Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị ở trường trung cấp y dược bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.91 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ NHUNG
KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH
VỚI PHƯƠNG PHÁP ĐÀM THOẠI TRONG DẠY
HỌC
MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG TRUNG
CẤP
Y DƯỢC BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Nghệ An - 2014
Nghệ An - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ NHUNG
KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH
VỚI PHƯƠNG PHÁP ĐÀM THOẠI TRONG DẠY
HỌC
MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG TRUNG
CẤP
Y DƯỢC BẮC NINH
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60140111
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn
1
Nghệ An - 2014
Nghệ An - 2014


2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và viết luận văn khoa học giáo dục,
chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn giáo chính trị, đề tài:
“Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học
môn giáo dục chính trị ở trường Trung cấp Y Dược Bắc Ninh” được sự quan
tâm giúp đỡ tận tình của các Thầy, Cô Khoa Giáo dục chính trị - Trường Đại
học Vinh. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hướng dẫn, động
viên, giúp đỡ của PGS. TS. Nguyễn Thái Sơn trong suốt thời gian tôi thực hiện
luận văn.
Để hoàn thành khoá luận, tôi xin gửi lời cảm ơn đến BGH, Khoa sau Đại
học trường Đại học Vinh. Xin cảm ơn quý thầy cô Khoa Giáo dục chính trị
trường Đại học Vinh đã truyền đạt những tri thức quý báu giúp tôi hoàn thành
chương trình học và thực hiện luận văn.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến BGH, quý thầy cô và các em học sinh
Trường Trung cấp y dược Bắc Ninh đã nhiệt tình hợp tác và tạo điều kiện thuận
lợi giúp tôi thực hiện luận văn này.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Lê Thị Nhung
MỤC LỤC
3
Trang
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLĐTBXH : Bộ lao động thương binh xã hội
BGD & ĐT : Bộ giáo dục và Đào tạo
BGH : Ban giám hiệu
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
HDDH : Hoạt động dạy học

NXB : Nhà xuất bản
PP : Phương pháp
PPDH : Phương pháp dạy học
PPTT : Phương pháp thuyết trình
PPĐT : Phương pháp Đàm thoại
PPDHTT : Phương pháp dạy học truyền thống
PPDHHĐ : Phương pháp dạy học hiện đại
QTDH : Quá trình dạy học
THPT : Trung học phổ thông
TCCN : Trung cấp chuyên nghiệp
4
DANH MỤC BẢNG
Trang
5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mùa xuân năm 1961 trong thời gian miền Bắc nước ta bắt tay vào công
cuộc xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh đã từng nói rằng: Muốn xây dựng thành
công Chủ Nghĩa Xã Hội trước hết cần phải có con người Xã Hội Chủ Nghĩa. Đó
là những con người phát triển toàn diện: Đạo đức, trí tuệ, trung với nước, hiếu với
dân, yêu thương con người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, tinh thần quốc
tế trong sáng. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu phát triển của thời đại trong giai
đoạn hiện nay. Từ rất sớm trong các văn kiện của Đảng xác định xem giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Thế nhưng một thực tế cho thấy rằng ngày nay chất lượng giáo dục và đào
tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, nhất là đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao vẫn còn hạn chế chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã
hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng về số lượng, quy mô với nâng
cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người hay nói cách khác đó là hiện tượng
thừa thầy thiếu thợ. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học còn lạc hậu,

chậm đổi mới nặng về lý thuyết coi nhẹ thực hành; Cơ cấu giáo dục không hợp lý
giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trước tình hình đó, yêu cầu những người làm công tác giáo dục phải không
ngừng đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa nói chung và đổi mới
phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giáo viên nói riêng. Việc định hướng đổi mới
phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa
VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 - 1996), được thể chế hóa
trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ giáo dục
và đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4/1999). Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi:
"Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
6
học sinh; Phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; Bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; Tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Như vậy chúng ta thấy
rằng: Có nhiều yếu tố tác động đến việc nâng cao chất lượng giáo dục nhưng
chất lượng đội ngũ giáo viên là yếu tố rất quan trọng cần được quan tâm hàng
đầu. Yêu cầu về chất lượng giáo viên ngày nay bao gồm cả đạo đức nghề nghiệp, tư
tưởng chính trị, năng lực sư phạm và năng lực chuyên môn.Trong đó năng lực sư
phạm và năng lực chuyên môn là yếu tố được giáo viên thường xuyên quan tâm
và bổ sung cho phù hợp với mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học.
Thế nhưng việc đổi mới trong giáo dục nói chung và đổi mới phương
pháp dạy học nói riêng ở hệ Đại học, Cao đẳng nói chung và Trung cấp chuyên
nghiệp nói riêng vẫn chưa có những chuyển biến mạnh mẽ. Người dạy đang còn
thụ động trong giảng dạy người học còn đang ỉ lại chưa thực sự đổi mới về
phương pháp dạy và học.
Để góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy và học góp phần
nâng cao chất lượng dạy học nói chung, bộ môn chính trị ở trường trung cấp
chuyên nghiệp nói riêng, cả giáo viên và học sinh (HS) đều phải đổi mới cách
dạy và cách học. Việc kết hợp PPTT với PPĐT là một trong những hướng tiếp

cận quan trọng của việc đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay.
Qua thực tế dạy học môn chính trị ở Trường Trung cấp Y Dược Bắc Ninh
cho thấy, nhiều giáo viên còn nặng quan điểm cho rằng đây là môn học phụ cho
nên chậm đổi mới phương pháp dạy học, ngại ứng dụng các thành tựu khoa học
kỹ thuật vào trong quá trình giảng dạy, cách dạy còn thụ động chưa phát huy
được tính độc lập, tích cực, sáng tạo của người học, gây cảm giác nhàm chán ở
người học. Do vậy, kết quả học chưa cao.
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng dạy học môn học chính trị, tác
giả chọn vấn đề “Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm
thoại trong dạy học môn giáo dục Chính trị ở Trường Trung cấp Y dược
Bắc Ninh” làm Luận văn Thạc sĩ khoa học.
7
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là một trong những
nội dung thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Đã có rất nhiều công trình
khoa học nghiên cứu về việc đổi mới phương pháp dạy học như: Tác giả
Nguyễn cẩm Hưởng trong Luận văn Thạc Sĩ “Kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp tổ chức trò chơi học tập nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy
học môn Giáo dục công dân (qua khảo sát tại trường THPT Phú Tân, huyện
Phú Tân, tỉnh Cà Mau)”.
Tác giả Vũ Hạnh trong Luận văn Thạc sĩ “Vận dụng dạy học nêu vấn đề
dưới hình thức nhóm tại lớp trong quá trình dạy học môn Giáo dục công dân ở
Trường Cao đẳng Sư phạm Hải Phòng”. Năm 2000, trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã có hội thảo khoa học lý giải việc cần thiết phải vận dụng phương
pháp dạy học nêu vấn đề nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh dưới
hình thức nhóm tại lớp.
Nguyễn Cảnh Toàn - Lê Khánh Bằng, Phương pháp dạy và học, Nxb Đại
học sư phạm năm 2009; GS,TSKH. Thái Duy Tuyên, Phương pháp dạy học
truyền thống và đổi mới, Nxb Giáo dục, 2008.
Tác giả Vũ tiến Đảm trong Luận văn Thạc sĩ “Kết hợp phương pháp thuyết

trình với phương pháp nêu vấn đề trong quá trình giảng dạy môn Chính trị tại
trường cao Đẳng Đồng Nai”.
Tác giả Nguyễn Thế Diễn trong Luận văn Thạc sĩ “Kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học phần Công dân với việc
hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học môn Giáo dục công dân lớp
10 (qua khảo sát tại trường THPT Tam Nông, Huyện Tam Nông, Tỉnh Đồng
Tháp).
Tác giả Đinh Thị Quỳnh Liên trong Luận văn Thạc sĩ “Kết hợp phương
pháp thuyết trình với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học phần “Công
8
dân với các vấn đề chính trị - Xã hội” môn Giáo dục công dân lớp 11 (qua khảo
sát tại trường THPT Nguyễn Hiền Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh).
GS. TSKH Thái Duy Tuyên: “Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh;
Về nội dung đổi mới phương pháp dạy học; Tích cực hoá hoạt động nhận thức
qua điều khiển hoạt động trí tuệ của người học”, Viện chiến lược và chương
trình giáo dục, Hà Nội, 2002. Liên quan đến các phương pháp thuyết trình,
phương pháp đàm thoại có các công trình tiêu biểu như: Ths Phan Thị Loan “Sử
dụng phương pháp thuyết trình và phương pháp xêmina trong đổi mới phương
pháp dạy học sinh học ở trường CĐSP”, Trường CĐSP Quảng Trị. Tác giả nêu
rõ sự cần thiết phải đổi mới PPTT và xêmina trong dạy học nhằm phát huy tính
tích cực của người học.Vấn đề nâng cao chất lượng dạy học các môn giáo dục
công dân trong nhà trường được bàn đến rất nhiều trong các luận văn thạc sĩ,
sách, báo như: Nguyễn Đăng Bằng (Chủ biên) “Góp phần dạy tốt, học tốt môn
giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông”, NXB. Giáo dục 2002;
Nguyễn Thái Sơn - Hoàng Thanh Hiển, “Vấn đề nâng cao chất lượng dạy học
môn giáo dục công dân ở trường THPT hiện nay” Tập kỷ yếu kỉ niệm 52 năm
thành lập trường Đại học Vinh. Hai tác giả đã nêu một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học môn giáo dục công dân cấp THPT trong đó có giải
pháp rất quan trọng là cần kết hợp PPTT với các PP khác trong khi dạy vì
“Không có phương pháp nào là vạn năng”; Sở giáo dục và đào tạo Đồng Tháp

(2010) “Kỷ yếu hội thảo đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh
giá môn giáo dục công dân trung học phổ thông”, với quan điểm chỉ đạo cơ bản
là tăng cường đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn GDCD ở
cấp THPT dựa trên đối tượng HS nhằm phát huy tính tích cực của các em trong
học tập; Nguyễn Văn Cường (2011) “Một số vấn đề chung về đổi mới PPDH ở
trường THPT” - Dự án phát triển giáo dục trung học phổ thông, tác giả chỉ rõ
những nội dung cơ bản nhất của đổi mới PPDH ở trường THPT và nhấn mạnh
cần thiết phải kết hợp linh hoạt các PP vào dạy học để phát huy vai trò của
9
người học; Vơ Hải An (2009) “Giải pháp nâng chất lượng dạy học phần công
dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học”. Gần đây,
có rất nhiều hội thảo về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học các môn khoa học
Mác - Lênin trong việc học tập môn Chính trị trong các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp trong cả nước.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã bàn khá sâu sắc về việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Vấn đề kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị ở nước ta
nói chung; Trong đó có trường Trung cấp Y dược Bắc Ninh nói riêng. Tuy nhiên
bản thân tôi nhận thấy các đề tài còn tập trung chủ yếu vào đối tượng là học sinh
THPT còn đối tượng học sinh trung cấp chuyên nghiệp tương đối ít chưa được
phân tích một cách cụ thể trong quá trình dạy học. Do vậy chúng tôi nhận thấy,
việc kết hợp PPTT với PPĐT trong dạy học môn giáo dục chính trị ở bậc trung
cấp chuyên nghiệp là một trong những vấn đề đang được quan tâm hiện nay.
Chính vì thế, nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học của các tác giả có vai
trò quan trọng, giúp chúng tôi tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn về cơ sở lý
luận của việc kết hợp PPTT với PPĐT, từ đó xác định được quy trình kết hợp
kết hợp PPTT với PPĐT, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn giáo
dục chính trị ở các trường Trung cấp chuyên nghiệp nói chung và trường Trung
cấp Y dược Bắc Ninh nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị ở Trường
Trung cấp y dược Bắc Ninh, từ đó luận văn đề xuất quy trình và các giải pháp
kết hợp hai phương pháp này nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích cơ sở lý luận của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp đàm thoại trong quá trình dạy học.
10
- Khảo sát, đánh giá thực trạng kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị ở Trường Trung
cấp y Dược Bắc Ninh, thực nghiệm, đối chứng việc kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị.
- Thực nghiệm, đối chứng việc kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị tại trường Trung
cấp Y dược Bắc Ninh.
- Đề xuất quy trình và giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về phương pháp dạy học nói chung và sự kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại trong việc dạy học môn
giáo dục chính trị thông qua một số bài học cụ thể trong môn học này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sự kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm
thoại trong quá trình dạy học môn giáo dục chính trị ở Trường Trung cấp Y dược
Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử. Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo
dục và đổi mới giáo dục; Nội dung, chương trình môn học chính trị; Lý luận dạy
học và phương pháp dạy học môn giáo dục Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, thu thập các tài liệu có liên
quan đến đề tài kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm thoại
trên cơ sở đó xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
11
- Phương pháp điều tra khảo sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp quan
sát, phương pháp thực nghiệm sư phạm, phương pháp thống kê toán học
6. Giả thuyết khoa học
Đề tài luận văn nêu ra giả thiết nếu kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị thì sẽ phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học môn giáo dục chính trị ở trường Trung cấp Y dược Bắc Ninh
nói riêng và trường Trung cấp chuyên nghiệp nói chung.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Đề tài về việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp đàm
thoại góp phần nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn, phát huy tính năng
động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức cho người học.
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp
dạy học thuyết trình với phương pháp dạy học đàm thoại trong dạy học môn
giáo dục Chính trị.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn giáo dục chính trị ngày
càng đạt hiệu quả cao hơn.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý giáo dục
và giáo viên dạy môn giáo dục chính trị ở các trường Trung cấp, cao đẳng, đại học.
8. Kết câu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
gồm có 3 chương, 2 tiết.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp
thuyết trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị ở
các Trường Trung cấp chuyên nghiệp.
Chương 2: Thực nghiệm sư phạm kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị ở Trường Trung
cấp y dược Bắc Ninh.
12
Chương 3: Quy trình và giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục chính trị ở Trường Trung
cấp y Dược Bắc Ninh.
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP ĐÀM THOẠI
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP Y DƯỢC BẮC NINH
1.1. Cơ Sở lý luận của việc kết hợp phương pháp thuyết trình và phương
pháp đàm thoại trong dạy học môn giáo dục Chính trị ở trường Trung cấp
1.1.1. Phương pháp thuyết trình
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp thuyết trình
PPTT là một trong những PPDH xuất hiện rất sớm trong lịch sử dạy học và
được sử dụng phổ biến cho đến ngày nay, đặc biệt là dạy học các môn khoa học
xã hội và các môn khoa học Mác- Lê Nin. Do vậy đã có rất nhiều quan điểm khác
nhau khi nói về phương pháp này: Theo tác giả Trần hồng Quân Thì PPTT là
phương pháp GV sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để cung cấp cho người học
hệ thống thông tin về nội dung học tập. Người học tiếp nhận thông tin đó từ người
dạy và xử lý chúng tùy theo chủ thể của người học và yêu cầu của người dạy. Có
nhà khoa học cho rằng: PPTT là phương pháp dùng lời nói của GV để trình bày
thuyết minh, khai thác nội dung lý luận nào đó nhằm mục đích truyền đạt kiến
thức thông báo hoặc thuyết lý một nội dung khoa học.

Theo tác giả Phùng Văn Bộ trong cuốn “Phương pháp dạy học Giáo dục
Công dân” - Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999: “Phương pháp
thuyết trình là phương pháp dạy học trong đó giáo viên dùng lời nói sinh động,
13
gợi cảm thuyết phục để truyền thụ hệ thống tri thức Giáo dục Công dân cho học
sinh theo chủ đích nhất định, nhờ vậy học sinh tiếp thu bài giảng một cách có ý
thức” [2, 25].
PPTT là phương pháp trình bày có hệ thống, sáng tạo bằng lời nói sinh
động theo một trình tự lôgic chặt chẽ, một khối lượng tri thức phong phú cho
người học. Thông qua diễn giảng giáo viên trình bày có tính chất thời sự phức
tạp, mới mẻ trong khoảng thời gian ngắn, thông thường trong quá trình dạy học
là các tri thức chương trình những vấn đề này tác động mạnh mẽ đến tư tưởng,
tình cảm của học sinh đồng thời tiết kiệm về mặt kinh tế vì chỉ cần một giáo viên
có thể phục vụ một số lượng lớn học sinh.
Phương pháp thuyết trình thể hiện dưới các hình thức: Kể chuyện, giảng
giải, diễn giảng, giảng thuật:
+ Kể chuyện là phương pháp thuyết trình, trong đó giáo viên dùng lời nói
biểu cảm và các thao tác dẫn dắt học sinh tiếp cận và làm nổi bật nội dung của
tri thức cần truyền thụ.
+ Giảng thuật là một trong những phương pháp thuyết trình, trong đó có yếu
tố miêu tả, trần thuật. Giảng thuật không chỉ được sử dụng trong các môn khoa học
xã hội - Nhân văn mà còn cả những bộ môn khoa học tự nhiên. Nó được sử dụng
khi miêu tả những thí nghiệm, hiện tượng hoặc trình bày cuộc đời và sự nghiệp của
nhà bác học lỗi lạc, những thành tựu nổi tiếng trong khoa học - công nghệ… Trong
giảng thuật, giáo viên có thể trích những đoạn văn, thơ ngắn, những câu nói hay
những đoạn trích từ các tác phẩm văn học, các văn kiện lịch sử… Để làm cho bài
giảng thêm sinh động, diễn cảm, giàu hình ảnh. Cũng có thể kết hợp sử dụng các
phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học để minh họa cho việc t‹nh bày
của Œnh. Cũng có thể đặt ra những câu hỏi nhằm thu hút sự chú ý, định hướng sự
lắng nghe hoặc kích thích tính tích cực cũng như để kiểm tra hiệu quả việc lĩnh hội

tri thức của học sinh.
+ Giảng giải là phương pháp dạy học bằng việc dùng những luận cứ, số liệu
để chứng minh một sự kiện, hiện tượng, quy tắc, định lý, định luật, công thức,
14
nguyên tắc trong các môn học. Giảng giải chứa đựng các yếu tố phán đoán, suy
lý nên có nhiều khả năng phát triển tư duy logic của học sinh. Trong quá trình
dạy học, giảng giải thường kết hợp với giảng thuật.
+ Diễn giảng là một trong những phương pháp thuyết trình nhằm trình
bày một vấn đề hoàn chỉnh có tính chất phức tạp, trừu tượng và khái quát trong
một thời gian tương đối dài (30-35 phút và hơn thế), chẳng hạn như trình bày
các trào lưu văn học ở một giai đoạn nào đó. Phương pháp này đối với việc dạy
học ở PTCS thường ít dùng so với giảng thuật và giảng giải. Khi dùng, nó
thường kết hợp với hai phương pháp kia.
Cấu trúc của phương pháp thuyết trình:
Khi dùng phương pháp thuyết trình để trình bày vấn đề nào đó cũng phải
trải qua bốn bước: Đặt vấn đề, phát biểu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận rút
ra từ vấn đề đó:
- Đặt vấn đề: Là bước đầu tiên nhằm thông báo vấn đề dưới dạng tổng
quát để kích thích sự chú ý ban đầu của học sinh.
- Phát biểu vấn đề: Là bước nhằm vạch ra phạm vi những vấn đề cần phải
xem xét.
- Giải quyết vấn đề: Bước này có thể tiến hành theo logic quy nạp, Logic
quy nạp là con đường nhận thức từ sự kiện, hiện tượng đến cái chung, cái khái
quát, từ những trường hợp cụ thể đến quy luật, khái niệm, nguyên tắc.
- Kết luận: Là bước kết thúc việc trình bày vấn đề. Nó là sự kết tinh dưới
dạng súc tích, chính xác những khái quát bản chất của vấn đề đưa ra xem xét.
Cách đặt vấn đề và cách phát biểu vấn đề có thể tiến hành bằng cách thông báo
tái hiện hoặc có tính vấn đề. Cách giải quyết vấn đề có thể bằng logic quy nạp
hay logic diễn dịch. Điều đó chứng tỏ cấu trúc của phương pháp thuyết trình đã
phản ánh mặt bên trong và mặt bên ngoài của phương pháp dạy học nói chung

và phương pháp thuyết trình nói riêng.
15
1.1.1.2. Ưu điểm, hạn chế của phương pháp thuyết trình trong dạy học môn
chính trị
Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Phương pháp
thuyết trình có những ưu điểm sau:
- Thứ nhất: PPTT dễ thực hiện, không đòi hỏi bất cứ phương tiện nào
trong quá trình dạy học.
- Thứ hai: Trong một khoảng thời gian nhất định có thể truyền tải được
một khối lượng kiến thức lớn đến với người học cùng một lúc, nó sẽ mang lại
hiệu quả kinh tế trong giáo dục. Những kiến thức trừu tượng nhờ khả năng tài
nghệ sư phạm của giáo viên có thể làm cho nó cụ thể, sống động hơn, người học
có thể học được cách lập luận một vấn đề khó từ giáo viên, cách trình bày, cách
mô tả, giải thích, giảng giải một vấn đề như sự kiện lịch sử, các chuyên đề, các
nguyên tắc, quy luật mà PP khác khó có thể đem lại hiệu quả cao hơn. Nếu giáo
viên biết sử dụng ngôn ngữ truyền cảm của mình, đặc biệt là giọng điệu và âm
sắc thì càng dễ đi vào lòng người hơn bao giờ hết.
- Thứ ba: Cho phép giáo viên truyền đạt những nội dung lý thuyết tương
đối khó, phức tạp, chứa đựng nhiều thông tin mà học sinh tự mình không dễ
dàng tìm hiểu được một cách sâu sắc.
- Thứ tư: Giúp học sinh nắm được hình mẫu về cách tư duy logic, cách đặt
và giải quyết vấn đề khoa học, cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt những vấn đề
khoa học một cách chính xác, rõ ràng, xúc tích thông qua cách trình bày của
giáo viên. Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tác động mạnh mẽ đến tư tưởng,
tình cảm của học sinh qua việc trình bày tài liệu với giọng nói, cử chỉ, điệu bộ
thích hợp và diễn cảm.
- Thứ năm: Tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý và kích thích tính tích
cực tư duy của học sinh, vì có như vậy học sinh mới hiểu được lời giảng của
giáo viên và mới ghi nhớ được bài học.
16

- Thứ sáu: Bằng phương pháp thuyết trình người dạy cung cấp cho người
học những thông tin mới nhất so với giáo trình mang tính chất thời sự.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới PPDH theo hướng hiện đại
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS: Mặc dù PPTT là PP
tiêu biểu cho hệ thống PPDH truyền thống nhưng với những ưu điểm nội bật
vừa trình bày ở trên thì PPTT vẫn phát huy hiệu quả của nó nhất là ở các môn
khoa học xã hội.
Hạn chế của phương pháp thuyết trình
- Làm cho học sinh ít có cơ hội phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của mình, thụ động, chỉ sử dụng chủ yếu thính giác cùng với tư duy tái hiện, do
đó làm cho họ chóng mệt mỏi.
- Làm cho học sinh thiếu tính tích cực, hạn chế khả năng tư duy độc lập
trong việc phát triển ngôn ngữ nói, học sinh dễ ỷ lại giáo viên như không tích
cực suy nghĩ, đưa ra các quan điểm của mình về những vấn đề được học.
- Giáo viên khó nắm bắt, đánh giá một cách đầy đủ trình độ nhận thức
cũng sự lĩnh hội tri thức của từng học sinh.
- Sử dụng phương pháp thuyết trình làm cho người dạy dễ rơi vào trạng
thái độc thoại, ít thông tin phản hồi từ người học. Người dạy chóng mệt mỏi,
người học có cảm giác nhàm chán.
Gần đây các nhà khoa học đã nghiên cứu và chứng minh rằng tỉ lệ phần
trăm lưu trữ thông tin trong trí nhớ học sinh nếu bằng phương pháp lời nói sau
03 ngày là 10%, sử dụng hình ảnh trực quan 20%, kết hợp cả lời nói và hình ảnh
là 70%, kết hợp cả lời nói, hình ảnh và hành động là 80%. Tự để học sinh tìm tòi
phát hiện tỉ lệ lưu giữ thông tin là 90%.
Xuất phát từ những hạn chế trên mà đã có khá nhiều quan điểm cho rằng
cần loại bỏ PPTT ra khỏi hệ thống PPDH trong nhà trường. Tuy nhiên qua thực
tế giảng dạy hàng ngày trên lớp thì chúng ta thấy rằng PPTT vẫn còn rất nhiều
ưu điểm của nó “Nhiều bài giảng giáo viên đã để lại những ấn tượng lớn, ảnh
17
hưởng lâu dài đến học sinh không những giá trị học thuật, mà còn cả về tình cảm

đạo đức và tâm huyết nghề nghiệp”. Đây là điều mà những giáo viên lên lớp
hàng ngày rõ hơn ai hết.
1.1.1.3. Những yêu cầu cơ bản khi sử dụng phương pháp thuyết trình
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần:
- Thứ nhất, muốn thuyết trình một vấn đề nào đó giáo viên cần làm chủ
kiến thức trong bài giảng, không gặp phải những “tình huống khó xử” trong
dạy học.
- Thứ hai, khi lên lớp giáo viên phải giữ tư cách mẫu mực trước học sinh.
- Thứ ba: Lời giảng của giáo viên.
+ Phải chính xác, rõ ràng.
+ Lời giảng phải gợi cảm.
+ Tốc độ và cường độ của lời giảng phải phù với trình độ nhận thức của
đối tượnghọc sinh.
- Thứ tư, lựa chọn những vấn đề có khả năng thuyết trình mà học sinh
cảm thấy hấp dẫn, phù hợp với trình độ nhận thức, tâm trạng của người học. Đi
sâu vào đời sống tâm lí, lứa tuổi học sinh.
- Thứ năm, luôn luôn làm chủ cảm xúc và biết điều chỉnh cảm xúc của
giáo viên theo những tình huống sư phạm, điều này tạo nên sự cân bằng tâm lí,
không rơi vào sự sa đà, tản mạn kiến thức, thái độ tiêu cực nửa vời trong quá
trình giảng bài.
- Thứ sáu, biết sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, cú pháp chính xác, trình
bày mạch lạc, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nghe, nhịp độ và âm lượng vừa phải
(khoảng 80-120 từ/phút) và được minh họa bằng thực tiễn sinh động.
- Thứ bảy, khả năng quan sát đối tượng làm sao có thể bao quát được toàn
bộ lớp và từng cá nhân để từ đó điều chỉnh nội dung cũng như cá biệt hóa trong
dạy học.
18
- Thứ tám: Trình bày chính xác các hiện tượng, sự kiện, khái niệm, định
luật, vạch ra bản chất của vấn đề, ý nghĩa tư tưởng, chính trị của tài liệu học tập.
Đảm bảo tính tuần tự logic, rõ ràng, dễ hiểu với lời nói gọn, rõ, sáng sủa, giàu

hình tượng, chuẩn xác, xúc tích.
- Thứ chín: Trình bày phải thu hút và duy trì sự chú ý, gây được hứng thú,
hướng dẫn tư duy của học sinh thông qua giọng nói, tốc độ nói, âm lượng thay
đổi thích hợp, qua các mẩu chuyện vui đúng lúc, qua cách đặt vấn đề và giải
quyết vấn đề, kết hợp lời nói với điệu bộ, nét mặt, biết đưa những lời trích dẫn
vào đúng lúc, đúng chỗ.
- Thứ mười: Trình bày phải đảm bảo cho học sinh ghi chép được những
vấn đề cơ bản và qua đó mà dạy cho họ biết cách vừa ghi vừa tập trung nghe
giảng. Như vậy, muốn PPTT mang lại hiệu quả cao, giáo viên phải biết kết hợp
những ưu điểm của PP khác để khắc phục hạn chế của PP này. Thuyết trình vẫn
là PP có nhiều ưu điểm lớn trong dạy học.
1.1.2. Phương pháp đàm thoại
1.1.2.1. Khái niệm về phương pháp đàm thoại
- Phương pháp đàm thoại là một trong những phương pháp dạy học tích
cực có từ thời cổ đại, thế kỉ thứ III trước công nguyên.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau nói về phương pháp này: Theo
Socrate Phương pháp đàm thoại dựa trên các câu hỏi - đáp, học sinh không tự
khám phá mà chỉ theo từng bước lý luận do giáo viên đưa ra.
Bởi vậy, phương pháp này có thể gọi là phương pháp khám pháp thụ
động. Dạy học là nghệ thuật đặt câu hỏi.
“Học tốt bắt đầu bằng câu hỏi chứ không phải câu trả lời” - Gayclaxton- GS
Giáo dục và giámđốc phát triển của CLIO Đại học Bristol. Vì vậy dạy học phải
chú trọng vào việc đặt ra những cơ hội, điều kiện học tập thuận lợi cho học sinh.
Hầu hết các giáo viên có kinh nghiệm đều sử dụng rất nhiều kỹ thuật đặt câu hỏi
khi dạy học trên lớp, tại nhóm cũng như khi dạy cho từng cá nhân HS.
19
Câu hỏi được sử dụng thường xuyên trong dạy học, nó xâm nhập vào tất
cả các phương pháp dạy học, với nhiều mục đích khác nhau như kiểm tra, đánh
giá, tổ chức nghiên cứu tài liệu mới, hoàn thiện củng cố kiến thức. Nhiều chuyên
gia giáo dục, các GV giỏi, nhiều kinh nghiệm đều cho rằng: Câu hỏi giữ vai trò

quan trọng trong dạy học, là một trong các công cụ đắc lực cho GV đặt câu hỏi
là “một trong những cách cơ bản để GV kích thích HS suy nghĩ về học tập”. Tuy
nhiên để đặt được những câu hỏi phù hợp, tạo cơ hội cho học sinh tham gia lĩnh
hội kiến thức một cách tích cực nhất, kích thích và phát triển tư duy, đồng thời
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh không
phải là việc đơn giản. Trong thực tế, thường những giáo viên nhiều kinh nghiệm
sẽ làm việc này tốt hơn những giáo viên ít kinh nghiệm; Rất nhiều giáo viên
thường chỉ dừng lại ở việc sử dụng câu hỏi để tái hiện kiến thức, như vậy chưa
kích thích được học sinh tư duy.
Theo lý luận dạy học bộ môn giáo dục chính trị, Phương pháp đàm thoại
(vấn đáp) là phương pháp giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để HS trả lời
nhằm gợi mở cho HS sáng tỏ những vấn đề mới; Tự khai phá những tri thức mới
bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích lũy được
trong cuộc sống, nhằm giúp HS củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hóa
tri thức đã tiếp thu được nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp HS tự kiểm tra,
tự đánh giá việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình dạy học.
Phương pháp đàm thoại (PPĐT) phát hiện là một trong những phương
pháp dạy học tích cực, HS không những lĩnh hội được nội dung tri thức một
cách tích cực mà còn học được cả PP nhận thức và diễn đạt tư tưởng bằng lời
nói. Trong phương pháp dạy học này hệ thống câu hỏi có vai trò vô cùng quan
trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng lĩnh hội của cả lớp, do đó, phải
hướng tư duy của HS đi theo một logic hợp lí, kích thích tích cực tìm tòi, trí tò
mò khoa học và cả sự ham muốn giải đáp.
Phương pháp đàm thoại là phương pháp hỏi và đáp. Giáo viên tổ chức học
sinh học tập thông qua sử dụng hệ thống các câu hỏi và trả lời. Các
20
Câu hỏi được sắp xếp theo một chủ đề từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp để dẫn học sinh đến mục tiêu nắm vững kiến thức.
1.1.2.2. Các hình thức, ưu điểm, hạn chế của phương pháp đàm thoại
Các hình thức của phương pháp đàm thoại:

Trong QTDH, có nhiều cách phân loại các PPĐT tùy thuộc vào cơ sở lựa
chọn để phân loại.
* Dựa vào mục đích dạy học dựa vào tính chất HĐ nhận thức của HS
Trong QTDH.
Dựa vào mục đích dạy học Dựa vào tính chất HĐ nhận thức của HS
- Đàm thoại gợi mở
- Đàm thoại củng cố
- Đàm thoại tổng kết
- Đàm thoại kiểm tra
- Đàm thoại tái hiện
- Đàm thoại minh họa giải thích
- Đàm thoại phát hiện
- Đàm thoại gợi mở được sử dụng khi dạy bài mới, trong đó GV khéo léo
dùng một hệ thống câu hỏi dẫn HS đi tới những kiến thức mới. Phương pháp
này được phát triển trong thực tiễn nhà trường nước ta, tạo điều kiện cho HS
phát huy được tính tích cực độc lập nhận thức, phát triển được hứng thú học tập,
khát vọng tìm tòi khoa học.
- Đàm thoại củng cố được sử dụng sau khi giảng bài mới, giúp HS nắm
vững tri thức cơ bản nhất, mở rộng, đào sâu những khái niệm, định luật đã lĩnh
hội, khắc phục được những nhận thức sai lệch mơ hồ thiếu chính xác.
- Đàm thoại tổng kết được sử dụng lúc cần giúp HS hệ thống hóa, khái
quát hóa kiến thức sau khi học một chương, một phần hay toàn bộ chương trình
môn học, phát triển kĩ năng tư duy hệ thống hóa, khái quát hóa, khắc phục tình
trạng nắm tri thức một cách rời rạc.
21
- Đàm thoại kiểm tra được sử dụng trước, trong hoặc cuối tiết học, cuối
chương hay cuối chương trình, giúp HS tự kiểm tra kiến thức của mình, giúp
GV đánh giá chất lượng lĩnh hội của HS để củng cố, bổ sung kịp thời.
* Căn cứ vào tính chất nhận thức của người học, người ta phân biệt đàm
thoại tái hiện, đàm thoại giải thích - minh họa, đàm thoại tìm tòi - phát hiện.

- Đàm thoại tái hiện: GV đặt ra những câu hỏi chỉ đòi hỏi HS nhớ lại kiến
thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ không cần suy luận. Đàm thoại tái hiện có
nguồn gốc từ lối dạy giáo điều.
- Đàm thoại giải thích - minh họa: Có mục đích làm sáng tỏ một đề tài
nào đó. GV nêu ra một hệ thống các câu hỏi kèm theo những ví dụ minh họa để
HS dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này vẫn còn có thể áp dụng có hiệu quả trong
một số trường hợp như khi GV biểu diễn phương tiện trực quan.
- Đàm thoại tìm tòi - phát hiện: Phương pháp đàm thoại này vận dụng bản
chất của phương pháp đàm thoại Xoocrat. GV tổ chức cuộc trao đổi ý kiến, kể
cả tranh luận giữa GV và cả lớp, có khi giữa GV với HS, thông qua đó HS nắm
được tri thức mới. Hệ thống câu hỏi của GV phải mang tính chất nêu vấn đề
ơrixtic để buộc HS luôn luôn phải cố gắng phát huy trí tuệ, tự lực tìm lời giải
đáp. Hệ thống câu hỏi - lời giải đáp mang tính chất nêu vấn đề, tạo nên nội dung
trí dục chủ yếu của bài học, là nguồn kiến thức và là mẫu mực của cách giải
quyết một vấn đề nhận thức. Như vậy, thông qua phương pháp này, HS không
những nắm vững được cả nội dung trí dục mà còn học được cả phương pháp
nhận thức và cách diễn đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ nói.
Trong phương pháp này hệ thống câu hỏi của GV giữ vai trò chỉ đạo chỉ
có tính chất quyết định đối với chất lượng lĩnh hội của cả lớp. Hệ thống câu hỏi
của GV vừa là kim chỉ nam, vừa là bánh lái hướng tư duy của HS đi theo một
logic hợp lí, nó kích thích tính tìm tòi, trí tò mò khoa học và sự ham muốn giải
đáp của HS.
22
Vì thế khi kết thúc đàm thoại, HS có vẻ như tự lực tìm ra chân lí và chính
khía cạnh này đã tạo ra cho người học niềm vui sướng của nhận thức, một tình cảm
rất tốt đẹp cần phát triển ở HS. Đến cuối của quá trình đàm thoại, GV cần khéo léo
kết luận vấn đề dựa vào ngôn ngữ, ý kiến và chính nhận xét của HS, tất nhiên có
thêm bớt những ý kiến chính xác và cấu tạo lại kết luận cho chặt chẽ xúc tích và
hợp lí. Làm như vậy, HS càng hứng thú và tự tin vì thấy kết luận của GV vừa nêu
rõ ràng có sự đóng góp quan trọng của chính mình.

Ở trên lớp sự giao tiếp của GV - HS bằng lời diễn ra có tính chu kì.
* Các loại câu hỏi sử dụng trong phương pháp đàm thoại
Có nhiều căn cứ để phân loại các câu hỏi sử dụng trong dạy học:
Cơ sở phân loại Các loại câu hỏi
- Dựa vào mục đích DH
- Câu hỏi định hướng, câu hỏi gợi mở
- Dựa vào nội dung bài học
- Câu hỏi đơn giản, câu hỏi phức tạp
- Dựa vào chức năng
- Câu hỏi phân tích tổng hợp, câu hỏi so sánh
- đối chiếu, câu hỏi hệ thống hóa kiến thức
- Dưạ vào mức độ tính chất nhận
thức của HS
- Câu hỏi tái hiện, câu hỏi giải thích- minh
họa, câu hỏi phát hiện
- Theo mức độ năng lực nhận
thức
- Câu hỏi yêu cầu thấp, câu hỏi yêu cầu cao
Ưu điểm, của phương pháp đàm thoại trong dạy học môn chính trị
Thứ nhất: Kích thích được sự suy nghĩ của các em, qua việc tự tìm hoặc
trao đổi với nhau trong từng nhóm nhỏ để tìm ra được câu trả lời đúng các em
đào sâu kiến thức phát triển đầu óc tư duy sáng tạo của mình.
Thứ hai: Tập cho các em khả năng diễn đạt bằng lời nói tạo không khí
thân mật, gần gũi giữa giáo viên và học sinh.
Thứ ba: Huy động vốn tri thức của mọi người vào việc giải quyết vấn đề.
23

×