MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, cũng như xu
thế hội nhập quốc tế hố, tồn cầu hoá. Nhận thức rõ tầm quan trọng của sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Trong thông báo kết luận của Bộ Chính trị số 242-TB/TW ngày 15 tháng 4
năm 2009 khẳng định: "Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ
bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo,
hợp tác; giảm thời gian giảng lý thuyết tăng cường thời gian tự học, tự tìm hiểu
cho học sinh, sinh viên; gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo
gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống”. Như vậy, để thực hiện chiến
lược phát triển giáo dục thì đổi mới giáo dục phổ thơng, trong đó đổi mới
phương pháp là một yêu cầu tất yếu đang đặt ra với tất cả các cấp học của hệ
thống giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay.
Tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khố X Nghị quyết về đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông ở nước ta đã được thông qua. Nghị quyết nhấn mạnh: "Mục tiêu
của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng là xây dựng nội dung chương
trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực
phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền
thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thơng ở các nước phát triển trong
khu vực và thế giới".
Đối với môn GDCD ở trường THPT là môn học trang bị cho HS một hệ thống
những tri thức cơ bản về: thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin; chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; là cơ sở trực
tiếp cho sự hình thành nhân cách của con người mới: con người chủ nghĩa xã hội.
Do đó, việc nâng cao chất lượng giảng dạy mơn GDCD ở các trường THPT là
một trong những nhân tố cần thiết góp phần đào tạo ra những con người có khả
năng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Từ thực tế dạy học mơn GDCD
nói chung và phần I mơn GDCD lớp 10 nói riêng, đã có sự đổi mới về phương
pháp dạy học, song vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó đã dẫn đến bài giảng mơn
GDCD của GV chưa phát huy hết được tính tích cực, chủ động, sáng tạo… của
HS.
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy mơn GDCD nói chung và
phần I mơn GDCD lớp 10 nói riêng ở các trường THPT cũng như ở trường THPT
Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề: “Kết
hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
phần I môn Giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện
Mai Sơn, tỉnh Sơn La” làm khóa luận nghiên cứu (nhằm đáp ứng yêu cầu về lý
luận và thực tiễn đối với việc dạy học phần I mơn GDCD lớp 10).
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Vấn đề nâng cao chất lượng dạy học, phát huy vai trò, đổi mới phương pháp
dạy học truyền thống (thuyết trình) và vận dụng phương pháp dạy học tích cực
(thảo luận nhóm) đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Theo tác giả Phùng Văn Bộ trong cuốn “Lý luận dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường phổ thông trung học” (2005), đã viết: “Trong hệ thống dạy học
truyền thống, thì phương pháp thuyết trình gần như một vị trí then chốt. Bởi vì
một bài giảng, thuyết minh, diễn giải của giáo viên, cái đó là chủ đạo”.
Đề xuất quan điểm đổi mới phương pháp thuyết trình Vũ Hồng Tiến trong
cuốn “Một số phương pháp dạy học tích cực” (2007), nhấn mạnh: “Để đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
khơng có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hồn toàn các phương pháp dạy học
truyền thống, hay phải “nhập nội” một số phương pháp dạy học xa lạ vào quá
trình dạy học. Vấn đề là chỗ cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực, học hỏi,
vận dụng một số phương pháp dạy học mới một cách linh hoạt nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện dạy và học ở nước ta hiện nay”.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy, phương pháp thuyết trình chỉ
cho phép người học đạt đến trình độ tái hiện của sự lĩnh hội tri thức mà thôi. Do
đó, theo hướng hoạt động hóa người học, cần phải hạn chế phương pháp thuyết
trình thơng báo – tái hiện, tăng cường phương pháp thuyết trình giải quyết vấn
đề.
Như vậy, các tác giả đều khẳng định những mặt mạnh của phương pháp
thuyết trình trong dạy học các mơn khoa học nói chung và mơn GDCD nói riêng.
Đồng thời, đưa ra quan điểm cần thiết phải đổi mới phương pháp thuyết trình, kết
hợp với phương pháp dạy học tích cực khác, mà trong đó đặc biệt là phương
pháp thảo luận nhóm.
Khi bàn về nhóm phương pháp dạy học tích cực, tác giả Phùng Văn Bộ trong
cuốn “Lí luận dạy học mơn Giáo dục công dân” (2005), cho rằng: “Sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm sẽ làm cho bài giảng thêm sinh động, phong phú.
Vì lúc đó, sự tác động của chủ thể tới khách thể không phải đi theo một công
thức đơn điệu, mà thay đổi kiểu tác động, gây ấn tượng mới. Chính do sự thay
đổi tác động, mà gây những động hình mới, tạo ra những liên hệ tạm thời (trong
óc), kích thích hứng thú, say mê của đối tượng”.
Tác giả Nguyễn Hữu Châu trong cuốn “Những vấn đề cơ bản về chương
trình và quá trình dạy học” (2004), đã đưa ra quan điểm về dạy học hợp tác theo
nhóm, theo tác giả “Dạy học hợp tác là việc sử dụng các nhóm nhỏ để HS tự làm
thêm việc cùng nhau nhằm tối đa hóa kết quả học tập của bản thân mình cũng
như người khác”.
Tác giả Phan Trọng Ngọ trong cuốn “Dạy học và phương pháp dạy học
trong nhà trường” (2005), đã giới thiệu về phương pháp dạy học trong nhà
trường hiện nay, tác giả khẳng định: “PPTLN là phương pháp dạy học mà trong
đó nhóm lớp (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên
trong lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể nào đó và đưa ra ý
kiến chung của nhóm mình về vấn đề đó”.
Như vậy, học tập theo nhóm là một vấn đề được nhiều nhà giáo dục quan
tâm ở nhiều phương diện khác nhau nhưng vẫn được hiểu nó là một mơi trường
học tập nhằm phát huy vai trị tích cực, sáng tạo của người học. Cũng có nhiều
tác giả nghiên cứu đến việc áp dụng phương pháp thảo luận nhóm vào công tác
giảng dạy.
Tuy nhiên, do khuôn khổ của các bài nghiên cứu, hoặc do mục đích của cơng
trình nghiên cứu, những cơng trình trên chưa đề cập đến việc kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần I môn GDCD
lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Trên cơ sở
kế thừa những thành tựu, kết quả của các tác giả đi trước. Tôi tiếp tục đi sâu
nghiên cứu tính tích cực của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương
pháp thảo luận nhóm trong q trình dạy học phần I môn GDCD lớp 10 ở trường
THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La để từ đó vận dụng việc kết
hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm vào q trình dạy
học phần I môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu q trình dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu
Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
thảo luận nhóm trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn
Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu việc kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở
trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Thời gian bắt đầu từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra cơ sở lí luận và thực trạng của việc việc kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần I môn GDCD lớp 10 ở
trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Trên cơ sở đó tiến
hành thực nghiệm việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo
luận nhóm trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 và đưa ra quy trình và điều
kiện vận dụng việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học phần I môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hố những vấn đề lý luận có liên quan đến khóa luận.
Khảo sát thực trạng giảng dạy và học tập kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở trường
THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Tiến hành thực nghiệm một số bài trong chương trình học phần I môn GDCD
lớp 10 bằng việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận
nhóm ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Xác lập được quy trình thiết kế bài soạn, thực hiện bài giảng bằng việc kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần I
môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
5. Giả thuyết khoa học
Với sự vận dụng kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La được thực hiện sẽ góp phần phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của HS trong quá trình lĩnh hội tri thức trong phần I mơn
GDCD lớp 10, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của khóa luận, trong quá trình thực hiện khóa
luận tơi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: thực nghiệm khoa học, quan sát, phỏng vấn,
chọn mẫu…
Phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp, so sánh, logic - lịch sử…
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
3 chương.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG VIỆC KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP
THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHĨM TRONG
DẠY HỌC PHẦN I MÔN GDCD LỚP 10 Ở TRƯỜNG THPT CHU VĂN
THỊNH, HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
1.1. Cơ sở lí luận của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần I môn GDCD lớp 10 ở trường
THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Dạy học là một hoạt động cực kì phức tạp, trong đó phương pháp dạy học
cũng hết sức phức tạp, vì thế, khi bàn về phương pháp dạy học đã có rất nhiều
quan niệm, định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học:
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Phương pháp dạy học là cách làm việc của
thầy và trò trong sự thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm làm cho
trị tự giác tích cực, tự lực, đạt tới mục đích dạy học” [15; 23].
Theo Phạm Viết Vượng: “Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách
thức hoạt động phối hợp, tương tác giữa giáo viên và học sinh, nhằm giúp
học sinh chiếm lĩnh hệ thống kiến thức khoa học, hình thành hệ thống kĩ
năng, kĩ xảo, thực hành sáng tạo và thái độ chuẩn mực theo mục tiêu của
quá trình dạy học [17; 179].
Cho đến nay, phương pháp dạy học vẫn cịn có những quan niệm khác nhau.
Tuy nhiên, các quan niệm đó đều thừa nhận phương pháp dạy học có những đặc
trưng sau:
- Phương pháp dạy học phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của
con người nhằm đạt được mục đích học tập.
- Phương pháp dạy học phản ánh cách thức tổ chức, điều khiển hoạt động
nhận thức của người dạy như: kích thích và xây dựng động cơ, tổ chức các hoạt
động nhận thức và kiểm tra - đánh giá kết quả nhận thức của người học.
Như vậy, bất cứ phương pháp dạy học nào cũng là hệ thống những hành động có
mục đích của GV, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của HS, nhằm
đảm bảo cho trò lĩnh hội được nội dung học tập.
Phương pháp dạy học địi hỏi có sự tương tác tất yếu của GV và HS đến đối
tượng nghiên cứu mà kết quả là HS lĩnh hội được nội dung học tập.
Tùy theo quan niệm và hướng nghiên cứu có thể đưa ra các khái niệm khác
* Từ đây trở đi:
- Số thứ nhất chỉ số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo
- Số thứ hai chỉ số trang trong trong tài liệu tham khảo
nhau về phương pháp dạy học. Nếu đứng trên góc độ dạy học tích cực theo Hà
Thế Ngữ: “Phương pháp dạy học là một hệ thống tác động liên tục của giáo viên
nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh để học sinh lĩnh hội
vững chắc các thành phần của nội dung giáo dục nhằm đạt được mục tiêu đã
định” [13; 32].
1.1.2. Phương pháp thuyết trình trong dạy học
1.1.2.1. Quan niệm về phương pháp thuyết trình trong dạy học
Có nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau về phương pháp thuyết trình:
- Theo Vũ Đình Bảy thì: “Phương pháp thuyết trình là phương pháp dạy học
trong đó giáo viên dùng lời nói để trình bày, thuyết minh, khai thác, phân tích
một nội dung lý luận nào đó nhằm mục đích truyền đạt kiến thức cho học sinh
một cách có hệ thống” [2; 51].
- Theo Đinh Văn Đức quan niệm: “Phương pháp thuyết trình là phương pháp
GV sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để cung cấp cho người học hệ thống
thông tin về nội dung học tập. Người học tiếp nhận hệ thống thông tin đó từ
người dạy và xử lí chúng tùy theo tính chủ thể của người học và yêu cầu của
người dạy” [7; 128].
- Nhà giáo dục Nguyễn Lân đã định nghĩa: “Phương pháp thuyết trình là
phương pháp dạy học trong đó giáo viên dùng lời nói sinh động, gợi cảm, thuyết
phục để truyền thụ hệ thống tri thức môn học cho sinh viên theo chủ đích nhất
định, nhờ vậy sinh viên tiếp thu bài giảng một cách có ý thức” [9; 71].
- Theo Trần Thị Tuyết Oanh thì: “Phương pháp thuyết trình là phương pháp
mà ở đó giáo viên nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị bài giảng và trực tiếp điều khiển
thông báo luồng thông tin tri thức đến sinh viên. Sinh viên tiếp nhận những thơng
tin đó bằng việc nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng của thầy, hiểu, ghi chép
và ghi nhớ” [14; 40].
Tóm lại, có thể hiểu phương pháp thuyết trình là phương pháp trình bày một
vấn đề trước nhiều người. Trong dạy học, đó là việc GV dùng lời nói, phong thái
và cử chỉ để trình bày những tri thức bài giảng tới người học.
1.1.2.2. Các hình thức của phương pháp thuyết trình trong dạy học
* Kể chuyện
Kể chuyện là hình thức của phương pháp thuyết trình trong đó giáo viên
dùng lời nói biểu cảm và các thao tác dẫn dắt học sinh tiếp cận và làm nổi bật nội
dung của tri thức cần truyền thụ.
Thơng qua câu chuyện giáo viên có thể nêu lên những sự kiện, những hiện
tượng hay nguồn gốc phát sinh phát triển của tri thức mà học sinh cần tiếp thu.
Nội dung câu chuyện phù hợp với nội dung của bài giảng kết hợp với lối kể
chuyện sinh động của giáo viên sẽ giúp cho học sinh tiếp thu bài một cách nhẹ
nhàng, thấm sâu, thu hút được sự chú ý của học sinh ở trên lớp.
* Giảng giải
Giảng giải là hình thức của phương pháp thuyết trình trong đó GV dùng lời
nói để làm HS hiểu các khái niệm, phạm trù, quy luật và sự vận dụng chúng.
Trong giảng bài thường gặp những từ ngữ, khái niệm khó thì giáo viên phải
kết hợp để giải thích. Khi giải thích giáo viên nên dùng các từ điển chính trị - xã
hội, từ điển triết học và thậm chí cả từ điển của các môn khoa học khác làm cơ sở
tin cậy cho giải thích. Giáo viên phải vừa giải thích khái niệm vừa giảng ý nghĩa
của nó. Nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa triết học, nghĩa thơng thường.
Khác với tri thức của các môn học khác, tri thức của môn GDCD vừa trừu
tượng nhưng lại gắn chặt với cuốc sống đời thường. Vì thế, học sinh sẽ hoặc là
khơng hiểu, hoặc là hiểu không đúng tri thức bộ môn, nếu không được giáo viên
giảng giải cặn kẽ, rõ ràng.
* Diễn giảng
Diễn giảng là phương pháp thuyết trình trong đó tri thức được truyền thụ theo
một hệ thống logic chặt chẽ bao gồm khối lượng tri thức lớn và thực hiện trong
thời gian tương đối dài thông qua lời giảng của GV.
Diễn giảng được thực hiện khi chủ đề của bài giảng được đặt ra người giáo
viên nêu ra các luận cứ, phân tích, minh hoạ, chứng minh luận cứ. Các thao tác
đó chính là diễn giảng. Diễn giảng tức là tiếp tục phát triển các nội dung của chủ
đề theo hệ thống tri thức nhất định.
Diễn giảng thường được áp dụng đối với những bài có nội dung tri thức phức
tạp, khó, trừu tượng và khái quát cao. Diễn giảng tiến hành theo các trình tự sau:
Mở đầu: GV có thể nêu tri thức cũ để chuyển sang bài mới nêu lên tầm quan
trọng của nội dung bài giảng hoặc đặt ra tình huống có vần đề.
Trình bày nội dung chính: Đây là phần trọng tâm của bài, GV cần khai thác
hết nội dung tri thức để diễn giảng theo logic chặt chẽ đi từ đơn giản đến phức
tạp.
Kết thúc: Đòi hỏi GV phải khái quát, nhấn mạnh nội dung cơ bản mà HS cần
hiểu và nắm vững.
1.1.2.3. Ưu và nhược điểm của phương pháp thuyết trình trong dạy học
* Ưu điểm của phương pháp thuyết trình
Thứ nhất, cho phép GV truyền đạt những nội dung tương đối khó, phức tạp,
chứa đựng nhiều thơng tin mà HS khơng dễ dàng tìm hiểu được một cách sâu
sắc. Đây cũng là điểm mạnh của phương pháp thuyết trình mà khơng dễ gì các
phương pháp khác có được. Trong khoảng thời gian ngắn, GV có thể cung cấp
cho người học một khối lượng thông tin rất phong phú, cô đọng, được cấu trúc
theo một logíc chặt chẽ, phản ánh nội dung mơn học.
Thứ hai, qua bài thuyết trình của người thầy cịn truyền được tinh thần, tâm
huyết của mình cho học trị.
Thứ ba, cung cấp cho người học những thơng tin cập nhật, chưa kịp trình bày
trong các tài liệu giáo khoa. GV thuyết trình tốt là nguồn cung cấp những thơng
tin cập nhật về những lí thuyết và những thành tựu thuộc những chủ đề đang
nghiên cứu. Hơn nữa những thông tin này lại được tạo hợp từ nhiều nguồn tài
liệu khác nhau, mà hầu hết người học phải mất nhiều thời gian.
Thứ tư, phương pháp thuyết trình là giao tiếp trực tiếp giữa người giảng và
người nghe. Vì vậy, khi thuyết trình, GV có thể thường xun thay đổi các biện
pháp, các thủ thuật thuyết trình và hiệu chỉnh lại nội dung tài liệu cho phù hợp
với trình độ hiện tại của người nghe. Tạo điều kiện thuận lợi để GV tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm HS qua việc trình bày tài liệu với giọng nói,
điệu bộ, cử chỉ thích hợp và diễn cảm. Thái độ và sự nhiệt tình của GV khi thuyết
trình có vai trị quan trọng trong việc tích hợp hóa hoạt động học tập và nghiên
cứu của người học, truyền cảm hứng và sáng tạo cho họ.
Thứ năm, các bài thuyết trình không chỉ cung cấp thông tin về đối tượng học
tập cho người học mà cịn cung cấp cho họ khn mẫu và phương pháp nhận
thức, phương pháp tổng hợp, cấu trúc tài liệu học tập, giúp người học có phương
pháp tự học. Thơng thường người học rất khó định hướng khi bắt đầu tìm hiểu
một cuốn tài liệu. Vì vậy, những bài thuyết trình hay có thể giúp nhiều cho người
học định hướng và cấu trúc khi đọc tài liệu.
Thứ sáu, giúp HS nắm bắt được cách tư duy logíc, cách đặt và giải quyết vấn
đề khoa học, cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt những vấn đề khoa học một
cách chính xác, rõ ràng, xúc tích thơng qua cách trình bày của GV. Tạo điều kiện
phát triển năng lực chú ý và kích thích tính tích cực tư duy của HS, giúp HS hiểu
và ghi nhớ bài học.
* Nhược điểm của phương pháp thuyết trình
Thứ nhất, thu được rất ít thơng tin từ phía người học, do dạy học chủ yếu là
truyền thụ một chiều.
Thứ hai, mức độ lưu giữ thơng tin của người học rất ít, do trí nhớ ngắn hạn và
trí nhớ làm việc của người nghe thường xuyên bị quá tải. Vì vậy, cần thiết phải
có phương tiện hỗ trợ ghi nhớ.
Thứ ba, tính cá thể hóa trong dạy học thấp, do GV phải dùng một số biện
pháp chung cho cả nhóm HS.
Thứ tư, làm cho HS trở nên thụ động, chỉ sử dụng chủ yếu đến thính giác
cùng với tư duy tái hiện, do đó dễ làm cho HS chóng mệt mỏi.
Thứ năm, làm cho HS thiếu tính tích cực trong việc phát triển ngơn ngữ nói,
người học gần như thụ động tiếp nhận thơng tin từ phía người thuyết trình, ít có
cơ hội thể hiện và áp dụng các ý tưởng của mình đối với tài liệu học tập. Do đó,
bài học dễ dẫn tới đơn điệu, nhàm chán.
Thứ sáu, thời gian thu hút và duy trì sự chú ý của người học vào nội dung bài
học thấp hơn các phương pháp khác.
Thứ bảy, thiếu điều kiện cho phép GV chú ý đầy đủ đến trình độ nhận thức
cũng như kiểm tra đầy đủ sự lĩnh hội tri thức của từng HS.
1.1.3. Phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
1.1.3.1. Quan niệm về phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về phương pháp thảo luận nhóm. Theo tác
giả Phan Trọng Ngọ “Thảo luận nhóm trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia
thành các nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm việc và thảo
luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm về vấn đề đó” [11;
223].
Theo Vũ Đình Bảy “Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó lớp
học được chia thành nhiều nhóm nhỏ để bàn bạc, trao đổi, thảo luận về một vấn
đề học tập và đưa ra ý kiến chung của nhóm về vấn đề đó” [3; 57].
Theo Phạm Viết Vượng “Phương pháp thảo luận nhóm là một phương pháp
dạy học trong đó lớp học được chia làm thành các nhóm để học sinh trong nhóm
tích cực nghiên cứu, chủ động thảo luận các nhiệm vụ học tập để đạt được mục
tiêu học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên” [18; 188].
Như vậy có thể tóm tắt bởi những cách thức cơ bản sau:
- Phương pháp thảo luận nhóm chia nội dung bài dạy thành vấn đề nhỏ. Mỗi
vấn đề nhỏ được coi là một chủ đề thảo luận.
- Chia lớp học thành nhiều nhóm, cách chia nhóm tùy thuộc vào nội dung và
tính chất của vấn đề thảo luận, cũng như các điều kiện phục vụ khác (bàn, ghế,
tài liệu, phương tiện dạy học…).
- Mỗi nhóm cử ra một nhóm trưởng điều khiển và duy trì hoạt động của nhóm
và một thư kí ghi đầy đủ các phát biểu trong thảo luận.
- Có thể giao nhiệm vụ cho từng cá nhân làm việc độc lập trong nhóm. Sau đó
cả nhóm đánh giá và bổ xung. Cũng có thể giao nhiệm vụ cho cả nhóm, tuy
nhiên cần nhớ: tại một thời điểm, mỗi nhóm (cá nhân) chỉ được giao thảo luận
một chủ đề (một nhiệm vụ) không giao cùng lúc nhiều chủ đề.
- Tại một thời điểm có thể giao nhiều nhóm cùng thảo luận một chủ đề. Kết
thúc chủ đề này lại thảo luận chủ đề khác (phát triển bài học theo chiều dọc)
cũng có thể giao mỗi nhóm thảo luận một chủ đề. Sự liên kết các nhóm này sẽ
tạo sự thống nhất về kết quả chung của bài dạy (phát triển bài học theo chiều
ngang). Cả hai chiều hướng đều có điểm mạnh và hạn chế nhất định. Vì vậy, tùy
theo nội dung và mục tiêu giảng dạy, GV có thể kết hợp hai cách trên với mức độ
nhất định.
- Các sản phẩm của cá nhân hay của cả nhóm có thể thực hiện trên các văn
bản, biều đồ… Các sản phẩm đó phải được giới thiệu và trình bày trước nhóm
hoặc trước các nhóm khác trong lớp.
- Đảm bảo yếu tố thơng tin phản hồi từ các nhóm.
- Bất kì cuộc thảo luận nào cũng phải có kết quả của GV, cần dành thời gian
ghi chép đánh giá sự tiến bộ của các nhóm, tóm tắt ý tưởng của các nhóm, thực
hiện cơng tác trọng tài cố vấn cho các nhóm tiếp tục hồn thiện hoặc phát triển ý
tưởng của mình.
1.1.3.2. Các hình thức thảo luận nhóm trong dạy học
Có nhiều hình thức thảo luận theo nhóm, hiệu quả của chúng tùy thuộc vào ý
đồ và tính chất sử dụng của người dạy.
Dưới đây là một số hình thức thảo luận của nhóm phổ biến:
- Nhóm nhỏ thơng thường
GV chia lớp học thành các nhóm nhỏ (3 đến 5 người) để thảo luận một vấn đề
cụ thể nào đó và nhanh chóng đưa ra kết luận tập thể về các vấn đề đó. Hình thức
này thường được sử dụng kết hợp với các kĩ thuật dạy học khác trong một bài
học. Nội dung thảo luận của nhóm thơng thường là nội dung nhỏ, thời gian thảo
luận ngắn (5 đến 10 phút).
- Nhóm rì rầm
GV chia lớp thành nhóm “cực nhỏ”, khoảng 2 đến 3 người (thường là cùng
bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất trả lời một câu hỏi, giả quyết một vấn đề,
một ý tưởng, thái độ… để nhóm rì rầm có hiệu quả, GV cần cung cấp đầy đủ,
chính xác các dữ liệu các gợi ý và nêu rõ yêu cầu đối với câu trả lời để các thành
viên tập trung vào giải quyết. Việc chia lớp thành những nhóm nhỏ hoặc nhóm
“rì rầm” là biện pháp khắc phục hiện tượng “người ngồi cuộc” làm tăng hiệu
quả phương pháp thảo luận nhóm.
- Nhóm kim tự tháp
Đây là hình thức mở rộng của nhóm rì rầm, sau đó thảo luận theo cặp (nhóm
rì rầm), các cặp (2 hoặc 3 nhóm rì rầm) kết hợp thành nhóm 4 - 6 người để hồn
thiện một vấn đề chung. Đây cũng là biện pháp khắc phục hiện tượng “người
ngoài cuộc”, đồng thời tạo điều kiện hoàn chỉnh nhiệm vụ học tập với chất lượng
cao.
- Nhóm đồng tâm (nhóm bể cá)
GV chia lớp thành 2 nhóm: nhóm thảo luận và nhóm quan sát (sau đó có thể
hốn vị trí cho nhau). Nhóm nhỏ hơn 6 - 10 người có nhiệm vụ thảo luận và trình
bày vấn đề được giao, cịn các thành viên khác trong lớp đóng vai trị người quan
sát và phản biện. Hình thức nhóm này rất có hiệu quả đối với việc làm tăng ý
thức trách nhiệm cá nhân trước tập thể và tạo động cơ cho mọi người trình bày ý
tưởng của mình trước tập thể.
- Nhóm khép kín: Các thành viên trong nhóm làm việc trong khơng gian thời
gian dài, thực hiện trọn vẹn một hoạt động học tập từ thời gian đầu đến cuối cùng.
- Nhóm mở: Các thành viên có thể tham gia một hoặc vài giai đoạn phù hợp
với khả năng và sở thích của mình. Hình thức này mang lại cho người học nhiều
khả năng lựa chọn vấn đề thực hiện hiệu quả, chủ động về thời gian và sức lực.
Tóm lại, có nhiều hình thức thảo luận nhóm, mỗi hình thức có đặc điểm và ưu
thế nổi trội của mình. Tùy thuộc vào tính chất và nội dung của bài học cũng như
các điều kiện dạy học khác mà người GV có thể lựa chọn cho mình một hình
thức thảo luận theo nhóm phù hợp hoặc cũng có thể lựa chọn nhiều hình thức
thảo luận theo nhóm kết hợp với nhau một cách linh hoạt.
1.1.3.3. Ưu và nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
* Ưu điểm phương pháp thảo luận nhóm
Học theo nhóm bao giờ cũng sơi nổi, nó tạo cơ hội tối đa cho mọi thành viên
trong nhóm được bộc lộ sự hiểu biết và quan điểm của mình về nội dung và
phương pháp học tập, giúp họ phát triển khả năng diễn đạt, trao đổi suy nghĩ và
quan điểm một cách rõ ràng tăng cường khả năng chịu đựng và sự quan tâm của
người học. Điều này đặc biệt có ích đối với những HS nhút nhát, ngại ngùng, ít
phát biểu trong lớp.
Tạo cơ hội thuận lợi để các thành viên trong nhóm học hỏi lẫn nhau và lịch sự
thể hiện quan điểm của mình cũng như nhận xét đánh giá ý kiến của bạn, điều
chỉnh tư duy của mình.
Tạo cơ hội để các thành viên trong lớp học làm thói quen trao đổi và hợp tác
với nhau, hình thành thói quen tương tác trong học tập. Góp phần làm tăng bầu
khơng khí hiểu biết, tin cậy, thân thiện và đồn kết giữa các thành viên.
Tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm, đặc biệt là
trong việc học tập các chủ đề có tính sáng tạo cao. Rèn luyện phát triển các kĩ
năng tư duy, phân tích tổng hợp…
Tạo cơ hội cho GV có thông tin phản hồi về người học. Đây là một trong
những ưu điểm nổi trội của phương pháp thảo luận nhóm so với các phương pháp
học khác. Mặt khác, GV cịn có thể thu được tri thức và rút kinh ngiệm từ người
học qua các phát biểu, suy nghĩ sáng tạo của học sinh.
Như vậy, phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức tốt sẽ tăng cường tính
tích cực chủ động của HS, giúp HS tập trung vào bài học, phát triển được các kĩ
năng tư duy và óc phê phán, các kĩ năng giao tiếp xã hội quan trọng khác.
* Nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm
Để phương pháp thảo luận nhóm có hiệu quả, địi hỏi người GV phải có khả
năng xây dựng, thiết kế những tri thức trong bài học thành tình huống có vấn đề.
Song việc đó khơng hề đơn giản với mọi GV và mọi bài học.
Để tổ chức một buổi học bằng phương pháp thảo luận nhóm có hiệu quả thì
GV và HS đều phải chuẩn bị, đầu tư nhiều thời gian và cơng sức. Đặc biệt với
lớp học q đơng thì đây thực sự là một trở ngại. Vì thế, học bằng phương pháp
thảo luận nhóm sẽ làm mất nhiều thời gian của cả GV và HS.
Hiệu quả học tập phụ thuộc nhiều vào tinh thần tham gia của các thành viên
trong nhóm, thảo luận chỉ có một vài người tham gia tích cực sẽ dẫn đến tình
trạng một vài người là chủ nhân còn các thành viên khác là khách ngồi nghe, để
mặc cho người khác dẫn dắt và quyết định. Khi đó thảo luận nhóm sẽ thành độc
diễn cá nhân, hệt như phương pháp thuyết trình của GV, cịn các thành viên khác
sẽ trở thành “người ngoài cuộc” một hiện tượng khá phổ biến trong thảo luận
hiện nay.
Sự tác động của bên ngoài như sự giám sát thường xuyên của GV, yếu tố thi
đua giữa các nhóm cũng ảnh hưởng ít nhiều đến q trình thảo luận.
Có thể thấy rằng, thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học
phát huy được tính tích cực, tự giác của người học. Nó tạo ra một mơi trường học
tập thuận lợi mà ở đó trí tuệ tập thể đã được phát huy cũng như vai trò hoạt động
xã hội của các cá nhân được trải nghiệm. Nếu GV là người có tâm huyết, có quy
trình và biện pháp thảo luận hữu hiệu thì những khó khăn, hạn chế trên hồn tồn
có khả năng khắc phục được.
1.1.4. Quan hệ giữa phương pháp thuyết trình và phương pháp thảo luận
nhóm
Để thực hiện mục tiêu môn học người dạy học có thể kết hợp nhiều phương
pháp. Mỗi phương pháp đều có vị trí, vai trị, ưu, nhược điểm nhất định. Những
phương pháp dạy học truyền thống với vai trò người thầy là trung tâm phát thông
tin và HS bị động tiếp nhận thông tin đã trở nên lạc hậu trước yêu cầu đổi mới về
mục tiêu đào tạo. Đứng trước những yêu cầu đổi mới cũng như mục tiêu đào tạo
môn GDCD, bản thân phương pháp dạy học cũng phải thay đổi phù hợp với yêu
cầu đó. Mục tiêu của quá trình tìm kiếm áp dụng các phương pháp dạy học mơn
GDCD chính là việc phát huy tính tích cực trong học tập của HS.
Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học mơn GDCD có thể giúp
HS chủ động trong nghiên cứu môn học, học cách suy nghĩ về những vấn đề của
môn học bằng cách cho họ thực hành suy nghĩ. Qua thảo luận, HS hình thành
thói quen làm việc có kế hoạch, nghiêm túc, nâng cao tính trung thực, khiêm tốn,
dũng cảm bảo vệ quan điểm của mình, độc lập sáng tạo trong học tập và nghiên
cứu. Trong thảo luận, HS học cách làm chứ không chỉ học cách nghe GV giảng,
giúp cho HS học cách hợp tác với nhau để hồn thành cơng việc chung, đánh giá
logíc và quan điểm của người khác và của chính mình, góp phần hình thành tư
duy phê phán. Mặt khác, thảo luận còn giúp HS nhận thức và thuyết trình một
vấn đề khoa học của bộ mơn trước tập thể, khắc phục những nhược điểm của bản
thân như: rụt rè, tùy tiện phát biểu, nói năng khơng có luận cứ, thiếu suy nghĩ, sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm cịn giúp GV có những phản hồi nhanh về tình
trạng nắm giữ tri thức bộ môn của HS, phát hiện những sai sót để uốn nắn, điều
chỉnh hoạt động của họ. Đồng thời, GV cũng thu được những thông tin ngược về
phía mình để đánh giá, tự điều chỉnh, hồn thiện hoạt động giảng dạy.
Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm trong
giảng dạy GDCD giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ những băn khoăn, kinh
nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra
những điều suy nghĩ mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ
đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm cái gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi
lẫn nhau chứ không phải sự tiếp thu thụ động từ GV.
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực phương
pháp thảo luận nhóm trở thành cách dạy chủ yếu đòi hỏi GV phải thành thạo về
kỹ năng và điều khiển thảo luận, biết rõ lợi ích, các điều kiện thực hiện thảo luận
và biết có thể áp dụng hình thức dạy học này cho những loại mục tiêu nhất định.
1.2. Thực trạng vận dụng sự kết hợp phương pháp thuyết với phương pháp
thảo luận nhóm trong dạy học phần I môn GDCD lớp 10 ở trường trung học
phổ thông Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
1.2.1. Đặc điểm của mơn GDCD nói chung và phần I mơn GDCD lớp 10 nói
riêng
* Đặc điểm của môn GDCD ở trường THPT
Các tri thức của mơn GDCD được truyền thụ cho HS có thể mang nhiều nội
dung khác nhau nhưng đều được coi là tri thức lí luận chính trị. Những tri thức
đó được xây dựng trên các môn khoa học cơ bản như: Triết học, Đạo đức học,
Kinh tế học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Pháp luật học… và các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tri thức
của môn GDCD được sắp xếp hợp lí, kết cấu chặt chẽ, lơgic, phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lí của HS, thể hiện rõ tính đặc thù, riêng biệt, đồng thời khuynh
hướng tư tưởng cũng rất rõ ràng và nổi trội so với các mơn khoa học khác. Có
thể nêu lên một số đặc điểm như sau:
Một là, nội dung tri thức môn GDCD bao gồm phạm vi kiến thức rộng lớn,
bao quát toàn bộ đời sống xã hội, những kiến thức này được khái quát từ những
vấn để rất gần gũi, thiết thực trong đời sống thường nhật của cá nhân công dân,
gia đình và xã hội đến những vấn đề lớn của quốc gia, dân tộc, nhân loại. Đây là
những kiến thức thể hiện tên gọi của một môn học, dạy và học để làm người
công dân, để trở thành người công dân đúng chuẩn mực xác định – người công
dân Việt Nam trong thời đại mới - khỏe mạnh, tự trọng, có kiến thức, kĩ năng, có
động lực học tập suốt đời, biết quan tâm đến người khác và có trách nhiệm đối
với xã hội.
Hai là, các tri thức của môn GDCD mang tính khái quát cao, tính trừu tượng,
tính quy luật, tính lơgic chặt chẽ. Đây là những tri thức mang tính định hướng
chính trị sâu sắc, nó trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị, tư tưởng của
giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp xác lập, củng cố định
hướng chính trị xã hội chủ nghĩa cho HS. Tồn bộ nội dung mơn GDCD từ lớp
10 đến lớp 12 tập trung vào việc xây dựng cho HS thế giới quan khoa học, nhân
sinh quan cộng sản, phương pháp luận đúng đắn với những biện pháp và hình
thức khác nhau.
Ba là, tri thức của mơn GDCD mang tính tích hợp, có quan hệ chặt chẽ với
nhiều môn khoa học, nhiều lĩnh vực khoa học khác. Phân tích chương trình mơn
GDCD ta thấy mơn học này chứa đựng nhiều loại kiến thức của các môn học
khác nhau và ở mức độ nhất định nó cịn chứa đựng cả kiến thức của các môn
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội.
Bốn là, tri thức môn GDCD gắn bó mật thiết với hiện thực, phản ánh một
cách sinh động đời sống hiện thực. Nếu việc dạy học những tri thức của môn
GDCD tách khỏi thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam thì sẽ mất hết ý nghĩa và tác dụng. Bởi lẽ, dạy học GDCD là dạy để HS trở
thành người cơng dân có tinh thần trách nhiệm của một thành viên hữu ích cho
Đất nước, có những kiến thức và kĩ năng cần thiết để tham gia vào một thế giới
đang thay đổi nhanh chóng. Do đó, q trình dạy học bộ môn phải gắn trực tiếp,
cụ thể với đời sống, với việc rèn luyện, tu dưỡng của mỗi HS.
* Đặc điểm của phần I môn GDCD lớp 10
Là phần học cung cấp cho HS thế giới quan duy vật biện chứng và phương
pháp luận khoa học, nhân sinh quan tiến bộ của phép biện chứng duy vật. Đồng
thời, giúp cho HS có thêm hiểu biết về sự hình thành, tồn tại, phát triển và tiêu
vong của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Là cơ sở hình thành
niềm tin khoa học và những phẩm chất cao quý cho con người mới: con người xã
hội chủ nghĩa.
Thông qua kiến thức được trang bị để có thể phân tích, đánh giá, giải thích
các hiện tượng trong thế giới khách quan cho phù hợp với sự vận động và phát
triển vốn có của tự nhiên.
Trên cơ sở đó, tơn trọng và tuân theo các quy luật tồn tại khách quan của thế
giới vật chất. Hình thành một thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận
khoa học cho HS.
* Nội dung chương trình phần I mơn GDCD lớp 10
Nội dung chương trình được sắp xếp thành 9 bài với thời lượng phân phối
như sau:
Bài 1 (1 tiết): Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.
Bài 2 (giảm tải): Thế giới vật chất tồn tại khách quan.
Bài 3 (2 tiết): Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.
Bài 4 (2 tiết): Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng.
Bài 5 (2 tiết): Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng.
Bài 6 (1 tiết): Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng.
Bài 7 (1 tiết) Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Bài 8 (giảm tải) Tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Bài 9 (1 tiết) Con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của
xã hội.
Ngồi những bài học chính trong SGK, chương trình cịn có một số chủ đề tự
chọn (thực hành). Những chủ đề này bám sát nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức
và vận dụng lí luận vào thực tiễn cuộc sống.
1.2.2. Thực trạng giảng dạy phần I môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu
Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Để đánh giá đúng thực trạng giảng dạy bộ môn GDCD – THPT và phần I môn
GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La trong
việc vận dụng sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận
nhóm trong q trình giảng dạy của GV. Chúng tơi đã tiến hành điều tra các GV
giảng dạy bộ môn GDCD, và GV đang trực tiếp giảng dạy học phần I GDCD lớp 10
ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Cho đến thời điểm ngày 19 tháng 09 năm 2012 trường THPT Chu Văn Thịnh,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La có 2 GV giảng dạy bộ môn GDCD cho cả 3 khối 10,
11, 12. Về trình độ: Cử nhân. Về thâm niên giảng dạy: 7 năm (1GV); 11 năm
(1GV). Cả 2 GV đều đạt chuẩn về trình độ chun mơn nghiệp vụ sư phạm và có
kinh nghiệm giảng dạy.
Trong q trình giảng dạy, đa phần GV chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học
truyền thống là thuyết trình. Phương pháp thuyết trình có ưu điểm là trong một
khoảng thời gian ngắn giáo viên có thể chuyển tải đến HS một khối lượng lớn tri
thức có hệ thống, cơ đọng và cần thiết. Tuy nhiên phương pháp này có hạn chế là
mang tính một chiều, GV là trung tâm chủ yếu của quá trình dạy học, làm cho HS
thụ động, khơng kích thích được khả năng chủ động, sáng tạo cũng như tính tích
cực của HS. Do đó hiệu quả giờ học khơng cao. Để nâng cao chất lượng dạy – học
việc đổi mới phương pháp dạy học, kết hợp có hiệu quả các phương pháp dạy học
truyền thống với hiện đại là một xu thế và tất yếu cần thiết của yêu cầu thực tiễn.
Để tìm hiểu thực trạng việc vận dụng sự kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần I GDCD lớp 10 ở trường THPT
Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La chúng tôi sử dụng phiếu câu hỏi số
(1).
Trong quá trình dạy học của mình thầy (cơ) kết hợp phương pháp thuyết trình
với thảo luận nhóm như thế nào?
Kết quả thu được như sau:
Bảng 1: Mức độ vận dụng sự kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
Mức độ
Số GV
SL
%
SL
%
SL
%
2
0
0
2
100
0
0
Kết quả từ bảng 1 cho thấy:
Mức độ vận dụng thường xuyên chiếm 0 %; thỉnh thoảng chiếm 100 %; chưa
bao giờ chiếm 0 %. Điều này cho thấy các GV đã nhận thức được hiệu quả và vai
trò của sự vận dụng sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình với phương pháp
thảo luận nhóm. Tuy nhiên mức độ sử dụng cịn hạn chế.
Để tìm hiểu những khó khăn trong việc vận dụng sự kết hợp giữa phương pháp
trình với phương pháp thảo luận nhóm dẫn đến GV mức độ sử dụng chưa cao,
chúng tôi sử dụng phiếu câu hỏi số (2).
Khi vận dụng sự kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học thầy (cơ) thường gặp những khó khăn nào?
- Kích thích được hứng thú học tập của HS nhưng mất nhiều thời gian trong
việc đặt và giải quyết vấn đề.
- Trình độ nhận thức và năng lực khái quát của HS còn hạn chế.
- GV phải tổng hợp nhiều ý kiến từ một nội dung đưa ra thảo luận nhóm.
- Khó ổn định tổ chức lớp học.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 2: Những khó khăn thường gặp của GV khi vận dụng sự kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở
trường THPT Chu văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
STT
Khó khăn
Giáo viên
Tỉ lệ %
Kích thích được hứng thú học tập của HS nhưng mất
2
100 %
1
nhiều thời gian trong việc đặt và giải quyết vân đề.
Trình độ nhận thức và năng lực khái quát của HS còn
2
100 %
2
hạn chế.
GV phải tổng hợp nhiều ý kiến từ một nội dung đưa
1
50 %
3
ra thảo luận nhóm.
1
50 %
4
Khó ổn định tổ chức lớp học.
Kết quả từ bảng 2 cho thấy:
Tất cả GV được hỏi đều cho rằng khó khăn lớn nhất khi vận dụng sự kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy là mất
nhiều thời gian, do đặc điểm đối tượng nhận thức là HS vùng sâu nên năng lực khái
quát và trình độ nhận thức của HS cịn hạn chế. Có 50 % ý kiến cho rằng khó khăn
trong q trình tổng hợp nhiều ý kiến của HS; 50 % ý kiến cho rằng khó ổn định tổ
chức lớp. Tuy nhiên đó là những khó khăn hồn tồn có thể hạn chế và khắc phục
được. Hơn nữa, sự kết hợp này vừa kích thích được hứng thú học tập của HS vừa
giúp GV chuyển tải tri thức cho HS một cách có hệ thống.
1.2.3. Thực trạng học tập học phần I môn GDCD lớp 10 ở trường THPT
Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Hiện nay, trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La có tất cả:
1184 HS, được phân thành 27 lớp với số lượng cụ thể theo từng khối lớp như sau:
khối 10 có: 10 lớp, với 460 HS; khối 11 có: 9, lớp với 360 HS; khối 12 có: 8 lớp,
với 334 HS.
Chúng tơi đã tiến hành điều tra 143 HS thuộc 3 lớp 10 với mục đích tìm hiểu
thực trạng học tập phần I mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 3: Nhận thức của HS về tầm quan trọng của học phần I môn GDCD lớp 10 ở
trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Khối 10
Số lượng
Phần trăm (%)
20
39
74
10
143
14,0 %
27,1 %
51,6 %
7,3 %
100 %
Mức độ
Rất cần thiết
Cần thiết
Bình thường
Khơng cần thiết
Tổng số
Kết quả từ bảng 3 cho thấy:
Có 14 % cho là rất cần thiết; có 27,1 % cho là cần thiết; phần lớn HS được
hỏi chiếm 51,6 % cho rằng học phần I mơn GDCD lớp 10 là “bình thường” và
7,3 % là khơng cần thiết.
Để tìm hiểu được cách đánh giá của HS về cách thức, khả năng nghiệp vụ
trong truyền thụ tri thức của GV dạy học phần I môn GDCD lớp 10 ở trường
THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, tôi đưa ra câu hỏi số (3):
Em đánh giá như thế nào về cách truyền đạt kiến thức của GV dạy học phần
I môn GDCD lớp 10?
Kết quả thu được như sau:
Bảng 4: Đánh giá của HS về cách truyền đạt kiến thức của GV dạy học phần I môn
GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Khối 10
Mức độ
Rất dễ hiểu
Dễ hiểu
Bình thường
Khó hiểu
Tổng số
Số lượng
Phần trăm (%)
15
20
75
33
143
10,5 %
14 %
52,3 %
23,2 %
100%
Kết quả từ bảng 4 cho thấy:
Có rất ít HS được điều tra cho rằng GV dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 có
cách truyền đạt kiến thức rất dễ hiểu (chiếm 10,5 %); số HS đánh giá dễ hiểu
cũng chiếm tỉ lệ khiêm tốn (chiếm 14 %); bình thường chiếm tỉ lệ lớn (52,3 %);
cịn 23,2 % cho rằng khó hiểu.
Từ kết quả điều tra trên tơi nhận thấy việc giảng dạy học phần I môn GDCD
lớp 10 của GV chưa kích thích được hứng thú học tập cũng như nhận thức về
tầm quan trọng của học phần I mơn GDCD lớp 10 nói riêng và tri thức GDCD
nói chung.
Nhìn chung, kết quả học tập mơn GDCD của HS chưa cao, điểm khá, giỏi
chiếm tỉ lệ nhỏ, chủ yếu là điểm trung bình, vẫn cịn HS bị điểm yếu. Với thực tế
giảng dạy chưa mang lại được hiệu quả trong quá trình tiếp thu tri thức mới “khó
hiểu”, làm cho quá trình dạy học nặng nề, nhàm chán. Vì thế, đổi mới phương
pháp dạy học phần I môn GDCD lớp 10 là một yêu cầu đang được đặt ra nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy.
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng dạy học phần I môn GDCD
lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Với đối
tượng là con em các dân tộc vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn, việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của HS là vấn đề cần
được quan tâm. Phần lớn HS đều có khả năng nhận thức chưa cao, chưa chủ
động, sáng tạo trong quá trình tìm hiểu tri thức mới. Việc đổi mới phương pháp
dạy học phải trên cơ sở đối tượng HS, nên các phương pháp dạy học tích cực
chưa được sử dụng nhiều, các phương pháp dạy học truyền thống vẫn chiếm vị
trí chủ đạo. Trên cơ sở đối tượng HS, ưu điểm và hạn chế của phương pháp
thuyết trình và phương pháp thảo luận nhóm. Để góp phần đổi mới phương pháp
giảng dạy, nâng cao chất lượng dạy – học, tôi đưa ra phương pháp dạy học có sự
kết hợp giữa phương pháp truyền thống (thuyết trình) và hiện đại (thảo luận
nhóm), trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
CHƯƠNG 2
THỰC NGHIỆM KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI
PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHĨM TRONG DẠY HỌC PHẦN I MƠN
GDCD LỚP 10 Ở TRƯỜNG THPT CHU VĂN THỊNH, HUYỆN MAI SƠN,
TỈNH SƠN LA
2.1. Kế hoạch thực nghiệm
2.1.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm được thực hiện để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của giả
thuyết của việc vận dụng phương pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học phần I môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Hiệu quả của vấn đề nghiên cứu được xác định qua
kết quả học tập mơn học của HS. Từ đó khái qt thành quy trình soạn và giảng
học phần I mơn GDCD lớp 10 có sự kết hợp giữa phương pháp thuyết trình với
phương pháp thảo luận nhóm.
2.1.2. Đối tượng thực nghiệm
Để có được kết quả phù hợp với giả thuyết và với mục đính nghiên cứu,
chúng tơi đã lựa chọn 4 lớp khơng có sự khác nhau đáng kể về các điều kiện dạy
học và khả năng nhận thức của HS, trong đó có 2 lớp thực nghiệm và 2 lớp đối
chứng.
Bảng 5: Số lượng HS tham gia
Stt
1
2
3
4
Tên lớp
10C
10B
10A
10D
Đối tượng
Đối chứng
Đối chứng
Thực nghiệm
Thực nghiệm
Số HS
43 HS
44 HS
49 HS
45 HS
Tổng số
87 HS
94 HS
2.1.3. Nội dung thực nghiệm
Soạn giáo án bài 5, 7 (tiết 2) của phần I “Công dân với việc hình thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học” mơn GDCD lớp 10, tương ứng 2 tiết
dạy thực nghiệm theo mục đích đã nêu trên.
2.1.4. Giả thuyết thực nghiệm
Trong các hình thức truyền thụ tri thức, vận dụng sự kết hợp của hai phương
pháp (thuyết trình với thảo luận nhóm) có vị trí quan trọng trong dạy học. Tuy
nhiên sự kết hợp giữa hai phương pháp trên chưa được sử dụng theo đúng quy
trình trong dạy học phần I mơn GDCD lớp 10 ở trường THPT Chu Văn Thịnh,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Vì thế, chưa phát huy hết được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS. Vấn đề này đang trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu
quả dạy học môn học. Nếu vận dụng sự kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp thảo luận nhóm theo hướng đề xuất sẽ nâng cao tính tích cực học
tập, chất lượng dạy học môn học.
2.1.5. Địa điểm và thời gian thực nghiệm
- Địa điểm thực nghiệm: Trường THPT Chu Văn Thịnh, huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La.
- Thời gian thực nghiệm: từ tháng 09 năm 2012 đến tháng 01 năm 2013.
2.1.6. Tiến hành thực nghiệm
Để tiến hành thực nghiệm tơi đã chọn một nhóm thực nghiệm (gồm 2 lớp) và
một nhóm đối chứng (gồm 2 lớp). Lớp thực nghiệm dạy và học theo phương
pháp của vấn đề tôi đã đề xuất, lớp đối chứng dạy và học theo phương pháp
truyền thống. Sau mỗi tiết thực nghiệm, tôi cho HS lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng làm bài kiểm tra. Trên cơ sở kết quả bài kiểm tra, rút ra nhận xét, đánh giá
về hiệu quả của vấn đề đặt ra trong khóa luận. Quá trình thực nghiệm của tơi theo
trình tự:
- Bước 1: GV tìm hiểu nội dung thực nghiệm, nghiên cứu tài liệu, thống nhất
giáo án.
- Bước 2: Tiến hành thực nghiệm trên lớp.
● Thiết kế bài giảng thực nghiệm
GIÁO ÁN BÀI DẠY THỰC NGHIỆM
(Theo SGK GDCD lớp 10, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Giáo dục, HN
2010, sách dùng trong các trường THPT)
* Bài thực nghiệm thứ nhất
Bài 5: Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng
I – Mục tiêu bài học
Học xong bài này học sinh cần:
1, Về kiến thức
- Hiểu được khái niệm chất, lượng theo nghĩa triết học.
- Hiểu được thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất là quy luật
phổ biến của sự vận động và phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thế
giới khách quan.
2, Về kỹ năng
- Giải thích được mặt chất, lượng của sự vật và hiện tượng.
- biết được cách thức phát triển của sự vật và hiện tượng là sự thay đổi dần
về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất.
3, Về thái độ
- Biết cần cù, kiên trì, nhẫn lại trong học tập và rèn luyện “tích tiểu thành
đại”, “năng nhặt chặt bị”…
II – Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
1, Chuẩn bị của giáo viên
- Giáo án, sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD lớp 10
- Tài liệu tham khảo ( giáo trình triết học Mác – Lênin), đồ dùng trực quan
2, Chuẩn bị của học sinh
- Học bài cũ, chuẩn bị bài mới
- Sách giáo khoa GDCD lớp 10
III – Tiến trình lên lớp
1, Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số (1’)
2, Kiểm tra bài cũ (3’)
3, Giảng bài mới
* Hoạt động 1: Giới thiệu bài mới (1’)
Mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới đều có mặt chất và mặt lượng thống
nhất với nhau. Chất và lượng đều là thuộc tính vốn có của sự vật và hiện tượng,
khơng thể có chất và lượng thuần túy tồn tại bên ngoài sự vật và hiện tượng,
cũng như khơng thể có chất tồn tại ngồi lượng và ngược lại. Vậy, chất là gì?
Lượng là gì? Chất và lượng tồn tại, chuyển hóa cho nhau như thế nào? Chúng ta
sẽ cùng nhau tìm hiểu trong bài học ngày hơm nay – Bài 5: Cách thức vận động,
phát triển của sự vật và hiện tượng.
* Hoạt động 2: Giảng bài mới
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN (GV) VÀ
HỌC SINH (HS)
THỜI
GIAN
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
GV: Mỗi sự vật và hiện tượng trong thế
giới khách quan đều có mặt chất và
lượng thống nhất với nhau, khơng có
chất, lượng tồn tại thuần túy. Vậy muốn
biết sự thống nhất đó như thế nào?
Trước tiên chúng ta tìm hiểu khái niệm
chất, lượng.
10’
GV: Tổ chức cho học sinh thảo luận
nhóm theo các câu hỏi.
- Chia lớp thành 3 nhóm.
- Thời gian suy nghĩ 5’.
- Đại diện từng nhóm trả lời.
- Ý kiến thành viên trong nhóm và các
nhóm khác.
- Giáo viên tổng hợp, bổ sung, khái
quát.
1, Chất
Câu hỏi?
Nhóm 1: Em hãy chỉ ra những thuộc
tính của kẽm?
Nhóm 2: Những thuộc tính nào là cơ
bản, khơng cơ bản của kẽm? Tại sao?
Nhóm 3: Tổng hợp những thuộc tính cơ
bản của sự vật nói lên điều gì?
HS: trả lời
Nhóm 1
- Đại diện trả lời
- Ý kiến bổ sung của các thành viên
khác trong nhóm
- Ý kiến nhóm khác
GV: Nhận xét, bổ sung
- Kẽm có nhưng thuộc tính cơ bản sau:
Kí hiệu hóa học: Zn
Khối lượng riêng: 7,14 g/cm3
Nhiệt độ nóng chảy: 4190C
Nhiệt độ sơi: 9070C
Là kim loại
Có ánh kim, dẫn điện, dẫn nhiệt
Nhóm 2
- Đại diện trả lời
- Ý kiến bổ sung của các thành viên
khác trong nhóm
kiến nhóm khác
GV: Nhận xét, bổ sung
- Thuộc tính khơng cơ bản: là kim loại,
dẫn điện, dẫn nhiệt, có ánh kim. Bởi vì,
ngồi kẽm các kim loại khác cũng có
những thuộc tính này.
- Thuộc tính cơ bản: ký hiệu hóa học,
khối lượng riêng, nhiệt độ nóng
chảy,nhiệt độ sơi. Bởi vì, những thuộc
tính trên chỉ có ở kẽm.
Nhóm cịn lại bổ sung.
Nhóm 3
- Đại diện trả lời
- Ý kiến bổ sung của các thành viên
khác trong nhóm
- Ý kiến nhóm khác
GV: Nhận xét, bổ sung
- Tổng hợp những thuộc tính cơ bản nói
trên cho chúng ta biết chất của sự vật.
GV: Chất là gì?
HS: Trả lời
GV: Kết luận
Chất: Dùng để chỉ những
thuộc tính quy định vốn
có của sự vật và hiện
tượng, tiêu biểu cho sự
vật và hiện tượng đó,
phân biệt nó với sự vật và
hiện tượng khác
GV: Trên cơ sở khái niệm về chất em
hãy chỉ ra những thuộc tính của “cái
cốc”…
HS: trả lời
GV: nhận xét, khái qt: (hình dạng,
cơng dụng, chất liệu…)
» Chú ý: Các sự vật và hiện tượng trong
thế giới đều có rất nhiều thuộc tính
nhưng chỉ có những thuộc tính cơ bản
mới quy định bản chất của chúng; việc
phân biệt giữa thuộc tính cơ bẩn và
khơng cơ bản chỉ mang tính tương đối.
GV: Chất và lượng thống nhất với nhau,
vậy lượng của sự vật và hiện tượng là
gì?
7’
GV: Gọi HS đọc khái niệm lượng trong
SGK
HS: Đọc khái niệm lượng
GV: Khái quát, kết luận
2, Lượng