Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên trường đại học công nghiệp thành phố hồ chí minh luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.76 KB, 107 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH



Biền Quốc Thắng

GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


Biền Quốc Thắng

GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH Bộ mơn chính trị
Mã số: 60.14.10

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Thế Định

TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2012


3

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU......................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG
NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH......................................................8
1.1. Lý tưởng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa...................................................8
1.1.1. Quan niệm về lý tưởng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.............................8
1.1.2. Những biểu hiện cơ bản lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở sinh viên............15
1.1.3. Những yếu tố cơ bản tác động đến lý tưởng xã hội chủ nghĩa của sinh
viên trong giai đoạn hiện nay......................................................................... 24
1.2. Vị trí, vai trị của sinh viên trong đời sống xã hội và tầm quan trọng
giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên trong giai đoạn hiện
nay...................................................................................................................31
1.2.1. Vị trí, vai trị của sinh viên trong đời sống xã hội................................ 31
1.2.2. Tầm quan trọng giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên trong
giai đoạn hiện nay............................................................................................35
Kết luận chương 1........................................................................................42

Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................................43
2.1. Tổng quan về Trường Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh................................................................................................................43
2.1.1. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trường Đại học Công nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh.............................................................................................43


4

2.1.2. Đặc điểm sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh...............................................................................................................47
2.2. Thực trạng giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Trường
Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh..........................................51
2.2.1. Những kết quả đạt được........................................................................52
2.2.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân................................................63
Kết luận chương 2.........................................................................................70
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.....................................................................71
3.1. Phương hướng giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên
Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh............................71
3.1.1. Xây dựng mơi trường kinh tế - xã hội lành mạnh.................................71
3.1.2. Giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên phải kết hợp giữa
giáo dục với tự giáo dục và các hoạt động thực tiễn......................................74
3.1.3. Kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục lý tưởng xã
hội chủ nghĩa cho sinh viên.............................................................................76
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục lý tưởng xã hội

chủ nghĩa cho sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh................................................................................................................79
3.2.1. Giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên phải gắn liền với
cuộc cách mạng tư tưởng, văn hóa..................................................................79
3.2.2. Nâng cao vai trị, trách nhiệm của Đảng bộ, Ban Giám hiệu, Phòng
Ban, Khoa, Viện, Trung tâm và các tổ chức đoàn thể trong việc giáo dục lý
tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên..............................................................81
3.2.3. Nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị...83
3.2.4. Nâng cao vai trị tự quản, tự giáo dục của sinh viên.............................86


5

3.2.5. Xây dựng hệ thống giá trị và giáo dục định hướng giá trị cho sinh viên
thông qua các hoạt động thực tiễn...................................................................87
3.2.6. Xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên vững mạnh..........90
Kết luận chương 3........................................................................................94
C. KẾT LUẬN...............................................................................................95
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................98


6

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln quan tâm đến sự nghiệp xây dựng lực lượng cách mạng. Người
không chỉ chăm lo xây dựng lực lượng trực tiếp gánh trên vai nhiệm vụ hiện
tại, mà cịn ln quan tâm, theo dõi, xây dựng đội ngũ kế cận, với mong muốn
lực lượng kế cận có đủ phẩm chất và bản lĩnh, đủ năng lực và trí tuệ để tiếp

tục phát triển sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước. Người đã đi xa,
song tư tưởng của Người về sự cần thiết phải “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau” [32; 834], với chân lý “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì
lơi ích trăm năm thì phải trồng người” đến hơm nay vẫn cịn ngun giá trị,
vẫn là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, có ý nghĩa chiến lược quan trọng cho
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ln
xác định vị trí, vai trị và tầm quan trọng của thế hệ trẻ đối với tương lai, vận
mệnh của đất nước. Luôn nhắc nhở chúng ta rằng: phải thường xuyên giáo
dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ, coi đó là một trong những nhiệm vụ chiến
lược quyết định sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Một trong những nội
dung quan trọng nhất của sự nghiệp giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ đó là giáo
dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đây là một nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách
trong giai đoạn hiện nay.
Lý tưởng xã hội chủ nghĩa có một vai trị to lớn, nó chi phối các phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống và nhân cách của sinh viên, với tư cách là
một trong những bộ phận ưu tú nhất của tuổi trẻ Việt Nam. Lý tưởng xã hội
chủ nghĩa không chỉ ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành động của sinh viên mà
cịn có vai trị dự báo, định hướng, xây dựng niềm tin cho sinh viên vào sự


7

thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản
Việt Nam và sự đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta.
Từ đó sinh viên sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp để vươn lên đạt được những
mục tiêu, hồi bão cao đẹp của mình.
Lý tưởng xã hội chủ nghĩa giờ đây đã trở thành hiện thực sinh động
trong cuộc sống. Tuy nhiên, kể từ khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,
cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt trên

phạm vi toàn thế giới, quá trình tồn cầu hóa đang diễn ra rất mạnh mẽ, âm
mưu thâm độc của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hịa bình”.
Cùng với đó là tính chất của thời kỳ quá độ, sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường và mặt trái của nó,… đã có tác động khơng nhỏ đến tâm tư,
tình cảm cách mạng của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có sinh
viên. Một bộ phận quần chúng nhân dân nói chung và sinh viên nói riêng đã
có những biểu hiện như: dao động, hoài nghi về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản; phai nhạt lý tưởng chủ nghĩa xã hội, từ đó có lối sống gấp
gáp, thực dụng, ít khát vọng và hồi bão. Do vậy, hơn lúc nào hết, việc giáo
dục, bồi dưỡng, phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên là một việc
làm có tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh là một trong
những trường đại học lớn của cả nước, có quy mơ đào tạo ngày càng tăng với
sự phát triển theo hướng đào tạo đa ngành, đa bậc học. Hàng năm nhà trường
đã cung cấp cho xã hội hàng ngàn lao động có tay nghề và chuyên môn cao.
Trong những năm qua, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
đã đạt được những thành tựu rất to lớn, nhà trường đã được Đảng, Nhà nước,
Chính phủ tặng nhiều phần thưởng cao quý. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đạt được trên lĩnh vực đào tạo chun mơn, nghề nghiệp cho sinh viên thì
cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhất là giáo dục lý
tưởng xã hội chủ nghĩa ở Trường Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí


8

Minh vẫn còn những hạn chế, chưa theo kịp với sự phát triển của nhà trường
và yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới.
Vì vậy, với mong muốn cống hiến một phần trí tuệ của mình vào sự
nghiệp trồng người mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện, với hy vọng góp
sức cùng tập thể cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường, đào tạo ra các thế

hệ sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh vừa
“hồng”, vừa “chuyên”, đủ“đức” và “tài” bổ sung vào nguồn nhân lực phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa, chúng tôi đã chọn đề tài: “Giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh
viên Trường Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cho thế hệ trẻ từ trước tới nay luôn được
các nhà kinh điển cũng như các nhà khoa học trong nước và ngoài nước đặc
biệt quan tâm, có thể kể ra một số các tác phẩm tiêu biểu như: V.I.Lênin
“Nhiệm vụ của đoàn thanh niên”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987; “Bác Hồ với sự
nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ”, Nxb Thanh niên, 1985; Đồn Nam Đàn “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008; Dương Tự Đạm “Giáo dục thanh niên kế thừa nhân cách Hồ Chí Minh
để trưởng thành và phát triển”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Trần
Quy Nhơn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau”, Nxb Giáo dục, 2005; “Mấy vấn đề về xây dựng lý tưởng cách mạng”
của Vũ Oanh (Tạp chí Cộng sản số 11 tháng 6 năm 1996, Tr. 3 - 6); “Thanh
niên với việc rèn luyện lý tưởng cách mạng” của Hữu Thọ (Báo Nhân dân số
15436 - 15437 ngày 1 và 2 - 10 - 1997),... Các tác giả nêu trên đều có điểm
chung là khẳng định vị trí, vai trị của tuổi trẻ đối với tương lai, vận mệnh của
đất nước. Các tác giả cũng đặt ra các yêu cầu, nhiệm vụ trong việc chăm lo,
giáo dục, định hướng lý tưởng cho thế hệ trẻ.


9

Những nghiên cứu về lý tưởng xã hội chủ nghĩa và giáo dục lý tưởng
xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ có các cuốn sách, luận văn, luận án như: “Về
thanh niên và công tác thanh niên” của Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Nguyễn

Văn Linh, Nxb Thanh niên, 1985; “Bảo vệ lý tưởng xã hội chủ nghĩa”, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991; “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện
nay”, Phạm Đình Nghiệp, Nxb Thanh niên, 2004; “Giáo dục đạo đức đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” của Trần Sỹ Phán, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện chính trị quốc gia,
1999; “Phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên Việt Nam hiện
nay” của Nguyễn Đức Tiến, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; “Xây
dựng bản lĩnh thanh niên hiện nay” do Hồ Bá Thâm (chủ biên), Nxb Thanh
niên, 2006; “Lối sống xã hội chủ nghĩa & xu thế toàn cầu hóa” của Thanh Lê
(chủ biên), Nxb Khoa học xã hội; “Cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho
sinh viên Việt Nam hiện nay” do Trần Thị Anh Đào (chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2010.
Ngồi ra cịn có các đề tài khoa học như: “Những giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên Đại học Vinh” do Đinh
Thế Định (chủ biên), đề tài cấp Bộ; “Những giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục truyền thống cho Thanh thiếu nhi Nghệ An” do Đoàn Minh Duệ (chủ
biên), đề tài cấp Tỉnh; “Đổi mới cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong
đồn viên thanh niên” (Báo Sài Gịn Giải Phóng, Ngày: 06/07/2000, Tr. 1);
“Cần giáo dục nhận thức, lý tưởng sống cho sinh viên” của Lê Đình Viên,
(Website Http://giaoduc.net.vn, Thứ năm 22/09/2011),…
Các cơng trình kể trên đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau
như: lý tưởng của thanh niên, vai trò của giáo dục đạo đức, truyền thống cho
thế hệ trẻ và từ đó đã đề ra các giải pháp để giáo dục, bồi dưỡng, phát triển
đạo đức, lối sống cũng như lý tưởng của thanh niên, học sinh, sinh viên thiết
thực, hiệu quả hơn trong giai đoạn hiện nay.


10

Như vậy chúng ta có thể nhận thấy rằng: các cơng trình kể trên mới

chỉ đề cập đến từng mặt, từng bộ phận. Hiện chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách đầy đủ, chuyên sâu và có hệ thống việc nâng cao giáo dục lý
tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, các cơng trình với những nội dung kể trên đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả kế thừa, phát triển để hoàn thành tốt luận
văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài nhằm mục đích nâng cao chất lượng công tác giáo
dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên, góp phần xây dựng thế hệ sinh
viên Việt Nam nói chung và sinh viên Trường Đại học Cơng nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai
đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, chỉ
rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của việc giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho
sinh viên Trường Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay.
- Điều tra, khảo sát công tác giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho
sinh viên tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục lý
tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Trường Đại học Cơng nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


11


Đề tài tập trung nghiên cứu về lý tưởng xã hội chủ nghĩa của sinh viên
và công tác giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Trường Đại học
Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu công tác giáo dục lý tưởng xã
hội chủ nghĩa cho sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh (hệ chính quy, tại cơ sở 1) trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn dựa trên cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về công
tác giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho
sinh viên nói riêng.
- Đồng thời tác giả luận văn còn sử dụng tổng hợp các phương pháp
khác như: phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể, logic và lịch sử, so
sánh và hệ thống cũng như điều tra xã hội học và thống kê,… để nghiên cứu
và trình bày luận văn.
6. Giả thuyết khoa học
Lý tưởng xã hội chủ nghĩa có một vai trị rất to lớn đối với sinh viên.
Vì vậy, nếu như những giải pháp của luận văn này được áp dụng, không chỉ
góp phần bồi dưỡng đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, lý tưởng sống cao
đẹp cho sinh viên, mà cịn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
của Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay và trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Những tiết và tiểu mục của luận văn có ý nghĩa trong việc nghiên
cứu vấn đề giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên, nhằm nâng cao



12

chất lượng công tác giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Trường
Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay và
những thời gian tới.
- Luận văn này có thể làm tài liệu phục vụ cho cán bộ nghiên cứu,
giảng dạy, cho các cấp ủy Đảng, cho tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên
trong việc giáo dục và rèn luyện sinh viên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương và 6 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa
cho sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực trạng giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh
viên Trường Đại học Cơng nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Trường Đại học Cơng
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.


13

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Lý tưởng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Quan niệm về lý tưởng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa
- Quan niệm về lý tưởng

Vấn đề lý tưởng đã được các nhà khoa học xét dưới nhiều góc độ khác
nhau, Từ điển Triết học quan niệm lý tưởng “là hình mẫu, sự hoàn thiện, mục
tiêu tối cao của ý nguyện và hoạt động thực tiễn, mơ hình tuyệt vời trong thực
tế đối với một cá nhân, một nhóm người hay một xã hội” [49; 686]. Còn Từ
điển Tiếng Việt cho rằng: lý tưởng là “Mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà
người ta phấn đấu để đạt tới” [40; 729].
Dưới góc độ triết học, lý tưởng là sự phản ứng đặc thù của hiện thực
khách quan vào ý thức của con người hoặc một nhóm xã hội nào đó dưới
dạng một hình mẫu, một mơ hình hồn thiện. Vì vậy, nội dung của lý tưởng
được quy định bởi các quan hệ sản xuất thống trị cùng với những đặc điểm
tinh thần, tâm lý của nhân cách.
Dưới góc độ tâm lý học, lý tưởng được xem là một bộ phận hợp thành
rất quan trọng của xu hướng nhân cách, cùng với đó là nhu cầu, sự hứng thú,
thế giới quan, niềm tin,… Vì vậy, lý tưởng đó là một mục tiêu cao đẹp, một
hình ảnh mẫu mực, một đối tượng hồn chỉnh, có sức lơi cuốn mọi con người
vươn tới.


14

Lý tưởng có đặc điểm vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn.
Tính hiện thực thể hiện ở chỗ, những hình ảnh lý tưởng bao giờ cũng được
xây dựng từ những hiện thực, nó có sức mạnh thúc đẩy con người hoạt động
để đạt được mục đích hiện thực đó. Cịn tính lãng mạn của lý tưởng thể hiện ở
mục tiêu của lý tưởng bao giờ cũng có cái gì đó có thể đạt được trong tương
lai, trong một chừng mực nào đó có thể vượt trước cuộc sống và được phản
ánh xu thế phát triển hợp quy luật của con người, của một nhóm xã hội hoặc
tồn xã hội. Do đó, tại một thời điểm nhất định, con người chỉ có khả năng
tiếp cận với lý tưởng, chứ khơng thể đạt tới nó một cách tuyệt đối.
Bên cạnh đó, lý tưởng cịn mang tính xã hội - lịch sử. Hoạt động của

con người bao giờ cũng diễn ra trong những điều kiện cụ thể của một xã hội
cụ thể. Sinh sống và hoạt động trong hoàn cảnh đó, mỗi con người thường
phân tích, chọn lọc, hệ thống và khái quát hóa hiện thực để đi đến xây dựng
cho bản thân mình một hình ảnh mẫu mực, hồn hảo, làm “kim chỉ nam” cho
mọi hoạt động của mình. Mặc dù lý tưởng là một bộ phận hợp thành của ý
thức con người, nhưng sự tồn tại của lý tưởng đối với mỗi con người là một
hiện tượng khách quan. Mỗi con người có một hình mẫu khác nhau, song đã
là con người xã hội thì khơng ai khơng có lý tưởng của riêng mình.
Lý tưởng vừa là mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, nhưng đồng
thời lý tưởng cũng là động lực thôi thúc con người hành động để đạt được.
Nếu “Thiếu lý tưởng, con người cảm thấy mình mất phương hướng, thiếu
niềm tin và cảm thấy cuộc đời nhạt nhẽo, vơ vị. Chính lý tưởng khơi dậy sự
nỗ lực nhận thức, sự nồng nhiệt của tình cảm, sự mãnh liệt của ý chí và sự
quyết tâm trong hành động, giúp con người vươn tới mục tiêu cao cả, bất chấp
gian khổ, hi sinh” [38; 9]. Khơng những thế, lý tưởng cịn có vai trị dự báo,
định hướng, xây dựng niềm tin cho con người trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn của cuộc sống hằng ngày.


15

Như vậy, chúng ta có thể khái quát: về bản chất lý tưởng là một hiện
tượng của ý thức xã hội, phản ánh sự vượt trước của ý thức xã hội so với tồn
tại xã hội. Lý tưởng phản ánh tồn tại xã hội dưới một mơ hình, một hình mẫu
hồn thiện, nó vừa là mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, nhưng đồng
thời cũng là động lực mạnh mẽ thôi thúc con người hành động để đạt được.
- Quan niệm về lý tưởng xã hội chủ nghĩa
Theo Từ điển Triết học: “Lý tưởng xã hội - quan niệm phù hợp với lợi
ích kinh tế và chính trị của một tập đồn xã hội nào đó về một chế độ xã hội
hồn thiện nhất, chế độ đó là mục đích cuối cùng của những ước vọng và mọi

hoạt động của tập đoàn xã hội ấy” [49; 686].
Cho đến nay, lịch sử lý tưởng xã hội loài người đã tồn tại và phát triển
trải qua nhiều mơ hình khác nhau, có giai đoạn cùng một lúc tồn tại nhiều mơ
hình lý tưởng xã hội đấu tranh, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Lý tưởng xã hội
ra đời sau bao giờ cũng có sự kế thừa một cách biện chứng lý tưởng xã hội
trước và mang tính hồn thiện, tiến bộ hơn lý tưởng xã hội trước nó, sự thay
thế đó là “một q trình lịch sử - tự nhiên” thông qua cách mạng xã hội.
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thay thế đó là do mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, yêu cầu khách quan là phải xóa bỏ quan
hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, theo đó một lý tưởng xã hội tốt đẹp hơn ra đời,
thông qua cách mạng xã hội. Vậy nên, sự xuất hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa
là một tất yếu khách quan của lịch sử, phản ánh đúng quy luật phát triển của
xã hội loài người.
Chúng ta thấy rằng: lý tưởng xã hội chủ nghĩa là một nấc thang trong
sự phát triển của lý tưởng xã hội nói chung của nhân loại. Chính “Chủ nghĩa
Mác đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, vạch ra
những con đường hiện thực thực hiện lý tưởng xã hội của giai cấp công nhân
và tất yếu cả những người lao động – Thiết lập chủ nghĩa cộng sản” [49; 684].


16

Theo C.Mác: “Lý tưởng cao cả của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một
xã hội công bằng, mọi người đều có quyền lao động và phân phối theo lao
động, khơng có cảnh người bóc lột người; thủ tiêu lao động bị tha hóa, giành
lại bản chất người cho con người, phát triển mọi khả năng tự do. Đó là chủ
nghĩa nhân đạo triệt để. Con người phát triển toàn diện, là một mẫu lý tưởng
về mặt triết học. Đó là hạt nhân của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa” [24; 283].
Theo Ph.Ăngghen: “Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo thực sự, là sự

mở đầu của lịch sử xã hội loài người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc
tự do; lý tưởng cộng sản là đem lại hạnh phúc, lợi ích cho giai cấp, dân tộc và
nhân loại” [24; 291].
Tiếp thu chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo, phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát chủ
nghĩa xã hội dưới nhiều góc độ khác nhau, Hồ Chí Minh nói rằng: “Chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy
được đi học, ốm đau có thuốc, già khơng lao động thì được nghỉ, những
phong tục tập qn khơng tốt dần dần được xóa bỏ,… Tóm lại, xã hội ngày
càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã
hội” [35; 591]. Đó là “một xã hội khơng có chế độ người bóc lột người, một
xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm
nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng” [33; 23].
Dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng chúng ta nhận thấy rằng:
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội, lý tưởng xã hội chủ nghĩa
một cách rất thiết thực, giản dị, cụ thể, luôn lấy cuộc sống của nhân dân, sự
phát triển tiến bộ của con người, của xã hội, quyền và địa vị làm chủ của nhân
dân làm thước đo. Vì vậy, trong bản Di chúc của mình Người đã khẳng định:
“Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [29; 161-162].


17

Tóm lại, lý tưởng xã hội chủ nghĩa là những quan niệm, ước mơ, hoài
bão, khát vọng, nhu cầu, mục đích có cơ sở khoa học của giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động về một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu; đó là một xã hội cơng bằng, bình đẳng, dân chủ, văn

minh, khơng có áp bức, bóc lột giai cấp và dân tộc; con người trong xã hội đó
được làm chủ, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
tồn diện về mọi mặt.
Lý tưởng xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể thống nhất, được cấu trúc
bởi các yếu tố như: tình cảm cách mạng, tri thức khoa học, niềm tin cộng sản.
Các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Một là, tình cảm cách mạng. Là trạng thái cảm xúc, phản ánh hiện
thực cách mạng, mối quan hệ giữa con người với con người, của con người
với tổ chức, của con người với phong trào cách mạng trong tiến trình tiến lên
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tình cảm cách mạng của con người
biểu hiện ở tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó
cịn là tình u lao động và tích cực đấu tranh chống mọi tiêu cực cản trở sự
phát triển của xã hội.
Tình cảm cách mạng là nội dung biểu hiện trực tiếp, tập trung nhất, cụ
thể nhất của lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đồng thời tình cảm cách mạng còn là
thước đo của lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tình cảm cách mạng được hình thành
trên cơ sở tri thức khoa học và niềm tin cộng sản. Tình cảm cách mạng đóng
một vai trị to lớn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Tình
cảm cách mạng khơng chỉ góp phần nâng cao năng lực sáng tạo, thôi thúc
người cách mạng vượt qua mọi khó khăn để chiến đấu vì độc lập, tự do của
Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân mà còn giúp người cách mạng biết kết
hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể, giữa lợi ích dân tộc với lợi ích
giai cấp và lợi ích nhân loại.


18

Hai là, tri thức khoa học. “Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của
con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính,
những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngơn ngữ

hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như; Tri
thức thơng thường được hình thành do hoạt động hằng ngày của mỗi cá nhân,
mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản
ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực” [4; 173].
Tri thức khoa học là cơ sở để xây dựng niềm tin cộng sản, đồng thời
cũng là một trong những thành tố quan trọng của lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Tri thức khoa học không chỉ giúp người cách mạng nhận biết được những mối
liên hệ, các quy luật vận động và phát triển, mà còn biết phát hiện ra được
những mâu thuẫn chủ yếu, có dự báo khoa học về tương lai, định hướng đúng
đắn những hoạt động thực tiễn của mình. Trên cơ sở đó, người cách mạng sẽ
quyết tâm tiến hành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản.
Ba là, niềm tin cộng sản. “Niềm tin cộng sản của lý tưởng xã hội chủ
nghĩa là niềm tin của người cách mạng về khả năng thắng lợi tất yếu của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; về tính hiện thực của những khát vọng
vươn tới tự do, bình đẳng; về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, về sức mạnh
của quần chúng nhân dân và khả năng của chính bản thân mình” [44; 19].
Niềm tin cộng sản là sự hịa quyện giữa tri thức khoa học cộng với
tình cảm cách mạng, là niềm tin tạo lập trên cơ sở thế giới quan duy vật,
phương pháp luận biện chứng và nhân sinh quan cộng sản. Đặc trưng nổi bật
nhất của niềm tin cộng sản là sự thấm nhuần chân lý, sẵn sàng chứng minh,
bảo vệ chân lý trong bất kỳ hồn cảnh nào, đó là thái độ nhất qn giữa nhận
thức và hành động, sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, dù khó khăn gian
khổ thế nào cũng kiên quyết bảo vệ chân lý. Niềm tin cộng sản giúp cho


19

người cách mạng biết hành động một cách độc lập, sáng tạo và ln tin tưởng
vào tương lai phía trước.

Để niềm tin cộng sản tạo nên sức mạnh cho người cách mạng, trở
thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển thì niềm tin cộng sản phải thâm
nhập, ăn sâu, bám rễ vào quần chúng nhân dân, niềm tin cộng sản lúc này
phải trở thành niềm tin thông thường, thành chân lý hiển nhiên, đáp ứng nhu
cầu của mỗi cá nhân, trở thành lợi ích mà mỗi cá nhân hướng tới.
Như vậy, các yếu tố cấu thành lý tưởng xã hội chủ nghĩa có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, tác động, xâm nhập, đan xen, phụ thuộc lẫn nhau trong
một chỉnh thể thống nhất của lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể khái quát: lý tưởng xã hội chủ
nghĩa thuộc hình thái ý thức xã hội, nhưng đó khơng chỉ là những nhận thức,
những ước nguyện về một xã hội tốt đẹp, mà nó cịn được biểu hiện ở những
hành vi mang tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người cách mạng, ở sự sẵn
sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc và giải phóng nhân loại. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa khơng phải
là những ước mơ viễn vơng, tình cảm bồng bột mà lý tưởng đó có tính ổn
định và bền vững. Tính chất đó được bắt nguồn từ sự thống nhất giữa lợi ích
của cá nhân, tập thể, xã hội và đó cũng là sự thống nhất giữa người cách mạng
và mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Lý tưởng xã hội chủ nghĩa do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sáng
lập, đó là sản phẩm trí tuệ của sự kế thừa mang tính biện chứng các lý tưởng
xã hội trước đó của nhân loại, đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Nếu như lý
tưởng xã hội trước đó là lý tưởng do thiểu số thực hiện và mưu cầu lợi ích cho
thiểu số thì lý tưởng xã hội chủ nghĩa là lý tưởng do đa số thực hiện và mưu
cầu lợi ích cho đa số. Nếu như các lý tưởng xã hội trước đó chỉ là lý tưởng
của các tập đồn xã hội hay giai cấp thống trị, bóc lột quần chúng nhân dân,
có lợi ích mâu thuẫn với lợi ích của đơng đảo quần chúng nhân dân lao động


20


thì lý tưởng xã hội chủ nghĩa là lý tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời là
lý tưởng của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, đáp ứng lợi ích cơ bản
của quần chúng nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột.
Vì vậy, lý tưởng xã hội chủ nghĩa mang tính giai cấp, tính nhân dân,
tính tiên tiến, tính cách mạng, tính nhân văn và nhân đạo cao cả. Mục tiêu của
lý tưởng xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội mới, ở đó có sự kết hợp hài
hòa giữa cá nhân và xã hội, mọi năng lực sáng tạo của con người được giải
phóng, phát huy triệt để, mọi tiềm năng của tự nhiên và xã hội được khai thác
hợp lý, "Trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người" [25; 628].
1.1.2. Những biểu hiện cơ bản lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở sinh viên
Sinh viên là những tri thức trẻ, là những lao động có trình độ học vấn
và có kiến thức nghề nghiệp chun mơn cao, họ là lớp người luôn năng
động, sáng tạo và nhạy cảm với cuộc sống, có nhiều ước mơ, hồi bão, khát
vọng và ý chí vươn lên. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời cho đến nay, sinh viên luôn được quan
tâm, chăm lo giáo dục và đào tạo để trở thành những công dân tốt, cán bộ tốt,
xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
Lý tưởng xã hội chủ nghĩa của sinh viên vừa mang những nét chung lý
tưởng của người cách mạng, vừa mang những đặc trưng riêng có của sinh
viên trong xã hội. Vì vậy, lý tưởng xã hội chủ nghĩa của sinh viên có tính
thống nhất với lý tưởng của tồn Đảng, tồn dân, toàn quân ta là xây dựng
một xã hội Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà



21

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới” [15; 70].
Mặt khác, lý tưởng xã hội chủ nghĩa của sinh viên có những biểu hiện
cụ thể phù hợp với yêu cầu khách quan của từng giai đoạn cách mạng. Trong
giai đoạn hiện nay, lý tưởng xã hội chủ nghĩa của sinh viên được thể hiện ở
những nội dung chủ yếu như:
Thứ nhất, có hiểu biết sâu sắc về quy luật tất yếu sự ra đời hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay
Đây là nội dung cơ bản, cốt lõi nhất để khẳng định niềm tin vào lý
tưởng xã hội chủ nghĩa của sinh viên. Chỉ trên cơ sở nhận thức đầy đủ sự ra
đời của hình thái kinh tế - xã hội là một quy luật tất yếu khách quan thì sinh
viên mới có được niềm tin và ý chí, quyết tâm và phấn đấu cho lý tưởng xã
hội chủ nghĩa.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát hiện ra quy luật
khách quan của quá trình biến chuyển cách mạng căn bản và khẳng định: lịch
sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội
phát triển từ thấp đến cao. C.Mác khẳng định: “sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” [27; 21], trong đó phương
thức sản xuất là nền tảng, do đó sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
thực chất là sự phát triển của các phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất
là sự thống nhất của hai mặt: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó
lực lượng sản xuất có vai trị quyết định, tương ứng với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là một quan hệ sản xuất nhất định. Khi lực lượng sản
xuất phát triển đến trình độ nào đó mà quan hệ sản xuất cũ khơng cịn phù hợp
sẽ cản trở lực lượng sản xuất thì sớm hay muộn sẽ diễn ra quá trình phá vỡ
quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu và hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ và do



22

đó, kéo theo sự thay đổi phương thức sản xuất, kéo theo sự thay đổi hình thái
kinh tế - xã hội theo hướng tiến bộ hơn.
Từ cuối thế kỷ XIV, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình
thành trong lịng xã hội phong kiến dưới hình thái cơng trường thủ công tư
bản chủ nghĩa, đến cuối thế kỷ XVI, công trường thủ công tư bản chủ nghĩa
đã đạt được trình độ cao, quan hệ sản xuất phong kiến đã kìm hãm sự phát
triển của xã hội chủ nghĩa tư bản. Sự tiến bộ của lịch sử lúc đó địi hỏi phải
xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến và nhân loại đã chứng kiến các cuộc cách
mạng tư sản diễn ra ở Hà Lan (1581), Anh (1640), Pháp (1789),… Hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển mạnh dưới tác động của
quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn quan hệ sản xuất phong kiến, đó là quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nhưng đến giữa thế kỷ XIX, lực lượng sản xuất có bước phát triển
mạnh mẽ, đó là sự ra đời của nền công nghiệp hiện đại, kết quả là cuộc cách
mạng công nghiệp đã diễn ra suốt một thế kỷ từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa
thế kỷ XIX, mở đầu từ nước Anh sau đó đến tồn bộ lục địa châu Âu và Bắc
Mỹ. Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất mà biểu hiện tập
trung nhất là sự ra đời của công nghiệp cơ khí, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
bước phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất. C.Mác và Ph.Ăngghen
nhận xét: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế
kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất của tất cả các thế lực trước kia gộp lại” [25; 613].
Song C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra, trong xã hội đối kháng giai
cấp đó, con người càng chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên bao nhiêu thì
tình trạng người áp bức, bóc lột người càng được mở rộng bấy nhiêu. Trong
khi lực lượng sản xuất càng được cơ khí hóa, hiện đại hóa và mang tính xã hội
hóa càng cao bao nhiêu thì những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên

chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từ chỗ đóng


23

vai trò là yếu tố mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển ngày càng trở
thành vật chướng ngại đối với sự phát triển hơn nữa của nó bấy nhiêu.
Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng
cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở
thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Tính gay gắt của mâu
thuẫn trên lĩnh vực kinh tế quy định tính gay gắt ngày càng tăng của mâu
thuẫn trên lĩnh vực xã hội giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai
cấp tư sản. Cuộc đấu tranh giữa tư sản và vô sản xuất hiện ngay từ đầu và
phát triển từ trình độ thấp, quy mơ nhỏ, tự phát tới trình độ cao hơn, quy mơ
lớn hơn và tính tự giác ngày càng thể hiện rõ hơn. Đến độ chín muồi của sự
phát triển, phong trào cơng nhân hình thành đảng chính trị của mình với hệ tư
tưởng và tổ chức tiên phong để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao
động chống lại, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản.
Bên cạnh đó, trong các thế kỷ phát triển của mình, chủ nghĩa tư bản đã
gây ra bao nhiêu tai họa cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cho cả
nhân loại như: chế độ áp bức, bóc lột, sự phân hóa giàu nghèo, chiến tranh,
khủng bố, khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm môi trường…
Với những điều kiện cơ bản đó, giai cấp tư sản và chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa dù đạt được những thành quả rất to lớn nhưng không thể là giai
cấp, là chế độ xã hội “tuyệt đỉnh”, “vĩnh hằng”,… như một số lý luận gia tư
sản đang tuyên truyền. Thực tế hiện nay cho thấy, trong xã hội tư bản chủ
nghĩa, giai cấp tư sản ở các nước tư bản đã cố gắng “điều chỉnh”, “thích
nghi” để tiếp tục tồn tại và phát triển. Nhưng các mâu thuẫn và những tai họa
trên khơng hề giảm đi mà nó ngày càng diễn ra sâu sắc và phức tạp hơn. “Đến
khi xuất hiện những tình thế, thời cơ, tạo ra những điều kiện cần và đủ thì

cách mạng xã hội chủ nghĩa tất yếu sẽ xảy ra - cuộc cách mạng do giai cấp
công nhân hiện đại và Đảng của nó lãnh đạo thành cơng. Khi đó bắt đầu của


24

một thời đại mới, với sự xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới “lọt lòng” từ
chủ nghĩa tư bản mà ra” [5; 135].
Vì vậy, chỉ trên cơ sở nhận thức sâu sắc được quy luật tất yếu sự ra
đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay, sinh
viên mới có thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng đúng đắn
để xem xét, phân tích, đánh giá những vấn đề chính trị, xã hội đang diễn ra rất
phức tạp ở trong nước và quốc tế hiện nay. Từ đó sinh viên sẽ nhận biết được
xu hướng phát triển của nhân loại, đồng thời có được niềm tin khoa học vững
chắc, sự tin tưởng tuyệt đối vào con đường đi của dân tộc Việt Nam. Việc
nắm chắc quy luật tất yếu về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa là cơ sở để sinh viên phân biệt được đúng, sai, có thái độ đồng tình
hay phản đối, có sự phản ứng nhanh nhạy, kịp thời, không bị động, bất ngờ
trước những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Thứ hai, nhận thức được trách nhiệm, vinh dự của mình trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Đảng ta luôn xác định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định rõ
mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: “Xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân
ta luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả của cách mạng” [7; 10].
Sinh viên là lực lượng xung kích, nịng cốt trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

xã hội chủ nghĩa. Đó là sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà toàn Đảng, toàn dân tộc
tin tưởng trao cho thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Vì vậy, mọi
sinh viên cần nhận thức được nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả của mình trong


25

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đó là biểu hiện tập trung nhất trình độ giác ngộ
lý tưởng xã hội chủ nghĩa của sinh viên.
Trước hết, sinh viên cần ý thức được rằng mối quan hệ giữa xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong tám mối quan hệ
lớn được Đại hội XI của Đảng tổng kết qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi
mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Trong mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ thì xây dựng
được xác định là cơ sở của bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ, xây dựng là
“phương thức hữu hiệu nhất” để bảo vệ; theo đó, xây dựng đất nước phát
triển bền vững, khắc phục những yếu kém, suy thoái, chệch hướng, tụt hậu là
tạo điều kiện vững chắc cho bảo vệ. Bảo vệ được xem là tạo ra môi trường ổn
định, tạo điều kiện cho xây dựng đất nước phát triển nhanh và bền vững,
trong bảo vệ có xây dựng, bảo vệ trong quá trình xây dựng; lực lượng bảo vệ
cũng là lực lượng tham gia xây dựng.
Nhận thức được điều đó, địi hỏi sinh viên phải giác ngộ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo
và đường lối thực hiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa việt Nam; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và
với nhân dân. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sinh
viên khơng chỉ xem đó là nghĩa vụ mà cịn phải xem đó là quyền lợi, trách
nhiệm, vinh dự cao cả của sinh viên. Lòng trung thành của người sinh viên
phải được nâng lên thành đức hy sinh, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của
dân tộc và vì chủ nghĩa xã hội. Khơng có đức hy sinh cao cả đó thì chưa phải

là người sinh viên có giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa sâu sắc. Xây dựng
đức tính hy sinh, qn thân mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là yêu cầu thường trực đối với sinh viên trong thời kỳ đất nước
có chiến tranh cũng như trong thời kỳ đất nước hịa bình.


×