiến lược: Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên và vùng Trung - Hạ Lào; đẩy mạnh hoạt động ở
vùng sau lưng địch, tạo điều kiện giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.
Bộ Chính trị đề ra phương châm hoạt động cho bộ đội ta là: Tích cực, chủ động, cơ động,
linh hoạt, sẵn sàng đánh địch trong mọi tình huống. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến là: Đánh
chắc thắng, đánh tiêu diệt, chọn nơi địch sở hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà
đánh. Giữ vững chủ động, kiên quyết buộc định phải phân tán lực lượng. Tiêu diệt sinh lực
địch, bồi dưỡng lực lượng ta.


13


Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp xem xét Phương án tác chiến mùa
Xuân năm 1954, do Tổng Quân ủy báo cáo. Tại hội nghị, Bộ Chính trị quyết định mở chiến
dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ được thành
lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng, kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận.
Ngày 20-12-1953, Bộ Chính trị họp nghe Tổng Qn ủy báo cáo tình hình chiến sự và tình
hình Điện Biên Phủ, thơng qua chủ trương, kế hoạch quân sự và chính thức hạ quyết tâm tiêu
diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Quyết định chọn Điện Biên Phủ là nơi đối đầu trực diện
với quân Pháp là một quyết định lớn, thể hiện bản lĩnh của Đảng ta, mở ra bước ngoặt quyết
định của cuộc kháng chiến.
3. Chỉ đạo quyết đánh và quyết thắng
Công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được xúc tiến rất khẩn trương và dồn dập.
Trước lúc, các đơn vị bộ đôi tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ ra mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết thư động viên cán bộ, chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ (12-1953) phải: “Chiến đấu
anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh”.
Ngày 5-1-1954, Sở chỉ huy tiền phương lên đường ra mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới
đánh, không chắc thắng không đánh”(4). Thấu triệt quyết tâm chiến lược và phương châm
đánh chắc thắng của Đảng, căn cứ vào thực tế chiến trường, sau 11 ngày đêm suy nghĩ, ngày
26-1-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh”
sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định trên đã được Đảng ủy mặt trận trao đổi,
đồng ý và ngày 30-1-1954, được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và Bộ
Chính trị phê chuẩn.
Trung ương Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm chỉ đạo các ngành, các địa phương hoàn
thành nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tháng 2-1954, Bộ Chính trị đã có những Chỉ
thị quan trọng tập trung cao độ sức mạnh về mọi mặt để hoàn thành mục tiêu của chiến dịch.
Ngày 19-4-1954, bám sát diễn biến chiến dịch Bộ Chính trị ra Nghị quyết: “Về tiếp tục thấu

triệt phương châm đánh chắc, đề cao quyết tâm tích cực giành toàn thắng cho chiến dịch Điện
Biên Phủ”, yêu cầu bộ đội giữ vững phương châm chiến đấu, không chủ quan khinh địch.
Sư lãnh đạo toàn diện, sâu sát, đúng đắn và sáng tạo của Đảng, Chủ tịch Hồ chí Minh trong
cuộc chiến đấu tổng lực với kẻ thù là yếu tố quyết định đưa đến thắng lợi Đông - Xuân 195314


1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ “được ghi vào
lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi
vào lịch sử thế giới như một chiến cơng chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nơ dịch thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc”
6. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã để lại nhiều bài học và những kinh nghiệm quý giá không
chỉ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta mà còn cả trong công cuộc đổi
mới của đất nước hôm nay.
Một là: Bài học về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đồng lịng chung sức
khắc phục mọi khó khăn gian khổ đánh bại kẻ thù.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy để xây dựng
và phát huy hiệu quả khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta phải đưa ra được mục tiêu chung cho
cách mạng Việt Nam và hướng tất cả mọi người vào mục tiêu chung đó. Mục tiêu chung của
chiến dịch Điện Biên Phủ là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo tiền đề
cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là tất cả
vì "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" và để thực hiện thắng lợi mục tiêu
trên, trước hết mọi người Việt Nam phải xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, đặt lợi ích của quốc
gia, dân tộc lên trên tạo ra sự ổn định chính trị và sự đồng thuận trong xã hội. Đảng cần chú
trọng bảo đảm quyền lợi chính đáng của cộng đồng, giải quyết hài hịa giữa lợi ích của các
giai tầng trong xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai là: Bài học về phát huy nội lực, đề cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, quyết
tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ để giành chiến thắng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với một đội quân "đầu trần, chân đất, súng

thô", quân đội ta đã đánh bại đội quân nhà nghề với "xe tăng, đại bác, máy bay, tàu chiến hiện
đại", sở dĩ chúng ta làm được điều này là vì ngay từ đầu của cuộc kháng chiến với đường lối
kháng chiến của quân đội ta là "toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và dựa vào
sức mình là chính". Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay, hơn bao giờ hết, theo
tinh thần Điện Biên Phủ, phải phát huy tinh thần độc lập tự chủ, dám nghĩ dám làm, giám chịu
trách nhiệm, phải hết sức coi trọng xây dựng sức mạnh nội lực, đó chính là sức mạnh tổng
hợp từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước, vai trò của
15


MTTQ và các đồn thể chính trị - xã hội, tinh thần và sức mạnh của nhân dân Việt Nam yêu
nước ở trong và ngoài nước. Để tạo ra nội lực to lớn và bền vững của đất nước phải đặc biệt
chú trọng và chăm lo tới công tác xây dựng Đảng, chăm lo xây dựng nền dân chủ nhân dân,
nắm bắt thời cơ, khắc phục nguy cơ, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị đưa đất nước phát
triển bền vững.
Ba là: Kế thừa và phát triển bài học về tôn trọng thực tế, nắm vững quan điểm thực tiễn,
kịp thời sáng tạo trong hành động để đạt được mục đích cao nhất.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh, Đảng ủy mặt trận Điện
Biên Phủ đã kiên quyết, mưu lược đưa ra thay đổi cách đánh ngay cả khi đã triển khai thành
nghị quyết. Đây là bài học rất có ý nghĩa đối với Đảng và nhân dân ta hiện nay. Hiện nay, tình
hình thế giới và trong nước vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn thách thức, Đảng ta
đang đứng trước nhiều vấn đề mới cần phải xử lý, nhiều việc hết sức phức tạp. Trong tình
hình ấy, địi hỏi Đảng phải vững vàng về chính trị, tư tưởng, năng động sáng tạo, nhạy bén,
phân tích kịp thời để hoạch định chính sách, điều chỉnh mục tiêu và cách thức phát triển đất
nước sao cho phù hợp với xu thế chung của thời đại. Luôn bám sát vào sự vận động của thực
tiễn, kịp thời phân tích, phát hiện ra những vấn đề mới, tổng kết thực tiễn, phát triển sáng tạo
lý luận chính là những yếu tố cơ bản để bảo đảm Đảng ta lãnh đạo đường lối đổi mới đúng
đắn và thành công.
Bốn là: Bài học về sự tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự ủng
hộ, giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè quốc tế.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bên cạnh liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào Campuchia thì cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam còn nhận được sự động
viên, sự ủng hộ giúp đỡ to lớn của các nước anh em, bạn bè và nhân dân tiến bộ u chuộng
hịa bình trên thế giới như Liên Xô, Trung Quốc, kể cả nhân dân Pháp và đã góp phần quan
trọng vào thắng lợi của nhân dân ta. Ngày nay trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
đã mở ra những thời cơ mới đồng thời cũng là những thách thức đối với các quốc gia nhất là
đối với các nước nhỏ, các nước đang phát triển. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, phương
hướng hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam được khẳng định đó là: "Chú
trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng, thúc đẩy hợp
tác với các nước lớn, đối tác quan trọng". Đây là một hướng ưu tiên hàng đầu trong hoạt động
đối ngoại nhằm tạo lập mơi trường hịa bình, ổn định. Sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế -

16


xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam rất cần thiết phải "Giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân, nâng cao vị thế , uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hịa bình độc
lập dân tộc và dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới" mà trước tiên là phải xây dựng được
mối quan hệ hịa bình, hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới. Trên
hướng này, Việt Nam chú trọng việc củng cố và phát triển tình đồn kết hữu nghị đặc biệt,
quan hệ hợp tác tồn diện với Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào, quan hệ láng giềng với
Campuchia và Trung Quốc. Việt Nam luôn coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại
giao nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả", tăng cường quan
hệ song phương và đa phương với các tổ chức nhân dân các nước, hợp tác với các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế hơn 30 đổi mới đất nước, đường
lối đối ngoại của Đảng ta đã đem lại nhiều thành công to lớn, kinh tế đất nước khơng ngừng
phát triển, chính trị ổn định, ngoại giao mở rộng, quốc phòng, an ninh, chủ quyền đất nước
được giữ vững.

KẾT LUẬN

63 năm đã trôi qua, Chiến dịch Điện Biên Phủ (07.5.1954 - 07.5.2017) là một chiến dịch
điển hình trong lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta đánh thắng
quân viễn chinh Pháp có tiềm lực quân sự mạnh, vũ khí trang bị hiện đại. Chiến dịch Điện
Biên Phủ kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về Nhân dân Việt Nam. Chiến thắng vĩ đại ở
Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất
trong thế kỷ XX, mà ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ,
trái lại, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: Các
dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết
đồn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. Chân lý đó đã thơi thúc
và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng,
thốt khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Chiến thắng này đã làm thay đổi
cục diện thế giới, khẳng định sức mạnh chính nghĩa của Việt Nam, của Nhân dân yêu chuộng
hịa bình, độc lập trên thế giới.Do đó, cuối tập tiểu luận này, em xin được phép gửi lời cảm ơn
chân thànhđến Trường Đại Học Kinh Tế Huế, khoa Quản trị kinh doanh, đặc biệt là thầy
giảng viênPhan Nguyễn Khánh Long, đã tận tình truyền đạt kiến thức cho chúng em,
giúpchúng em nhận ra tầm quan trọng của chính trị, của sự lí luận, cho chúng em hiểu thếnào
là lý luận thật sự. Một lần nữa xin cảm ơn thầy.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954) />- Chiến dịch Điện Biên Phủ />%8Bch_%C4%90i%E1%BB%87n_Bi%C3%AAn_Ph%E1%BB%A7

18




×