Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Phương pháp giảng dạy một số loại giá trị văn chương việt nam trung đại ở trường phổ thông luận văn thạc sỹ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529 KB, 114 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HOÀNG THANH TÙNG

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY MỘT SỐ
LOẠI GIÁ TRỊ VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM
TRUNG ĐẠI Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH - 2011


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HOÀNG THANH TÙNG

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY MỘT SỐ
LOẠI GIÁ TRỊ VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM
TRUNG ĐẠI Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN - TIẾNG
VIỆT
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM TUẤN VŨ

VINH - 2011


3
MỤC LỤC


4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam trung đại có lịch sử hơn mười thế kỷ. Trong
suốt chiều dài hơn mười thế kỷ đó văn học trung đại có vị trí quan trọng
trong lịch sử văn học nước nhà và có ý nghĩa lớn đối với đời sống tinh
thần của người Việt Nam. Văn học Việt Nam trung đại là một trong
những phần chủ yếu của chương trình Ngữ văn ở nhà trường phổ thơng.
Từ khi hợp nhất chương trình giáo dục năm 1986 đến nay và trải qua
nhiều lần chỉnh sửa chương trình, văn học trung đại Việt Nam vẫn được
xem là một trong những phần chính trong chương trình Ngữ văn ở nhà
trường phổ thơng. Chẳng hạn, chương trình phổ thơng trung học ở lớp 10
ban cơ bản có 28 tiết nghiên cứu về tác gia, tác phẩm văn học trung đại
Việt Nam. Ở chương trình lớp 11 ban cơ bản có 19 tiết tìm hiểu về tác
gia, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam trong tổng số 123 tiết của
chương trình Ngữ văn.
1.2. Nhìn chung, các tác phẩm được lựa chọn vào chương trình Ngữ
văn phổ thơng đều là những áng văn chương có nhiều giá trị tiêu biểu
của giai đoạn văn học Việt Nam trung đại. “Qua các tác phẩm người Việt

Nam được tái hiện hết sức cụ thể từ tâm hồn, tư tưởng đến tính cách
hành động và cả nỗi niềm tâm tư sâu kín. Dạy văn học trung đại để thấy
được bản sắc tâm hồn, văn hóa của con người Việt Nam trong thời kỳ
lịch sử là mục tiêu phấn đấu của giáo viên các cấp trung học phổ thông.
Trong nhà trường phổ thông văn học trung đại Việt Nam chiếm một vị
trí quan trọng, xứng đáng với tầm cỡ của nó” [9]. Bởi vậy, chất lượng
dạy - học văn học trung đại là một phần quan trọng của chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông. Đây chính là một trong những vấn đề
được quan tâm của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường
phổ thông hiện nay. Sau một thời gian cải cách, đổi mới, việc dạy - học


5
Ngữ văn ở trường trung học phổ thơng nói chung và phần văn học trung
đại Việt Nam bước đầu đã gặt hái nhiều thành công đáng ghi nhận. Song
bên cạnh những kết quả đạt được đó việc dạy - học văn chương Việt
Nam trung đại cịn có nhiều hạn chế. Những hạn chế này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân thuộc về người học, nguyên
nhân thuộc về người dạy và nhất là việc nhận thức và dạy học các thuộc
tính của văn chương Việt Nam trung đại trong đó có điển cố và cái kỳ lạ
trong truyện truyền kỳ.
1.3. Việc đổi mới phương pháp dạy học trong những năm gần đây và
sử dụng công nghệ dạy văn, coi công việc dạy học với ý thức cao và quy
trình được tổ chức chặt chẽ. Nó khác xa với phương pháp dạy học truyền
thống, mọi kiến thức mà học sinh có được đều được áp đặt từ giáo viên,
qua trình độ và năng lực cảm thụ của giáo viên. Ở phương pháp dạy học
mới, học sinh trực tiếp làm việc với văn bản văn chương, ý thức tự giác và
tự chủ của học sinh được phát huy cao độ. Hiểu và cảm thụ tác phẩm văn
chương là việc làm của mỗi cá nhân học sinh, không thể làm thay. Đây
chính là động lực, là nguyên nhân của việc dạy học văn đạt hiệu quả cao.
1.4. Mỗi văn bản văn chương Việt Nam trung đại được dạy - học

đều có những giá trị văn chương độc đáo. Tuy nhiên, bên cạnh đó
chúng có những loại giá trị phổ biến của loại hình văn học Việt Nam
trung đại. Chẳng hạn: điển cố, những giá trị kỳ lạ… Các giá trị này là
thành tố của những văn bản văn chương cụ thể và chúng cũng có
những đặc điểm của loại. Đây chính là những nét đặc thù của văn học
Việt Nam trung đại và cũng là điểm nhấn mà quá trình dạy học còn
gặp nhiều vướng mắc. Nghiên cứu phương pháp giảng dạy các loại giá
trị này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc dạy học văn
chương Việt Nam trung đại. Việc làm này nhằm góp phần vào cơng
cuộc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn ở
trường phổ thơng nói riêng.


6
2. Lịch sử vấn đề
Văn học Việt Nam trung đại chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử
văn học nước nhà cũng như trong chương trình dạy học Ngữ văn ở
trường phổ thông. Điển cố, những giá trị của cái kỳ lạ là những giá trị
đặc trưng của văn học trung đại. Cho nên liên quan đến vấn đề này đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu, có thể kể tên một số cơng trình của các tác
giả sau:
Điển cố văn học, Đinh Gia Khánh, Nxb, Văn học, 2009. Điển cố và
nghệ thuật sử dụng điển cố, Đoàn Ánh Loan, Nxb Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh, 2003. Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005. Để dạy và học tốt tác phẩm văn
chương (phần trung đại) ở trường phổ thông, Nguyễn Thị Thanh Hương,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007. Phạm Tuấn Vũ: Văn học Việt Nam
trung đại trong nhà trường (Nxb Giáo dục, 2007), Một số vấn đề tác giả
tác phẩm văn chương (Nxb Văn học và Trung tâm Văn hố, Ngơn ngữ
Đơng Tây, 2011), Văn chính luận Việt Nam thời trung đại (Nxb Khoa

học xã hội, 2010).
Ngồi ra cịn có một số chun luận, luận văn, luận án cùng đề cập đến
vấn đề này. Có thể khái quát những vấn đề được các tác giả nghiên cứu.
Một số tác giả định nghĩa điển cố. Trong Việt Nam văn học sử yếu,
Dương Quảng Hàm định nghĩa: “Điển (đen là việc cũ) là một chữ, một
câu có nghĩa ám chỉ đến việc cũ, một tích xưa khiến người đọc phải nhớ
tới việc ấy, sự tích ấy mới hiểu cái lý thú của câu văn” [12, 18]. Có thể
nói điển cố là những từ ngữ về chuyện xưa, tích cũ, về tư tưởng, hình
tượng trong sách xưa được tác giả dùng làm phương tiện để diễn đạt ý
tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc. Điển cố bao gồm:
1. “Từ hay nhóm từ được lấy ra từ những câu chuyện trong kinh, sử,
truyện, các sách ngoại thư… về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, địa
danh, những quan niệm trong cuộc sống”.


7
2. Từ hay nhóm từ mượn ý, lời từ câu thơ hoặc bài thơ của người
trước, hay được trích từ thành ngữ…”.
Tiếp theo sau đó tác giả đi vào trình bày các đặc điểm như tên gọi,
sự nhận diện và đặc điểm của điển cố.
“Trong lịch sử sử dụng điển Trung Quốc, vì tính chất phong phú, đa
dạng điển cố được mang nhiều tên gọi khác nhau” [12, 21].
Tên gọi của điển cố trong lịch sử được sử dụng nhiều “cố điển”, “cổ
điển”, “sự”, “điển”, “cố sự”, “dụng sự”, “dụng điển”, “lệ sự”, “biến sự”,
“vận điển”.
“Ở Việt Nam điển cố và việc dùng điển cố cũng có nhiều tên gọi khác
nhau… điển tích… Dùng điển sử dụng điển cố, dùng điển cố” [12, 23].
Dương Quảng Hàm nhận diện điển cố: “Bên cạnh phép hoán dự, ẩn
dụ tượng trưng điển cố được xem là một biện pháp tu từ đặc biệt. Sự
gặp nhau của các biện pháp tu từ này thể hiện ở chức năng so sánh

ngầm và biểu hiện của ước lệ dựa trên những nét tương đồng giữa hai
đối tượng vốn khác loại, không cùng bản chất. Điển cố phần nào mang
những đặc trưng ấy, nhưng sự khác biệt của điển cố thể hiện ở tính chất
đặc thù trong nội dung phong phú và hình thức đa dạng. Để nhận biết
được điển cố chứ không phải là ẩn dụ, hoán dụ, hay tượng trưng và để
phân biệt điển cố với từ Hán - Việt cần phải nhận dạng được nó” [11, 23].
Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp có nói đến dẫn sự và dẫn ngơn trong
sáng tác. Ơng phân chia thành hai loại: “Đưa ra sự việc của người ta để
dẫn chứng ý nghĩa” (tức là cố sự) và dẫn thành từ để làm sáng tỏ lý lẽ
(tức là ngữ điển).
Tiếp theo các tác giả trình bày tính chất của điển cố: “Trong văn
học, do đặc điểm của điển cố mang tính chất hình tượng, nên biện pháp
tu từ được sử dụng phổ biến là hình thức so sánh, ẩn dụ, hồn dụ. Thơng
thường trong so sánh hay ẩn dụ, hoán dụ, người ta thường lấy những
hiện tượng thiên nhiên để làm rõ những hiện tượng xã hội, hay phẩm
chất của con người. Về mặt nào đó, điển cố cũng có phần giống với hình


8
thức ẩn dụ và hốn dụ. Nhưng có điều khác là điển cố là chất liệu không
phải lấy trong thiên nhiên, mà lấy từ các tác phẩm của các thời đại quá
khứ” [11, 32].
Năm tính chất của điển cố là:
1. Tính khái qt
2. Tính hình tượng
3. Tính liên tưởng
4. Tính cơ đọng, hàm súc
5. Tính đa dạng và linh động
“Điển cố chứa đựng nhiều tính chất phong phú như tính khái qt,
tính hình tượng… ở nội dung và tính đa dạng, linh động ở hình thức.

Nền tảng của những tính chất ấy tạo cho bản thân nó những lớp nghĩa
đặc trưng: nghĩa cụ thể và nghĩa khái quát, hay nghĩa đen và nghĩa
bóng… Nhờ vậy việc sử dụng điển cố được thể hiện hết sức linh động,
nhiều biến hóa” [11, 62].
“Hơn nữa, tiếng Việt có thanh điệu phong phú, nhạc điệu sinh động
nên thích hợp với thơ ca. Tính chất tượng trưng, ước lệ của thơ ca chấp
nhận điển cố như một biện pháp tu từ mà bản thân nó chứa đựng cấu trúc
cơ đọng, hàm súc, tính chất khái quát, hình tượng sâu sắc, giúp ý nghĩa
câu thơ vượt lên hình thức và nội dung. Điển cố khi vào câu thơ chịu sự
đối xứng, kết nối với nguyên tắc tiết kiệm lời, thể hiện nét cân đối về hình
thức, sự hàm súc về nội dung, ý nhị về ý nghĩa, đạt được chiều sâu về triết
lý phương Đông là nhằm đạt đến cái thần, cái bên trong, thích hợp với
tính chất của cư dân vùng lúa nước như ta: thâm trầm, ưa sự tế nhị, ý tứ,
nói ít hiểu nhiều, ưa chuộng sự hài hào cân đối… Vì thế nên được nhiều
tác giả chấp nhận và sử dụng nhiều trong sáng tác văn học” [11, 65].
Theo Đinh Gia Khánh “Nhìn tổng thể, điển cố trong văn học cổ
Việt Nam được hình thành từ thư tịch cổ Trung Hoa, phân loại thành
kinh, sử, tập, thơ văn và hý khúc. Đây là những nguồn sách cơ bản nhất
để hình thành điển cố” [11, 65].


9
Đinh Gia Khánh cho rằng có bảy nguồn gốc hình thành nên điển cố
trong văn học Việt Nam: điển cố từ kinh bộ; điển cố từ sử bộ; điển cố từ
tử bộ; điển cố từ tập bộ; điển cố từ thơ ca, điển cố từ văn học cổ Việt
Nam, điển cố từ văn học dân gian.
Theo tác giả có mười một cách người sử dụng thường theo: mượn
tên người; mượn tên đất; mượn tên triều đại; mượn tên cung điện, đền
đài; mượn tên chức quan; mượn tên đồ vật; mượn tên khúc hát; mượn tên
sách; mượn tục lệ; thói quen; mượn các thuật ngữ; mượn từ ngữ. Sự xuất

hiện của điển cố và các thể loại văn học cổ Việt Nam cũng được tác giả
đề cập tới.
“Điển cố có mặt ở hầu hết các thể loại văn học do tính chất khái
quát cao, điển cố phải thay đổi cấu trúc, để phù hợp với kết cấu của
chúng. Mỗi thể loại có lịch sử, cấu tạo, nội dung, hình thức và quy tắc
khác nhau. Thể loại văn học cổ rất đa dạng, nhưng tựu chung có vài thể
loại nổi bật cần khảo sát như: thi ca, tản văn, biền, hý khúc. Khảo sát vận
dụng điển cố trong thể loại văn học cổ tức là tìm hiểu tính linh động và
đa dạng của điển cố” [11, 77].
Liên quan đến phần dạy điển cố ở văn học Việt Nam trung đại trong
trường phổ thơng, Nguyễn Thị Thanh Hương đã chỉ ra những khó khăn
và hướng khắc phục: “Các tác phẩm thơ trung đại hay sử dụng điển cố,
học sinh do không hiểu, không cắt nghĩa, nhận diện được các điển cố,
điển tích dẫn đến các em hiểu sai, cắt nghĩa tác phẩm. Hoặc do không
hiểu hệ thống ngôn ngữ bác học mà các nhà thơ vận dụng trong các bài
thơ nên các em dung tục hóa các từ ngữ, hình ảnh…” [7, 17]. Đinh Gia
Khánh cho rằng: “Người xưa thường hay dùng điển cố khiến cho câu thơ
hàm súc, chuyển tải được lượng thơng tin lớn. Dùng điển cố là dùng xưa
để nói nay, nhắc lại việc xưa một vài chữ mà gợi nên sâu sắc các tầng ý
nghĩa, khiến lời văn sinh động… Với học sinh điển cố trong văn học trở
thành khó hiểu, khiến các em hoặc khơng thể hiểu hết dụng ý nghệ thuật
của tác giả khi dùng điển cố đó hoặc phần lớn các em chỉ hiểu hời hợt


10
bên ngồi khơng thấy cái hay, cái chất văn chương, cái “ý vô cùng”, “cái
gợi” mà điển cố đưa lại” [11, 46].
“Chú giải điển cố là giúp học sinh tái hiện nội dung văn hóa, ý
nghĩa thẩm mỹ của người xưa, từ đó giúp các em tự vận động để hiểu
văn học trung đại trong giai đoạn hiện nay” [11, 46]. Việc chú giải điển

cố bao gồm: “Chú giải nghĩa đen của điển cố: Sau khi chú giải nghĩa đen
của điển cố, giáo viên cần phân tích thêm giá trị thẩm mỹ của điển cố,
đặt nó trong văn bản để bình giảng, cắt nghĩa của câu thơ, tìm ra tấc lịng
gửi gắm trong đó của tác giả” [11, 46].
Vấn đề cái “kỳ lạ” trong truyện truyền kỳ cũng được một số tác giả
đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau.
“Truyện truyền kỳ ở Trung Quốc xuất hiện ở đời Đường - Tống
đánh dấu sự chín muồi của tự sự nghệ thuật. Hai chữ “truyền kỳ” bao
hàm mấy nghĩa sau: Một là chuộng lạ (hiếu kỳ)… Hai là như tác giả đời
Tống là Triệu Ngạn Vệ nói, đặc điểm của truyền kỳ chứa đựng nhiều
thể” [14, 293].
“Truyền kỳ Việt Nam như Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông,
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đồn Thị
Điểm đánh dấu sự chín muồi của nghệ thuật tự sự Việt Nam. Cách đặt
tên truyền kỳ chứng tỏ tác giả đi theo truyền thống truyền kỳ Trung
Quốc” [14, 294].
“Truyện truyền kỳ là thể loại của văn học Trung Quốc du nhập vào
nước ta. Tên gọi thể loại bắt nguồn từ tên tập truyện nhan đề Truyện
truyền kỳ của Bùi Hình đời Đường kế thừa truyền thống chí qi thời
Lục triều, tuy nhiên hai loại này có những sự khác biệt” [19, 50].
“Ở Việt Nam khái niệm truyện truyền kỳ được hiểu rộng hẹp khác
nhau. Có người xếp tất cả các tác phẩm văn xi có yếu tố thần linh ma
quái hoặc kỳ dị vào truyện truyền kỳ. Có người lại thêm tiêu chí hư cấu của
nhà văn và cho rằng chỉ xếp vào truyện truyền kỳ những truyện trong đó
con người là nhân vật chính chứ khơng phải thần linh ma quỷ” [19, 52].


11
Vấn đề đặc trưng cơ bản của truyện truyền kỳ đã được chỉ rõ: “Đặc
điểm lớn nhất chi phối các đặc điểm khác là tính chất khác lạ của con

người, sự vật được phản ánh. Người xưa gọi đó là tính chất kỳ (thần kỳ
quái dị). Xưa nay, trong những định nghĩa tiêu biểu về thể loại không thể
thiếu chữ này. Đây là thể văn “thuật kỳ ký dị” (thuật điều kỳ lạ, ghi sự
khác thường - Lăng Vân Hàn), “kỳ văn dị sự” (văn lạ việc lạ), “phi kỳ
bất truyền” (khơng lạ thì khơng lưu truyền)” [19, 52].
“Truyện truyền kỳ dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả cảnh, tả người,
thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì làm thơ. Tên gọi
“truyền kỳ” khơng chỉ để chỉ một thể loại tự sự, mà đến đời Minh Thanh
nó lại chuyên dùng để chỉ thể loại hý khúc. Theo… truyện chí quái chủ
yếu là ghi chép (chí), xếp theo điều mục, cịn truyện truyền kỳ thì học
theo bút pháp sử truyện. Do đó nhan đề thường có chữ “truyện”. Cái gọi
là truyền kỳ, chủ yếu là truyện cái kỳ trong tình yêu nam nữ và cái kỳ
trong thế giới thần linh ma quỷ. Các mơtíp mới như người lấy tiên, người
lấy ma, người hóa phép, biến hóa…” [14, 294].
Đặc biệt trong cơng trình Về một số vấn đề tác giả, tác phẩm văn
chương, TS. Phạm Tuấn Vũ đã đi sâu vào những vướng mắc và hướng
khắc phục khi dạy học thể loại truyền kỳ nói chung và yếu tố kỳ lạ trong
truyện truyền kỳ nói riêng:
“Cần tạo một tâm thế thích hợp để đến với truyện truyền kỳ, chấp
nhận những ước lệ của thể loại, chỉ có như vậy mới thu nhận cái hay của
nó. Nếu cứ dựa vào những lý lẽ thông thường và một lý trí tỉnh táo để
phán xét thì quả là truyện truyền kỳ khơng có gì để nói. Mà khơng chỉ
truyện truyền kỳ, mọi thể loại đều không thỏa mãn được tâm thế cảm thụ
đó. Nếu văn chương na ná cuộc đời thì nhân loại khơng cần nữa” [14, 53].
Hay: “Dạy học truyện truyền kỳ phải tránh thái độ máy móc đối với cái
siêu thực, tránh việc hễ thấy nó là xếp vào mê tín dị đoan. Trong rất
nhiều tình huống, việc sử dụng yếu tố siêu thực là giải pháp thông minh
hữu hiệu…” [14, 53].



12
“Sự khác biệt lớn trong thế giới quan và nhân sinh quan trong
truyện truyền kỳ người dạy và người học truyện này là lực cản lớn nhất
để cảm thụ tác phẩm” [14, 56].
Nhìn chung trong các cơng trình nghiên cứu từ trước đến nay nhiều
tác giả đã đi sâu vào một số loại giá trị văn chương Việt Nam trung đại
được dạy học ở trường phổ thơng với nhiều khía cạnh, mức độ khác
nhau. Các tác giả nêu khái niệm các giá trị đó, sự biểu hiện của chúng,
tác dụng của các giá trị đó trong các tác phẩm văn học trung đại. Một số
cơng trình đã tập trung chú trọng nhấn mạnh hướng giải quyết, phương
pháp dạy học những giá trị đó trong nhà trường phổ thơng, đi đúng
hướng với nội dung đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ
thơng hiện nay.
Cần có những cơng trình nghiên cứu tổng thể và có những phương
hướng thật xác đáng trong việc dạy học các giá trị này trong trường phổ
thơng hiện nay, góp phần vào việc dạy học các tác phẩm Việt Nam trung
đại. Xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của văn học trung đại trong
cuộc sống tinh thần người Việt Nam nói chung và chương trình giáo dục
Ngữ văn ở trường phổ thơng nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến các mục đích nghiên cứu sau:
3.1. Làm rõ khái niệm điển cố và cái kỳ lạ trong truyện truyền kỳ.
3.2. Phân tích chức năng nghệ thuật của điển cố và cái kỳ lạ trong
truyện truyền kỳ ở các văn bản văn chương Việt Nam trung đại được dạy
học ở trung học phổ thông.
3.3. Đề ra được những nội dung cơ bản của phương pháp dạy học
các loại giá trị này.
3.4. Kết hợp giải quyết một số trường hợp thuộc các loại giá trị này
trong các văn bản văn học Việt Nam trung đại thuộc chương trình Ngữ
văn phổ thơng hiện hành.



13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thuộc tính của điển cố và cái kỳ lạ trong
truyện truyền kỳ ở những văn bản văn học Việt Nam ở trường phổ thông
hiện nay và phương pháp dạy học những giá trị đó. Luận văn cịn đề xuất
một số giáo án thực nghiệm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học Ngữ văn
như thống kê - phân loại, tổng hợp, phân tích, so sánh…
Ngồi ra cịn sử dụng phương pháp nghiên cứu ứng dụng của khoa
học giáo dục nhằm củng cố và làm sáng tỏ hơn những nhận thức lý
thuyết và cung cấp kinh nghiệm thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống bản chất và tác dụng nghệ
thuật của điển cố và cái kỳ lạ trong trong truyện truyền kỳ, xác định
những thuận lợi và khó khăn của việc dạy học các loại giá trị này ở
trường phổ thông.
Luận văn đề xuất một số giáo án trong đó có dạy học điển cố hoặc
cái kỳ lạ trong truyện truyền kỳ, góp phần nâng cao chất lượng học phần
văn học Việt Nam trung đại ở trường phổ thơng trung học.
7. Cấu trúc luận văn
Ngồi Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn được trình
bày trong ba chương:
Chương 1. Khái niệm điển cố. Giá trị mỹ học của điển cố. Phương
pháp dạy học điển cố
Chương 2. Cái kỳ lạ trong truyện truyền kỳ. Phương pháp dạy học
cái kỳ lạ trong truyện truyền kỳ
Chương 3. Thiết kế một số giáo án thể nghiệm



14
Chương 1
KHÁI NIỆM CỦA ĐIỂN CỐ. GIÁ TRỊ MỸ HỌC
CỦA ĐIỂN CỐ. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐIỂN CỐ
1.1. Khái niệm điển cố
1.1.1. Cơ sở triết học, cơ sở xã hội của điển cố
1.1.1.1. Cơ sở triết học
Thời trung đại sáng tác văn chương chịu ảnh hưởng của nhiều
trường phái tư tưởng trong đó nổi bật nhất là Nho giáo. Văn học được
sáng tác với nhiều mục đích khác nhau, trong đó nổi bật nhất là mục
đích chính trị và giáo hố, bởi vậy thường có âm hưởng trang trọng
hoặc tinh vi tế nhị. Để làm được điều này cần có những thủ pháp và
chất liệu tương ứng. Những điều này được áp dụng lâu đời trở thành
những khuôn mẫu, trong số đó có việc thường xuyên sử dụng các điển
cố. Không phải ngẫu nhiên mà điển cố lại được sử dụng nhiều trong
nền văn học chú trọng đến khuôn phép khắt khe như vậy, mà do các
điển cố chứa đựng nhiều giá trị đáp ứng được yêu cầu của văn học giai
đoạn đó. Điển cố ra đời trên nhiều cơ sở, trong đó có cơ sở triết học.
“Các trường phái triết học Trung Hoa đề cập đến vũ trụ quan tuy có
khác nhau, nhưng chung quy đều nói đến con người với quan hệ xung
quanh, đều công nhận thế giới này là nhất thể. Con người là một phần
tử, là tinh hoa của trời đất, vạn vật. Trong văn học trung đại người ta
đều thể hiện cái chung của trời đất, trong đó tâm lý cá nhân được bao
bọc bởi sự to lớn của tâm trạng chung trước cảnh, nỗi lịng hay tình u
trước nỗi lo lớn của dân tộc” [11, 41]. Đó là nền tảng chung có ảnh
hưởng rất lớn đến việc hình thành điển cố. Và cũng là cơ sở vững chắc
để điển cố hình thành, tồn tại và được xem là đặc trưng nghệ thuật của
văn học trung đại. Mặc dù vậy mỗi trường phái triết học tạo nên những

cơ sở khác nhau để hình thành điển cố.


15
Xưa kia ở Việt Nam, con người sống trong xã hội thuần nông
nghiệp, điều này khiến cho người ta nhận thức thời gian theo mùa vụ
gieo trồng tức là thời gian tuần hoàn. Cách tri giác thời gian dẫn đến
cách đánh giá các giá trị: các giá trị đứng trước được coi là mẫu mực.
Đây là cơ sở triết học và cũng là cơ sở tâm lý xã hội khiến cho khi sáng
tác văn chương, người xưa thường dùng điển cố.
Sáng tác thơ ca đối với người xưa đích cuối cùng là tìm đến ý nghĩa
đạo lý. Chính vì điều đó cho nên trong văn chương, xã hội khơng phải là
hiện thực khách quan sinh động, mà là trật tự trên dưới. Con người được
phản ánh trong đó là đối tượng dùng để tượng trưng cho mẫu mực của
đạo đức. Điển cố thực sự đáp ứng những đòi hỏi này. Ở điển cố giá trị
đích thực là sự so sánh, nhưng khi đi vào trong văn chương giá trị giáo
huấn được nâng lên gấp nhiều lần so với nghĩa ban đầu tạo cho văn bản
ý nghĩa phong phú hơn.
Ở văn học trung đại nếu muốn miêu tả tâm lý hay phẩm chất của
con người, các tác giả văn học thời kỳ này thường dùng nghệ thuật so
sánh, ẩn dụ, tượng trưng.
Do mang nặng chức năng giáo huấn, hướng về đạo lý, nên ở văn học
giai đoạn này vấn đề nội dung được quan tâm hơn là hình thức. Từ hình
thức của một sự vật, người ta nhận biết được thế giới bên trong hay nói
cách khác đó là những ngụ ý bên trong sự vật. Điều này thể hiện ở điển
cố rất rõ. Đối với những câu thơ, câu văn có chứa điển cố thì người đọc
khơng thể đọc theo lối thơng thường, bởi ở đó ln tồn tại hai lớp nghĩa,
nghĩa đen và nghĩa bóng, xuyên qua lớp nghĩa đen mới đi sâu được vào
bản chất vấn đề mà tác giả muốn truyền đạt. Nó cũng giống cấu tạo hai
mặt âm dương của vũ trụ.

Cơ sở hình thành điển cố trong văn chương cịn dựa trên ngun lý
hình thành vạn vật của thái cực hay của đạo. Kinh Dịch cho rằng đạo
khởi đầu rất giản dị đến phức tạp. Nó cũng giống như q trình trời đất


16
biến thiên nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tư tượng sinh bát quái, bát
quái sinh thành sáu mươi bốn quái… từ đó sinh ra vạn vật và con người.
Đó chính là công thức cho biết vạn vật do thái cực đơn giản biến thành
phức tạp, từ việc xảy ra trước có thể suy đốn được sự việc xảy ra sau và
nhìn thấy cái đã qua để biết được cái sắp tới. Đó là cơ sở để hình thành
nên ngun lý ôn cố tri tân, một đặc tính tượng trưng của điển cố trong
văn học.
“Dựa vào nguyên tắc của điển cố, có thể nhận thấy rằng nguyên tắc
giản đơn là nguồn gốc của mọi biến hóa được ứng dụng từ việc vay
mượn một nội dung tích truyện, lời thơ, câu văn của người trước, sau đó
diễn lại thật ngắn gọn, đơn giản để so sánh hay ngụ ý đến nội dung có
liên quan.Từ hình tượng điển cố, tư tưởng của người đọc cùng sinh sinh
hóa hóa theo diễn tiến của điển để đến cái đích cuối cùng, tìm đến ý
nghĩa thâm diệu nhất cho mỗi câu” [11, 44].
Nguyên lý “nhất dĩ quán chi” (một điều thâu suốt tất cả) mà Khổng
Tử đã nhiều lần đề cập trong Luận ngữ cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc
hình thành điển cố. Theo nguyên tắc này thì chỗ gần mà xét tới chỗ xa,
từ chỗ rõ ràng đạt tới chỗ sâu kín. Từ một mối mà suy luận ra, từ ngọn
mà đi đến gốc, “do một mối mà thông suốt qua tất cả”. Từ nguyên lý ấy,
sự hiểu biết của con người bắt đầu từ nguyên do đi đến bản chất ý nghĩa
của mỗi hành vi, hiện tượng. Dường như sự ra đời của điển cố cũng dựa
trên những nét tương đồng và sự địi hỏi khắt khe những u cầu đó. Nó
địi hỏi người đọc phải suy nghĩ, trải nghiệm sâu sắc mới thông hiểu
được ý nghĩa của điển cố và cả câu thơ câu văn. Trong văn chương, có

những điều khơng thể diễn tả một cách thẳng thừng, rõ ràng, hoặc không
thể diễn tả một cách ngắn gọn đầy ý nghĩa, mà chỉ gợi một từ ngữ để
người đọc từ đó có thể suy luận, người ta phải nhờ đến điển cố. Cách nói
của điển cố là cách nói có vẻ thu hẹp, nhưng đằng sau cái bề mặt ấy là cả
thế giới hình tượng sinh động, phong phú về ý tưởng, sâu sắc về ý nghĩa,


17
được diễn đạt theo lối ẩn dụ, nguyên tắc gợi ý để người đọc tự liên
tưởng, cảm nhận và tìm được ý nghĩa đúng đắn nhất, xác thực nhất.
Điển cố với khả năng khơi dậy óc liên tưởng, sự suy ngẫm của người
đọc sẽ tạo ra một sức mạnh và thú vị đưa họ đến ngọn nguồn chân lý
của vấn đề.
Tinh thần “phản giả đạo chi động” (quay lại cái động của đạo), của
Lão Tử (Đạo đức kinh) thích hợp cho việc vận dụng điển cố. “Phản giả
đạo chi động trước hết chỉ sự biến đổi tuần hoàn của sự vật. Khi sự vận
động, biến chuyển đến cực điểm rồi cũng trở về trạng thái cũ như trăng
tròn rồi lại khuyết. Lý thuyết này còn chỉ sự trở về cái gốc, hiểu rõ
nguồn gốc, nguyên nhân biến đổi của vạn vật làm cho hành vi của ta hợp
với đạo tự nhiên” [11, 46].
Bằng điển cố, các tác giả đưa tâm thức, nhận biết của chúng ta đi
đến chân trời rộng mở, trong đó có biết bao con người, hình ảnh cùng
với bao nhiêu diễn biến lịch sử ở quá khứ và diễn ra trước mắt. Sau khi
chọn một hình tượng thích hợp nhất để cuối cùng trở lại điểm xuất phát.
Tác giả kết hợp ý nghĩa của nó với văn cảnh, nhằm tìm đến một ý nghĩa
thích hợp và đúng đắn nhất. Như vậy theo quan niệm này là lối sáng tác
đúng đắn nhất, phù hợp với quy luật biến đổi, vận động của đạo. Việc đó
thể hiện qua những điểm, thứ nhất câu thơ có điển cố sẽ đạt mức độ nhất
định về sự vận hành theo hướng thông mở, khơng bí, khơng bị tắc, nó
mang cảm giác hư hư thực thực huyền ảo khôn lường. Điểm thứ hai, sự

quay trở lại điểm xuất phát, đồng thời với sự nâng cao nội dung thành
hình tượng tiêu biểu nhất, khái quát nhất hợp với quy luật tự nhiên. Việc
quay trở lại còn được hiểu theo quan niệm đạo của Nho giáo là bản thân
điển cố giúp người đọc trở về và học tập những bài học của người xưa,
học cố nhân cốt để hiểu nghĩa lý, tránh điều trái sửa mình theo điều phải
cho hợp với đạo.


18
Điển cố là một thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học trung đại
tạo nên những giá trị nghệ thuật đặc sắc và góp phần khơng nhỏ tạo nên
những tác phẩm bất hủ với thời gian. Mà ẩn chứa trong nó là cả một thế
giới quan, nhân sinh quan sâu xa. Chính nhờ điều này mà sức sống của
các giá trị điển cố trường tồn với thời gian.
1.1.1.2. Cơ sở xã hội - thẩm mỹ của điển cố
Điển cố và việc sử dụng điển cố là một nét đặc thù trong văn học
trung đại phương Đơng nói chung và Việt Nam nói riêng. Q trình hình
thành và vận động phát triển của điển cố ngoài các nhân tố làm cơ sở
như lịch sử, triết học còn chịu ảnh hưởng chi phối bởi cơ sở xã hội và
thẩm mỹ.
Người phương Đơng nói chung và Việt Nam nói riêng có thái độ sùng
cổ. Việc đó thể hiện rõ nhất trong Luận ngữ của Khổng Tử - bậc thầy của
Nho giáo phát biểu về những cơng trình chỉnh lý di sản văn hóa của mình:
“Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (Thuật lại chứ không sáng tạo, tin tưởng
và ưa chuộng cái cũ). Lời nhận xét đó như một khẳng định về ý thức của
người Trung Hoa xưa nói riêng và người phương Đơng xưa nói chung về
phương diện sáng tác, đó là xu hướng trở về quá khứ, xem quá khứ là bài
học muôn đời cho quan niệm sống, chết của con người.
Ý thức xã hội như vậy sẽ dẫn đến một quan niệm thẩm mỹ tương
ứng. Việc sáng tác văn học được soi rọi, đánh giá qua tấm gương đạo

đức, nên việc lập lại ý tưởng của người trước trong văn chương được
xem là việc làm đúng đắn, là hay, là đẹp. Những gì thuộc về quá khứ như
thời đại, nhân vật lịch sử là những tấm gương, những bài học có giá trị
cho đời sau. Những câu nói của người xưa có thể làm bài học về tư
tưởng đạo đức cho người đời sau. Đó là những yếu tố cơ bản của nguyên
lý ôn cố tri tân. Trên cơ sở tôn sùng cái cũ, suy tôn kinh, thánh, sử dụng
điển cố là một phương thức văn học có chiều hướng thiên về quá khứ để
tìm về những hình ảnh, tư tưởng và bài học của người xưa.


19
Tóm lại, điển cố là thể hiện quan niệm sùng cổ và tính quy phạm
trong văn chương của người xưa. Nguyên tắc lặp lại của điển cố đã
khẳng định và xác lập những mẫu mực về tư tưởng, phong cách và
khuôn mẫu về cái đẹp trong văn học. Quan niệm về cái đẹp của điển cố
gắn liền với cái đã có, cái quen thuộc, với truyền thống tồn tại từ lâu đời
trong văn học. Việc đó đã thẩm thấu trong người sáng tác và người tiếp
nhận. Vì vậy việc sử dụng điển cố trở thành một nhiệm vụ cần thiết cho
người sáng tác và nhu cầu thẩm mỹ của người thưởng thức. Bên cạnh đó,
thủ pháp sử dụng điển cố là một nét đặc biệt trong bản chất của văn học
bác học. Kẻ sáng tác và người tiếp nhận văn học phải là những người có
học thức uyên thâm sách vở mới có thể có cách dùng cũng như hiểu
được điển cố.
Thích hợp với tính chất bác học, điển cố còn thể hiện sự sang trọng,
uyên bác, trang nhã. Điển cố được sử dụng nhiều trong văn chương bác
học. Loại văn chương này nhìn chung khơng coi trọng yếu tố tả thực,
người thực, đời sống thực, mà chú ý đến việc miêu tả những nét “cao
quý” để ca tụng đạo, để giáo hóa, vì vậy u cầu lời thơ, lời văn phải tao
nhã, trang trọng, gợi mở, tránh nói thẳng. Lê Hữu Kiều (thế kỷ XVIII)
khi bàn về thơ có nói: “Làm thơ… luyện cách điệu khơng trang nhã sẽ

mắc vào bệnh quê mùa, đặt câu không sắc sảo bệnh quê mùa, thô lỗ, kém
cỏi”. Việc sử dụng điển cố, nhà thơ, nhà văn sẽ tránh khỏi những khiếm
khuyết ấy, bởi vì nét đẹp trang nhã, đài các của điển cố cịn thể hiện ở sự
tinh tế, kín đáo. “Thay vì nói cụ thể sự việc, sợ khiếm nhã, nhà thơ mượn
điển cố để diễn tả. Nhưng không chỉ là những chuyện ái ân, mà những gì
thuộc về lễ kính đối với vua cũng đều thiêng liêng, có khi cấm kỵ, nên
tránh nói thẳng ra, phải mượn điển cố để diễn tả” [11, 54].
Việc dùng điển cố còn thể hiện sự hiểu biết uyên bác và tài năng
nghệ thuật của tác giả bản thân. Đặc trưng của thơ là “để bày tỏ tình
cảm, nên lời thơ đẹp đẽ, trau chuốt”. Để có được điều này nó phụ thuộc


20
vào điển cố bởi điển cố nhốm vẻ đẹp trau chuốt cho câu thơ, bài thơ và
điểm thêm nét son q phái, trang ngữ cho nó. Để gốc rễ tình cảm nảy
nở, tươi thắm, ngôn ngữ của thơ phải đẹp đẽ, tinh tế, tạo hình tượng và
truyền cảm, thì ở điển cố mang sắc thái của hình ảnh, ý nghĩa lịch sử,
triết lý, tư tưởng, tâm hồn đã đơm thêm cho lời thơ một bơng hoa đẹp.
Bên cạnh tính un bác, sự trang trọng, trang nhã, điển cố được hình
thành và sử dụng mang nét đẹp về sự giản ước. Bản thân của điển cố đã
thâu tóm cả q trình lịch sử, tư tưởng, sự kiện, bài học… chỉ trong một
vài từ, đáp ứng yêu cầu về khuôn khổ câu thơ, bài thơ. Phạm vi hoạt
động, ý nghĩa và tính chất tóm gọn ấy của nó đã thể hiện một cách hồn
chỉnh yếu tố cơ đọng, hàm súc và đến lượt nó, truyền nét đẹp và đặc
trưng giản dị này cho câu thơ. Nguyễn Cư Trinh trong bài tiểu dẫn thơ
đáp hiệp trấn Hà Tiên Tống Đức hầu nói: “Tóm lại, người làm thơ khơng
ngồi lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị”.
Nói rõ hơn Lưu Đại Khôi đời Thanh trong Luận văn ngẫu ký cho rằng
“(Đối với văn chương)… khi đầy đủ thì giản dị, phẩm chất cao quý thì
giản dị, tinh thần cao xa mà hàm chứa khơng cùng thì giản dị. Vì vậy,

giản dị là cảnh giới tận cùng của văn chương vậy”. “Thần cao xa vẫn là
nhận thức sâu sắc hai vấn đề: hiện thực khách quan và điển cố để có thể
so sánh, đối chiếu hai đối tượng này. Nắm vững được chiếc chìa khóa
này, người đọc hồn thành được chức năng cảm thụ nét đẹp xưa của
nghệ thuật ngơn từ một cách hồn mỹ” [11, 53].
Bên cạnh cơ sở triết học và cơ sở xã hội - thẩm mỹ của điển cố
chúng ta cần phải nhắc tới một yếu tố do đặc điểm kỹ thuật. Việc đó có
thể cắt nghĩa hiện tượng dùng điển cố do yêu cầu ngắn gọn, hàm súc
trong cách viết từ khía cạnh lịch sử. Điển cố cịn có kỳ thuật viết. Ngày
xưa, khi chưa chế tạo ra giấy, hoặc dùng lụa để viết, người ta khắc chữ
trên mai rùa, trên xương, trên đồ đá, đồ đồng, trên tre. Chính vì điều
kiện khó khăn này địi hỏi bởi ngun tắc ít chữ nhưng phải đảm bảo


21
nội dung phong phú, đầy đủ. Chính địi hỏi và điều kiện này theo thời
gian dần dần trở thành một thói quen ăn sâu vào trong tiềm thức của
những người sáng tác từ thế hệ này sang thế hệ khác, cộng với những
quan niệm trong văn học thì việc vận dụng điển cố trở thành nguyên tắc
viết của người xưa.
1.1.2. Điển cố, điển tích, điển, dụng điển, dụng sự
1.1.2.1. Định nghĩa điển cố
Trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm định nghĩa:
“Điển (nghĩa đen là việc cũ) là một chữ hoặc một câu có ám chỉ đến một
việc cũ, một tích xưa khiến cho người đọc sách phải nhớ đến việc ấy, sự
tích ấy mới hiểu ý nghĩa và cái lý thú của câu văn, Dùng điển chữ Nho
gọi là “dụng điển” hoặc “sử sự” (nghĩa đen là khiến việc), ý nói sai khiến
việc đời xưa cho nó có thể ứng dụng vào bài văn của mình”.
Tác giả cho rằng các văn sĩ của ta và của Trung Quốc xưa thường
mượn một sự tích hoặc một câu văn, câu thơ cổ để diễn tả ý tình. Điển cố

có thể ám chỉ đến việc thật được chép từ sử, truyện, hoặc là những
truyện hoang đường được chép từ truyện cổ tích, ngụ ngơn, có khi là một
vài chữ từ câu văn, câu thơ cổ.
Từ nguyên bản cũ và bản Quốc ngữ từ diễn giải thích điển cố:
“Những sự việc cũ làm điển chế mẫu mực” [11, 19].
“Từ hải bản cũ chỉ nói là “chuyện cũ”. Nội dung giải thích về điển
cố về cơ bản giống nhau. Từ nguyên bản mới giải thích là “trong thơ văn
dẫn dụng các chuyện cũ thời cổ đại hay những từ ngữ có xuất xứ từ
trước”. Cịn Hán ngữ từ điển thì cho là “những chuyện xưa thời cổ đại
hay từ cú có nguồn gốc xa xưa được dẫn dụng trong các tác phẩm văn
học” [11, 20]. Điển cố là kho tàng quý báu của một nền văn hóa, chứa
đựng những hình ảnh sinh động của lịch sử. Điển cố là những từ ngữ về
chuyện xưa tích cũ, về tư tưởng, hình tượng trong sách xưa được tác giả
dùng làm để biểu đạt ý tưởng một cách ngắn gọn hàm súc.


22
Điển tích, dụng điển: Theo Bưu văn Phan Kế Bính trong Việt Hán
văn khảo: “Dụng điển là tìm những điển tích cũ”. Cịn Cơ sở Ngữ văn
Hán Nơm (Lê Trí Viễn) viết là “điển tích”: Với một điển tích hồn toàn
Việt Nam [11, 23].
Dùng điển là lấy chữ: Theo Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn
học sử yếu: “Cách làm văn ấy có thể gọi chung là điển cố. Nhưng nói
tách bạch ra thì có hai phép: một là dùng điển hai là lấy chữ” [21].
Sử dụng điển cố, dụng điển cố: “Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm: “Việc sử
dụng điển cố không phụ thuộc vào thể loại”, “Việc dùng điển cố không
phải là biện pháp tu từ riêng biệt của các tác phẩm thơ Nôm”. Nguyễn
Lộc trong Văn học Việt Nam, nửa cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX:
“Việc dùng điển cố lấy từ văn cổ Trung Quốc” [11, 23].
Như vậy nhìn một cách tổng quát ở Trung Quốc và Việt Nam tên

gọi điển cố và việc sử dụng điển cố rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên
trong các cách gọi và việc sử dụng điển cố trong văn chương, cách gọi
phổ biến nhất ở nước ta là: điển, điển cố, điển tích và dùng điển, dụng
điển, sử dụng điển cố.
Điển cố xuất hiện với mật độ khá dày trong văn học đặc biệt là văn
học trung đại. Ở những tác phẩm văn chương có giá trị trong văn học
trung đại Việt Nam như Truyện Kiều, Cung ốn ngâm khúc… có nhiều
cơng trình của các tác giải đã liệt kê số lần sử dụng điển trong các tác
phẩm đó.
Tuy nhiên sự nhận dạng điển cố là một vấn đề khơng đơn giản, đặc
biệt đối với trình độ của học sinh phổ thông. Bên cạnh phép ẩn dụ, hoán
dụ, tượng trưng điển cố được xem là biện pháp tu từ đặc biệt. Sự gặp
nhau của các phương thức tu từ này thể hiện ở chức năng so sánh ngầm
và biểu hiện ước lệ dựa trên những nét tương đồng giữa hai đối tượng
vốn khác loại, không cùng bản chất. Điển cố một phần nào mang những
đặc trưng ấy, nhưng sự khác biệt của điển cố thể hiện ở tính chất đặc thù


23
trong nội dung phong phú và hình thức đa dạng. Để có thể nhận biết là
điển cố chứ khơng phải là ẩn dụ, hoán dụ hay tượng trưng và để phân biệt
điển cố với từ Hán Việt cần phải nhận dạng được nó. Nhìn chung, điển
cố xuất hiện trong các tác phẩm văn thơ. Điển cố bao gồm hai loại: điển
cố câu chuyện và điển cố từ ngữ. Điển cố câu chuyện là những chuyện
thuộc thời cổ đại, hoặc ở trong sách xưa. Cịn điển có từ ngữ được dẫn
dụng phải có xuất xứ từ trong sách xưa. Tuy nhiên có hai loại quan
niệm: một là xem điển cố thể hiện qua từ ngữ, hai là xem điển cố thể
hiện qua câu. Nhưng tính phổ quát của điển cố từ ngữ được công nhận
là nhận biết nhiều hơn là điển cố thể hiện qua câu. Hơn nữa, không phải
câu nào được dẫn dụng trong thơ văn đều được xem là điển cố. Vì vậy

đa số các sách giải thích thường lấy trọng tâm là những điển cố thể hiện
qua từ ngữ.
Có thể thấy điển cố giúp người đọc hiểu được giá trị câu thơ qua hồi
ức, tưởng tượng, liên tưởng và gợi mở một hướng mới đã thông hiểu nội
dung, ý nghĩa của câu văn câu thơ. Sự thấu hiểu điển cố dựa trên nền
tảng nắm được nguồn gốc điển cố. Q trình tiếp nhận câu thơ có điển cố
là quá trình vỏ từ ngữ qua khúc xạ tâm lý trở về câu chuyện q khứ,
chuyển hóa thành hình thức chủ quan của người tiếp nhận. Vỏ từ ngữ
của điển cố được thay thế bằng hình ảnh mới sinh động, đầy cảm xúc.
Trong văn chương cổ, sự cô đọng, hàm súc, ngắn gọn nhưng chuyên chở
được nhiều nội dung, ý nghĩa được xem là phương thức thể hiện hay
nhất. Tính hướng nội trong văn chương cổ được chú trọng và đề cao. Vì
vậy điển cố được tác giả xưa ủng hộ và thực hiện tích cực.. Vì nó làm
tăng thêm giá trị tư tưởng và sự hấp dẫn sâu sắc. Đây chính là chìa khóa
để q trình dạy học Ngữ văn ở trường phổ thơng nói chung, các tác
phẩm văn học trung đại nói riêng khai thác và vận dụng nhằm đạt được
hiệu quả giáo dục cao.


24
Phương thức hình thành điển cố dựa trên cơ sở rút gọn tinh thần
chung, hình tượng chung của tồn bộ hoặc một vài khía cạnh của câu
chuyện, của một câu thơ, câu văn hoặc bài thơ, bài văn thành những từ
ngữ ngắn gọn:
Rút gọn câu chuyện: từ một vài khía cạnh, hay hình tượng của câu
chuyện người ta rút gọn thông qua vài từ ngữ song vẫn diễn đạt trọn vẹn
ý nghĩa. Phương thức đó được thể hiện qua các cách như: dùng tên nhân
vật, dùng tên sách, dùng tên địa phương, tên lâu đài thành quách ở nơi
xảy ra sự kiện, dùng số từ.
Rút gọn câu văn, câu thơ hoặc bài văn, bài thơ: Người ta có thể dùng

một câu thơ, câu văn của một bài thơ, bài văn người ta rút gọn thành vài từ.
Hình thức thể hiện điển cố rất đa dạng và hành động nó được biểu
hiện về sự biến thể hình thức trong các cấu trúc từ, ngữ, câu. Bản thân
của các điển cố sau khi rút gọn được thể hiện dưới hai hình thức Hán
Việt và thuần Việt.
Sử dụng điển cố các tác giả xưa muốn khai thác lợi điển của một
phần kiến thức nền mà người đọc có văn hóa có được nhằm khơi gợi ở
họ kiến thức và thông hiểu trọn vẹn ý tưởng tác phẩm. Điển cố với chức
năng kích thích ký ức của người đọc đã mang lại cảm hứng thú vị, bởi vì
lời giải đáp sẽ khơng đến ngay nếu bỏ qua giai đoạn trung gian của hình
tượng điển cố. Sự trở về của ký ức tạo cảm giác nối tiếp những giá trị
của quá khứ về kiến thức và kinh nghiệm.
1.2. Giá trị mỹ học của điển cố
Vai trị của điển cố có một vị trí nhất định trong văn học. Về mặt
nào đó, điển cố có yếu tố tích cực góp phần tạo sức mạnh cho câu văn,
câu thơ. Điển cố chứa đựng nhiều giá trị phong phú như: tính khái
qt, tính hình tượng, tính gợi mở, kích thích sự liên tưởng ở người
đọc, tính cơ đọng hàm súc ở nội dung và tính đa dạng, sinh động ở
hình thức tạo nên những giá trị mỹ học cho thơ văn.


25
1.2.1. Làm cho văn chương thêm hàm súc
Điển cố hàm chứa nội dung và ý nghĩa sâu sắc nhưng thể hiện một
hình thức tiết kiệm lời đến mức thấp nhất. Có những sự việc hoặc lớn
hoặc nhỏ, cần được diễn tả sâu sắc đồng thời gợi mở một hướng xa xơi
mà mạnh mẽ, nhưng diễn đạt một cách dài dịng khó nói hết ý. Nếu khéo
dùng điển cố thì những chữ ngắn gọn, hàm chứa ý nghĩa sâu xa là
phương tiện diễn đạt tốt nhất, giúp lời, ý thêm đậm đà, lý thú. “Chọn
điển cố hay có thể làm tăng thêm cái đẹp hàm súc trong lời thơ, nhanh

chóng đạt đến hiệu quả “ngôn hữu tận nhi ý vô cùng” (lời hết mà ý vô
cùng - Thương Lang thi thoại, Thi biện, Nghiêm Vũ) cùng là mục đích
mà Chung Vinh trong thi phẩm từ gọi là “văn dĩ tận nhi ý hữu dư” (văn
đã hết mà ý vẫn còn) mà Mai Nghiên Thần gọi là: “Hàm bất tận chi ý
kiến ư ngơn ngoại” (ý tưởng bất tận ngồi lời - Lục nhất thi thoại)” [84].
Như vậy từ một vài câu hay từ ngữ, có khi một từ, điển cố có thể
dẫn dắt người đọc đi vào thế giới cổ xưa và đi đến một ý nghĩa chung,
khái quát cho hình ảnh ấy. Tính khái qt của điển cố khơng dừng lại ở
đó, một điển cố cịn có thể mang nhiều ý nghĩa, khái qt cho những
hình tượng khác nhau, có mối liên quan gần gũi.
Ví dụ: Truyện Kiều sử dụng điển cố: “Trước sau nào thấy bóng
người. Hoa đào năm ngối cịn cười gió đơng”. “Hoa đào năm ngối”
mượn ý bài thơ Đề đô thành nam trang của Thôi Hộ đời Đường Khứ niên
kim nhật thử môn trung. Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện
đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu
đơng phong (Ngày này năm ngối ở cửa đây. Mặt trời và hoa đào cùng
ánh hồng. Mặt người chẳng biết ở nơi đâu. Hoa đào vẫn cười với gió
đơng như xưa). Ý nói người xưa tìm đến mà vật đổi sao dời, không thấy
được cố nhân.
Điển cố làm cho văn chương thêm hàm súc. Chỉ một vài từ ngữ đưa
vào câu văn, câu thơ tác giả đã diễn đạt những ý nghĩ sâu xa, không chỉ


×