Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tính giai cấp và tính thời đại trong phong trào văn hoá phục hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.7 KB, 75 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Theo triết học duy vật của chủ nghĩa Mác thì hạ tầng cơ sở quyết định
thượng tầng kiến trúc, nhưng thượng tầng kiến trúc lại có tác động trở lại đối
với hạ tầng cơ sở, thậm chí cịn thúc đẩy hạ tầng cơ sở phát triển. Trong lĩnh
vực văn hoá tư tưởng thường mang tính dự báo và mở đường. Cơ sở lý luận
này giúp những người học tập và nghiên cứu Lịch sử dùng nó làm chìa khố
để hiểu thêm những nội dung trong những giai đoạn lịch sử quan trọng. Phong
trào Văn hoá phục hưng thời hậu kỳ trung đại ở Tây Âu là một trào lưu văn
hố, nhưng lại có ý nghĩa xã hội, và ý nghĩa cách mạng rất to lớn.
Trong suốt gần ba thế kỷ, châu Âu đã dấy lên một cuộc vận động văn
hoá và tư tưởng rất mực hào hứng, từ trước đến bấy giờ loài người chưa từng
thấy. Châu Âu đã bừng tỉnh dậy sau một "Đêm trường trung cổ", bước sang
ngưỡng cửa của một thời kỳ mới - thời kỳ cận đại. Khi đánh giá về phong trào
Văn hoá phục hưng, Ph. Ăng ghen viết: " Đó là bước ngoặt tiến bộ vĩ đại nhất,
từ trước đến bấy giờ loài người chưa từng thấy". [1,120]. Phong trào Văn hố
phục hưng quả có ý nghĩa lớn lao trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại.
Phong trào Văn hoá phục hưng đã cống hiến cho loài người những
thành tựu to lớn , trên nhiều lĩnh vực. Nó thể hiện bước ngoặt quan trọng
trong q trình phát triển về tư tưởng và nhận thức của con người đối với tự
nhiên và xã hội. Nó chủ trương giành lại hạnh phúc của con người trên trần
thế đã bị chế độ phong kiến và Giáo hội chà đạp gần mười thế kỷ.
Phong trào Văn hố phục hưng khơng chỉ là một phong trào văn hố, mà
nó cịn đề cập đến nhiều lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, xã hội. Vì thế khi tìm hiểu
phong trào Văn hố phục hưng, không chỉ hiểu biết về một thời kỳ văn hoá phát


triển sơi nổi mà cịn giúp chúng ta nhận thức tồn diện về thời đại ấy, thậm chí
nắm được cả hệ thống những biến cố lịch sử phức tạp diễn ra trước và sau thời


đại ấy nữa. Bởi vậy, chúng tơi chọn đề tài "Tính giai cấp và tính thời đại trong
phong trào Văn hoá phục hưng ", để một mặt giúp chúng tôi tiếp cận với phương
pháp nghiên cứu khoa học, mặt khác qua đây bổ sung vốn liếng vào hành lý trí
tuệ của mình, làm cho bước đi trong đường đời chững chạc và vững chắc hơn.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng và nhân dân ta đang làm cho đất nước
đổi thay từng giờ, từng phút. Nhiều công trình xây dựng kinh tế, xã hội mọc
lên nhanh chóng. Đó là những điều kiện vật chất cần thiết cho cuộc sống của
con người. Tuy nhiên không phải xây dựng những ngơi nhà, tồ thành, những
cơng trình cơng cộng là đủ mà cịn phải làm cho họ có những món ăn tinh thần
lành mạnh, khoẻ khoắn, có trình độ về văn hoá, khoa học, kỹ thuật cao, xã hội
tốt đẹp cho hôm nay và cho cả ngày mai. Đề tài này, cũng góp thêm một tiếng
nói, để làm sáng tỏ đường lối xây dựng đất nước ta trong thời kỳ đổi mới.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.

Phong trào Văn hoá phục hưng có vị trí quan trọng trong tiến trình phát
triển của lịch sử xã hội lồi người. Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu nó có
ý nghĩa to lớn. Nhưng số cơng trình viết về phong trào này ở Việt Nam quá ít,
mới được các tác giả đề cập ở mức độ nhất định. Phần lớn được nghiên cứu
và tìm hiểu dưới góc độ lịch sử của từng khoa học cụ thể, cịn mang tính chất
tản mạn, ở một số cơng trình nghiên cứu có tính chất thơng sử hay bài viết,
bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí. Trên thực tế chưa có một cơng trình
nghiên cứu nào chuyên khảo đi sâu về vấn đề này một cách sâu sắc, đầy đủ và
có hệ thống. Trong cuốn " Lịch sử thế giới trung đại". Quyển II (châu Âu hậu
kỳ phong kiến) , nhà xuất bản giáo dục, Hà nội 1978 của Lương Ninh, Đặng
Đức An; Giáo trình " Lịch sử thế giới trung đại", NXB Giáo dục Hà nội 1999
của Nguyễn Gia Phu; " Lịch sử triết học", NXB CTQG Hà nội 1998 của GS.


Nguyễn Hữu Vui; " Văn học phương Tây", NXB Giáo dục Hà nội 2001 của
Đặng Anh Đào; "Lịch sử văn học phương Tây". Tập II, NXB Giáo dục Hà nội

1979 của Trần Duy Châu. Hoặc gần đây, trong khoa lịch sử đã có một số khố
luận như: " Tìm hiểu một số nội dung của chủ nghĩa nhân văn trong phong
trào Văn hoá phục hưng" của Hồ Tuấn Anh do thầy Dương Văn Ninh; hay
"chủ nghĩa nhân văn trong phong trào Văn hố phục hưng" của Nguyễn Thị
Bính, do thầy Dương Văn Ninh hướng dẫn. Ngồi ra cịn có một số các tạp
chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí nghiên cứu châu Âu, một số cơng trình viết về
cuộc đời, sự nghiệp của một số nhà tư tưởng tiêu biểu giơí thiệu về tác phẩm
và quan niệm của họ, cũng đã đề cập đến phong trào Văn hoá phục hưng, tuy
nhiên những cơng trình nghiên cứu khoa học mới chỉ dừng lại ở những thành
tựu của phong trào, giá trị nội dung tư tưởng của phong trào, tính chất và ý
nghĩa của phong trào ở những mức độ khái quát sơ lược, chứ chưa đi sâu vào
nghiên cứu một cách tồn diện cụ thể của phong trào.
Vì vậy, để hệ thống hoá vấn đề một cách đầy đủ khoa học về phong
trào. Dựa trên những nguồn tư liệu, tài liệu thu thập được đã giúp tơi hình
dung dễ dàng hơn tồn cảnh bức tranh sơi động của phong trào. Đó là sơ sở lý
luận để chúng tôi chọn đề tài "Tính giai cấp và tính thời đại trong phong trào
Văn hoá phục hưng".
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI .

3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Mặc dù phong trào Văn hoá phục hưng đã đi vào quá khứ của lịch sử,
nhưng những nội dung và ýnghĩa của nó vẫn cịn nóng hổi đối với các nhà
khoa học, các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu.
Với khả năng và thời gian cho phép, tơi chỉ tìm hiểu về tính chất giai cấp và
tính thời đại được thể hiện trong phong trào Văn hố phục hưng thời đó.


3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phong trào Văn hoá phục hưng đề cập đến nhiều lĩnh vực: chính trị, xã
hội, tư tưởng, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật, triết học, sử học ... với

phạm vi của đề tài, chúng tơi chỉ tập trung nghiên cứu tính chất tư sản và thời
đại suy tàn của chế độ phong kiến, trong thời đại đó xuất hiện những mầm
mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa như thế nào.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

4.1. Nguồn tài liệu.
Chủ yếu dựa vào nguồn sử học, văn học nghệ thuật, các tác phẩm hội
hoạ và một số thành tựu khoa học của những nhà khoa học thời phục hưng.
Ngoài ra chúng tơi cịn tham khảo các tác phẩm kinh điểm mà Mac - Ăng
ghen - Lê nin đánh giá về phong trào.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
Do yêu cầu của đề tài, nên để giải quyết được vấn đề này, chúng tơi sử
dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, khái quát từ đó rút ra kết
luận phục vụ cho đề tài.
5. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI.

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tham khảo, nội dung của
đề tài gồm 3 chương.
Chương 1. Bối cảnh lịch sử của phong trào Văn hố phục hưng.
Chương 2. Tính thời đại của phong trào Văn hoá phục hưng
2.1. Thời đại suy tàn của chế độ phong kiến.
2.2. Những mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời.
Chương 3. Tính giai cấp của phong trào Văn hố phục hưng.
3.1. Sự ra đời và trưởng thành của giai cấp tư sản.


3.2. Phong trào Văn hoá phục hưng chống chế độ phong kiến và giáo
hội cản trở sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
3.3. Phong trào Văn hoá phục hưng đề cao sức lao động sáng tạo phát
minh sáng chế đẩy mạnh sản xuất vật chất.

3.4. Phong trào Văn hoá phục hưng đề cao giá trị con người.
3.5. Phong trào Văn hố phục hưng địi quyền tự do cá nhân và sự hưởng lạc.
3.6. Phong trào Văn hoá phục hưng thể hiện yêu cầu thống nhất quốc
gia và đề cao tinh thần dân tộc.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA PHONG TRÀO VĂN HỐ
PHỤC HƯNG.
1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN.

Như chúng ta đã biết, chế độ phong kiến phương Tây hình thành và xác
lập sau một thời kỳ chiếm hữu nô lệ phát triển đến đỉnh cao, nên phương Tây
có nét đặc thù, tiêu biểu so với chế độ phong kiến phương Đông. Nếu phương
Đông theo thể chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, khơng có vai
trị của tơn giáo, thì phương Tây ngay sau khi chế độ phong kiến được xác lập
nó đã gắn liền với tôn giáo - Thiên chúa giáo. Nhà nước phong kiến và Giáo
hội thiên chúa quan hệ mật thiết và xoắn xuýt với nhau. Đó là những công cụ
thống trị cả về vương quyền và thần quyền trong suốt " Đêm trường trung
cổ".
Lịch sử phong kiến phương Tây chia thành các thời kỳ khác nhau và
các nấc thang phát triển cũng khác nhau.
Thời kỳ đầu - sơ kỳ phong kiến từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ X, chế
độ phong kiến được hình thành và xác ở lập hầu hết các nước châu Âu. Trong
thời kỳ này, trên cơ sở diệt vong của đế quốc Tây Rôma, nhiều vương quốc
mới đã ra đời, trong số đó tiêu biểu nhất là vương quốc Frăng. Ở các quốc gia
này hầu hết ruộng đất trong xã hội dần dần tập trung vào tay giai cấp phong
kiến thế tục và Giáo hội và biến thành những lãnh địa truyền từ đời này sang
đời khác. Đồng thời, đây cũng là q trình nơng nơ hố nơng dân và trang
viên hố nền kinh tế trong nước.

Thời kỳ thứ hai - Trung kỳ phong kiến, từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ
XV. Đây là thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến. Trong thế kỷ X, chế độ
nông nô càng vững chắc, thế lực giai cấp lãnh chuá phong kiến càng phát


triển, do đó dẫn đến tình trạng chia cắt phong kiến tồn tại phổ biến ở Tây Âu.
Đến thế kỷ XI nền kinh tế hàng hoá bất đầu phát triển dấn đến sự ra đời của
thành thị và tầng lớp xã hội mới là thị dân, tầng lớp này ngày càng có vai trị
quan trọng về mọi mặt trong tiến trình lịch sử. Cũng từ đây nền văn hố sau
nhiều thế kỷ bị lụi tàn bắt đầu khởi sắc. Nhưng với sự phát triển của chế độ
phong kiến và của nền kinh tế hàng hố, sự bóc lột và nơ dịch đối với nông
dân càng tăng cường, nên các nước Tây Âu đã diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa
tương đối lớn của nông dân.
Thời kỳ thứ ba - Hậu kỳ phong kiến. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII.
Đây là giai đoạn mà chế độ phong kiến châu Âu lâm vào khủng hoảng, suy
tàn và tan rã. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa vốn đã có mầm mống ở Italia ở thế kỷ XVI, giờ đây
phát triển phổ biến ở Tây Âu, dẫn đến sự ra đời của hai giai cấp là giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản. Sự biến đổi to lớn về kinh tế và xã hội ở các nước Tây
Âu đã có những thay đổi quan trọng như đổi mới về tư tưởng, phát triển nhảy
vọt về văn hoá, xác lập chế độ quân chủ chuyên chế ở một số nước ... nhưng
đồng thời mâu thuẫn trong xã hội ngày càng gay gắt và phức tạp, đó là sự lỗi
thời và lạc hậu tồn tại trong suốt thời kỳ trung cổ đã phơi bày, cần được đánh
giá lại cho sát thực với thực tiễn. Phong trào Văn hoá phục hưng đáp ứng
được yêu cầu đó. Ngay sau khi ra đời giai cấp tư sản đã đảm đương sứ mệnh
lịch sử của mình chống lại sự cổ hủ, lạc hậu, lỗi thời của chế độ phong kiến và
Giáo hội, đòi quyền sống, quyền tự do và hạnh phúc cho con người.
1.2. TRẠNG THÁI KINH TẾ-CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI Ở TÂY ÂU THỜI HẬU KỲ
TRUNG ĐẠI.


Cuộc vận động về văn hoá và tư tưởng trong phong trào Văn hoá phục
hưng do những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội lúc bấy giờ quy định. Về


kinh tế, chính trị thời đại phục hưng là thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến
và xuất hiện những mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Từ thế kỷ XI, ở châu Âu đã xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng
hố. Trong nơng nghiệp năng suất lao động tăng và sản phẩm dư thừa. Q
trình chun mơn hố cũng diễn ra mạnh hơn ở các ngành công nghiệp. Lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ dẫn đến thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp. Hàng hoá bán ra thị trường một cách tự do, nó khơng cịn đóng kín
trong lãnh địa. Thành thị ra đời ở thế kỷ XI, do nhu cầu đòi hỏi của xã hội, trở
thành trung tâm thủ công nghiệp và ngày càng phát huy ảnh hưởng trong lòng
xã hội phong kiến. Nó đã đập vỡ nền kinh tế tự nhiên, tạo điều kiện cho nền
kinh tế hàng hoá giản đơn phát triển.
Đến thế kỷ XIV - XV, những công trường thủ công - mầm mống của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện trong các thành thị ở châu Âu.
Công cụ sản xuất ngày càng được cải tiến, việc tận dụng sức nước và sức gió
làm nguồn năng lượng sản xuất chủ yếu, đã làm cho sản xuất thủ cơng nghiệp
tăng lên nhanh chóng, chất lượng ngày càng cao. Nhiều ngành nghề mới ra
đời. Lúc này thành thị không chỉ là trung tâm sản xuất thủ công nghiệp mà
còn là những trung tâm thương nghiệp. "Sự phát triển thêm nữa của phân
công lao động, dẫn tới sự tách rời giữa lao động thương nghiệp". [6, 270].
Sự phát triển của công thương nghiệp và sự phân công lao động ngày
càng diễn ra mạnh mẽ, giữa các ngành nghề đã kích thích nền kinh tế hàng
hố phát triển mạnh mẽ hơn. Cho đến thế kỷ XIV quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã bước đầu xuất hiện với những mầm mống phơi thai. Nhưng chỉ một
mình kinh tế hàng hố thì khơng thể sản sinh ra chủ nghĩa tư bản, mà cần phải
có một thời gian dài, một thời kỳ chuẩn bị, mà q trình đó gọi là q trình
tích luỹ vốn ban đầu, hay cịn gọi là tích luỹ nguyên thuỷ.



Q trình tích luỹ tư bản được tiến hành trong một thời gian dài bằng
nhiều biện pháp tàn bạo khác nhau: việc bn bán nơ lệ gia đen, việc cướp
bóc thổ dân gia đỏ, vơ vét vàng bạc từ châu Mỹ về châu Âu, việc xua đuổi
người nông dân ra khỏi ruộng đất của mình, việc cướp bóc tài ngun và kể
cả bản thân con người ở những vùng đất mới phá hiện. Từ sau các cuộc phát
kiến lớn về địa lý, các nước Tây Âu đã đua nhau xâm chiếm các thuộc địa và
thị trường buôn bán ở châu Mỹ và châu Á. Kết quả là: "Việc tìm thấy những
vùng mỏ vàng, mỏ bạc ở châu Mỹ, việc tiêu diệt người bản xứ bắt họ làm nô
lệ và chôn vùi họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu chinh phục và cướp bóc
miền Đơng Ấn, việc biến châu Phi thành nơi cung cấp để săn bắt buôn bán
người gia đen - đó là buổi bình minh của thời đại sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Những quá trình mơ mộng ấy là q trình chủ yếu của sự tích lũy ban đầu".
[5, 330]. Kết quả chủ yếu của biện pháp này là tích luỹ tiền vốn một cách
nhanh chóng; việc "rào đất cướp ruộng", xua đuổi người nông dân ra khỏi
ruộng đất của mình ở Anh, thực chất là quá trình "tách rời giữa người lao
động khỏi quyền sở hữu điều kiện lao động của anh ta, quá trình một mặt biến
tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt của xã hội thành tư bản, mặt khác biến
người sản xuất trực tiếp thành người lao động làm thuê". [5, 268 - 269]. Cũng
đã cho ra đời giai cấp mới - giai cấp vô sản, phải làm thuê cho những nhà tư
bản.
Sự ra đời của giai cấp tư sản và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa càng
thâm nhập sâu vào đời sống xã hội, thúc đẩy sức sản xuất xã hội phát triển,
làm cho quan hệ sản xuất phong kiến ngày càng lâm vào tình trạng khủng
hoảng và tan rã. Q trình phát triển cơng thương nghiệp và tích luỹ nguyên
thuỷ tư bản chủ nghĩa, tầng lớp thị dân xuất hiện, ngày càng phát huy thế
mạnh và chiếm vị trí quan trọng trong xã hội. Tầng lớp thị dân đã chiếm nhiều
ngành sản xuất quan trọng, sản phẩm ngày càng dư thừa và có giá trị đối với



đời sống xã hội, hàng hoá được trao đổi trên thị trường, chủ yếu là hàng hoá
do sản xuất từ các công trường thủ công. Đặc biệt quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa dần dần thay thế và chi phối quan hệ sản xuất phong kiến. Giai cấp tư
sản ra đời, song mới ra đời chưa đủ sức mạnh để lật đổ chế độ phong kiến,
thiết lập một thị trường dân tộc thống nhất, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản
chủ nghĩa phát triển. Vì vậy, trong buổi đầu mới ra đời, giai cấp tư sản đã ủng
hộ nhà vua, đập tan các thế lực cát cứ thiết lập nên nhà nước quân chủ chuyên
chế thống nhất dựa trên cơ sở dân tộc châu Âu.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện trong lòng chế độ phong
kiến suy tàn, giai cấp tư sản ra đời đã làm đảo lộn xã hội phong kiến châu Âu
trên lĩnh vực kinh tế, chính trị đồng thời cũng gây nên biến động lớn lao về
văn hoá, tư tưởng và xã hội.
Xã hội phong kiến châu Âu lúc này vẫn chịu sự thống trị về tư tưởng
của Giáo hội cơ đốc giáo. Đó là thần học, triết học kinh viện, tư tưởng duy
tâm thần học do nhà thờ thiên chúa giáo tun truyền. Nó đã giam hãm tư
tưởng, tình cảm của con người trong vòng lạc hậu và đen tối. Hầu hết các hoạt
động của con người đều bị trói chặt và chi phối bởi Giáo hội cơ đốc giáo.
Chính vì vậy mà các ngành khoa học , đặc biệt là khoa học tự nhiên chỉ được
xem là "đầy tớ" của thần học và triết học kinh viện mà thơi. Nó đã ru ngủ con
người trong suốt "Đêm trường trung cổ" bằng thuyết quả đất là trung tâm của
vũ trụ. Chính vì vậy, cần phải đẩy lùi tư tưởng thần học và triết học kinh viện
cho các môn khoa học phát triển.
Giai cấp tư sản ra đời cần phải đánh đổ mọi tàn dư của phong kiến và
Giáo hội để mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, để cho lực
lượng sản xuất phát triển. Do vậy, nó khơng chấp nhận mọi sự kìm hãm trói
buộc, giam hãm con người. Giai cấp tư sản cũng không thể chấp nhận sự lạc
hậu, bảo thủ nặng nề của nhà thờ và Giáo hội.



Do bối cảnh lịch sử đó, một cuộc vận động về tư tưởng và văn hoá mới
nổ ra rộng khắp châu Âu - phong trào Văn hoá phục hưng, nhằm đấu tranh
cho quyền con người, cho sự phát triển tự nhiên của con người, giải phóng
tình cảm con người, để con người hưởng mọi lạc thú mà tự nhiên ban tặng.
Như vậy, phong trào Văn hoá phục hưng là sản phẩm tư tưởng của giai
cấp tư sản mới ra đời. Nó khẳng định sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, song
vẫn chưa đủ sức mạnh để lật đổ chế độ phong kiến trong các thế kỷ XIV, XV,
XVI. Chính vì vậy, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội sau này, giai cấp
tư sản phải có tiền đề lý luận về tư tưởng cho giai cấp mình để đấu tranh
mang tính chất dọn đường, mà trước tiên là cuộc đấu tranh trên mặt trận văn
hoá tư tưởng. Phong trào Văn hoá phục hưng trở thành phương tiện và công
cụ cho giai cấp tư sản đấu tranh.
1.3. KHÁI NIỆM VỀ PHONG TRÀO VĂN HOÁ PHỤC HƯNG.

Trong một thời kỳ dài châu Âu đắm chìm trong "Đêm trường trung cổ"
của chế độ phong kiến và Giáo hội cơ đốc giáo, đến thế kỷ XIV, XV, XVI
dấy lên một cuộc vận động văn hoá và tư tưởng mang hơi thở mới, một luồng
sinh khí mới, một màu sắc văn hố mới rất mực hào hứng và quyết liệt mà từ
trước tới bây giờ loài người chưa từng thấy - phong trào Văn hoá phục hưng.
Phong trào Văn hoá phục hưng xuất hiện ở thế kỷ XIV và phát triển
mạnh mẽ ở hai thế kỷ XV, XVI. phong trào này bắt nguồn từ Italia, sau đó lan
rộng ra các nước Tây Âu, Trung Âu. Cái tên phong trào Văn hoá phục hưng
được gọi với nhiều tên khác nhau. Người Italia gọi là "Ranas cita", người
Pháp đặt cho nó là "Lare nai ssan ce". Dù người Italia hay người Pháp gọi
bằng hai cái tên khác nhau, nhưng nó cùng một nghĩa mà có thể dịch là "phục
hưng" hoặc "tái sinh" hay "sống lại".
Gọi là phong trào Văn hố phục hưng vì người đương thời muốn khơi
phục lại một nền văn hố xán lạn của các quốc gia cổ đại Hy lap và La mã.



Người cổ đại Hy Lạp và La mã đã xây dựng nên một nền văn hố hồn bị
trước khi đức chúa Giê Su ra đời.
Một số học giả phương Tây cho rằng phong trào này nhằm làm "phục
hưng", nhằm làm "sống lại" nền văn hoá cổ đại Hy - La vừa được phát hiện
nhờ những cuộc khai quật, nhờ những bản sách chép tay từ thời đó cịn gìn
giữ được. Quả thực, từ thế kỷ XIV, XV, XVI ở châu Âu có cả một phong trào
đi tìm kiếm những dấu tích của hai nền văn hố Hy - La. Người ta đua nhau
học tiếng Hy lạp và La tinh để đọc những bản sách chép tay đó. Việc dịch
thuật giới thiệu và xuất bản các tác phẩm triết học, văn học, sử học cổ Hy lạp
đã thu hút số đông những học giả, người nghiên cứu, chủ nhà in ... đúng là
chưa bao giờ Hy - La cổ đại lại được chú ý, được đề cao, được say mê đến
như vậy.
Nhưng thật là sai lầm, nếu cho rằng mục đích của phong trào Văn hố
phục hưng là nhằm khơi phục lại những nền văn hố cổ đại đó, và thật là
phiến diện nếu nghĩ rằng phong trào sôi động này chỉ mang ý nghĩa phục cổ
đơn thuần.
Người châu Âu đã tận mắt nhìn thấy và nghiên cứu những di tích cịn
sót lại của hai nền văn minh Hy lạp và La mã mà các cuộc khai quật vừa phát
hiện được. Nhờ tự mình đọc và tìm hiểu ý nghĩa của các tác phẩm cổ đại Hy
lạp, La mã (qua nguyên tác hoặc qua bản dịch) phương Tây lần đầu tiên so
sánh, đối chiếu với nền văn hóa thực tại - văn hố trung cổ, họ đã rút ra cho
mình những kết luận này: trung cổ phong kiên và Giáo hội đã kìm hãm nền
văn hố, hơn thế nữa đã chà đạp lên quyền sống, quyền tự do của con người.
Họ cảm thấy như mình vừa trải qua một đêm trường "tăm tối". Họ nhận ra
rằng cổ đại Hy - La sở dĩ đã xây dựng một nền văn minh rực rỡ chính là họ
chưa hề biết chế độ phong kiến là gì, vì nó chưa phải chịu đựng sự thống trị
tinh thần của Giáo hội thiên chúa. Ăng ghen viết: "trong những cuốn sách


chép tay còn cứu vớt được sau khi nền văn minh By zăng xơ đã sụp đổ, trong

những kho tượng thời cổ đại đã khai quật được trong những đống hoang tàn ở
La Mã, người ta thấy cả một thế giới mới lạ hiện ra trước mắt phương Tây
kinh ngạc: đó là thời cổ đại Hy lạp, những hình thức chói lồ của nó đánh tan
những bóng ma của thời trung cổ". [2, 118]
Phong trào Văn hoá phục hưng trong khi hướng về cổ đại để học tập
những truyền thống tốt đẹp của văn hoá cổ đại Hy - La đã đề cao: truyền
thống trân trọng đề cao con người trái ngược với thái độ coi rẻ, miệt thị con
người của Trung cổ; là tuyền thống đấu tranh cho tự do của con người, trái
ngược với nền chuyên chính, độc tài của phong kiến và của Giáo hội. Nhưng,
đồng thời cũng luôn luôn phê phán, tố cáo trung cổ phong kiến và nhà thờ, từ
đó nói lên cái nhu cầu và khát vọng của con người mới, vạch rõ và biểu
dương những khả năng, triển vọng của con người mới, xã hội mới.
Con người mới đó là con người xây dựng xã hội mới, con người mà
thời đại phục hưng đang cần đến. Như Ăng ghen nói:"Thời đại cần có những
con người khổng lồ và đã đẻ ra những con người khổng lồ, khổng lồ về tư
tưởng, khổng lồ về nhiệt tình và tính cách, khổng lồ về tài năng mọi mặt về sự
hiểu biết sâu rộng của họ". [1, 106]
Những con người khổng lồ đã xuất hiện trên mọi lĩnh vực. Trong văn
học đã xuất hiện các nhân vật Gác găng chuya và Păng tagruy en của Rabơle,
đó là bác sĩ Fau xt trong vở kịch của Mác lô vơ, đó là Hăm lét, Ơtenlơ ... của
Sêcxpia. Trong lĩnh vực xã hội kiểu người khổng lồ đó đã xuất hiện, đó là
những thiên tài xuất sắc Lêơna Đơvanh xi, nhà hoạ sĩ kiêm nhà bác học, kiêm
thợ máy, kiêm kỹ sư; đó là Anbeduyrê vừa là nhà hoạ sĩ, vừa là nhà điêu khắc
nhà tạc tượng, nhà kiến trúc; đó là Mikenlăng giơ nhà điêu khắc kiêm hoạ sĩ.
Trong lĩnh vực thiên văn học với các nhà khổng lồ như: Côpecnich người
phát hiện ra lý thuyết mới về hệ thống mặt trời, Brunô, Galilê, Képle họ tiếp


tục phát triển thuyết của ơng và ngày càng hồn chỉnh hơn; đó là các nhà triết
học lớn như : Đềcáctơ, nhà triết học, nhà toán học, Bâycơn vừa là nhà triết

học, vừa là nhà sử học. Các ông đạt được những thành tựu gắn liền với khoa
học tự nhiên, đã phát triển tư tưởng triết học duy vật và duy lý; đó là Tơrixeli
nhà vật lý học, Xec vê, Vê da lơ trong lĩnh vực giải phẫu cơ thể; trong lĩnh
vực phát kiến địa lý như: Côlômbô, Cri Xtốp Cơlơng, Vaxcơxđơ Gama, Ma
giênlăng họ đã tìm ra con đường sang châu Mỹ, châu Á và con đường vòng
quanh thế giới.
Trong lĩnh vực văn học xuất hiện các thiên tài kiệt xuất như: Đan tê,
Pêtơrac, Bôcaxiô ở Italia; Rabơle, Môngtennhơ ... ở Pháp; Xecvăngtec,
Lôpêđavêga ... ở Tây Ban Nha; Máclôvơ, Sêcxpia ở Anh. Đó cũng là thời kỳ
nổi dậy của các các nhân văn chủ nghĩa: Đantê, Êraxmơ, Tômátmogơ, cămpa
nela ... Đó là sự ra đời của các xưởng in, nhà xuất bản, sự sáng tạo ra máy
móc, trang thiết bị trong kỹ thuật.
Như vậy, phong trào Văn hoá phục hưng đã diễn ra với quy mô rộng
lớn và mạnh mẽ, trải rộng khắp các nước châu Âu và được xem là một thời kỳ
mới trong lịch sử các nước châu Âu. Bởi nội dung của phong trào là vì con
người, ca ngợi vẻ đẹp tự nhiên của con người, ca ngợi tình yêu hạnh phúc, thể
hiện quyền sống, quyền tự do của con người. Họ tự hào về một thời kỳ mà họ
đang hướng tới, tự hào về con người mới. Con người với trí sáng tạo vĩ đại,
với niềm tin vào khả năng to lớn của mình. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản
mới ra đời trong lòng xã hội phong kiến châu Âu đã lợi dụng và dùng phong
trào làm vũ khí đấu tranh chống phong kiến và tư tưởng của Giáo hội. Qua đó
giai cấp tư sản đã xây dựng cho giao cấp mình một hệ tư tưởng hơn hẳn và
đối lập với thời trung cổ - tư tưởng của giai cấp tư sản. Đó là hệ tư tưởng tiên
tiến, họ tấn công vào tư tưởng của chế độ phong kiến và nhà thờ thiên chúa


giáo bảo thủ và lạc hậu. Phong trào Văn hoá phục hưng cùng với cải cách tôn
giáo đã tập hợp mọi tầng lớp nhân dân để làm cuộc cách mạng xã hội sau đó.



CHƯƠNG 2. TÍNH THỜI ĐẠI TRONG PHONG TRÀO VĂN HĨA
PHỤC HƯNG.
Văn hoá phục hưng xuất hiện trong thời điểm giao thời của lịch sử là
thời đại quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa là giai
đoạn hình thành các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ chế
độ phong kiến. Tức, đây là thời đại mà chế độ phong kiến bước vào con
đường khủng hoảng và tan rã, xuất hiện mầm mống quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
2.1. THỜI ĐẠI SUY TÀN CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN.

Cho đến thế kỷ XV, XVI, nhìn chung quan hệ sản xuất phong kiến ở
Tây Âu vẫn cịn chiếm địa vị thống trị: Hình thức sở hữu ruộng đất phong
kiến, cùng với chế độ bóc lột nơng nơ vẫn cịn duy trì, địa vị chính trị của q
tộc cịn lớn. Nhưng với sự xuất hiện những mầm mống quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt giai cấp tư sản ra đời đứng lên đấu tranh chống chế độ
phong kiến, tư tưởng của nhà thờ Thiên chúa giáo và những cản trở trên con
đường phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển đó, quan hệ sản xuất
phong kiến khơng thể ngăn cản được mà ngày càng mất dần địa vị của mình
trong xã hội, nó càng đẩy quan hệ sản xuất phong kiến đến mức suy tàn và tan
rã. Đó là hiện tượng phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.
Sự suy tàn và tan rã của chế độ phong kiến thể hiện cụ thể trong phong
trào văn hóa phục hưng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị và xã hội.
2.1.1. Về kinh tế.
Trong suốt thời kỳ trung cổ quan hệ sản xuất phong kiến chiếm địa vị
thống trị và duy trì nền sản xuất tự nhiên, tự cấp tự túc là chủ yếu. Nhưng với
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ, quan hệ phong kiến
nó bắt đầu giải thể. Biểu hiện của sự giải thể đó là ở chỗ hình thức bóc lột và


mức độ lệ thuộc của nông nô đã khác trước. Thay cho tô hiện vật và nhiều thứ

nghĩa vụ khác, giờ đây người nơng nơ có thể chỉ cần nộp một số tiền. Bản thân
hình thức tơ tiền đã làm cho hình thức ràng buộc của người sản xuất của chủ
đất nhẹ bớt đi. Các chúa phong kiến cần nhiều tiền để mua hàng xa xỉ, cịn
đồng ý cho nơng nô đem tiền chuộc lại cả sự tự do thân thể. Một số nông nô
khéo tay bằng con đường này đã trở thành thị dân tự do và dần dần trở nên giàu
có.
Như vậy quan hệ sản xuất phong kiến ngày càng bị lỗi thời, lạc hậu,
quan hệ sản xuất mới xuất hiện thủ tiêu dần sự lỗi thời lạc hậu đó. Đúng như
Ăng ghen đã viết:" Trong khi những cuộc đấu tranh rối loạn của giới quý tộc
phong kiến nắm quyền thống trị, làm náo động cả thời trung cổ, thì lao động
thầm lặng của các giai cấp bị áp bức đã thủ tiêu chế độ phong kiến ở Tây Âu
đã tạo ra những điều kiện ngày càng làm mất chỗ đứng của các chúa phong
kiến. Ở nông thôn dĩ nhiên các lãnh chúa quý tộc còn mặc sức hồnh hành,
hành hạ nơng nơ, sống phè phởn trên mồ hôi nước mắt của họ, xéo nát ruộng
vườn của họ, dùng bạo lực chiếm đoạt vợ và con gái họ. Nhưng xung quanh
chúng các thành thị đã mọc lên: ở Italia, ở miền Nam nước Pháp, ở miền sông
Rhein, các thành thị cổ Rô- ma đã mọc lên từ đống tro tàn của chúng; ở nơi
khác, nhất là ở trong lịng nước Đức đã xuất hiện những cơng trình mới, ngaỳ
càng mọc lên những thành luỹ hầm hào, pháo đài kiên cố vững chắc hơn
nhiều so với thành luỹ của quý tộc ... Đằng sau những thành luỹ, hầm hào ấy,
nền thủ cổng nghiệp đã mọc lên - mang tính chất phường hội tư sản".[6, 437].
Mặc dù những tiến bộ đó của sản xuất và trao đổi cịn rất hạn chế: "sản
xuất chỉ gói gọn dưới hình thức thuần t, thủ cơng nghiệp, và vì vậy mà cịn
mang tính chất phong kiến, thương mại chỉ nằm trong phạm vi các vùng sông
biển ở châu Âu và không vượt quá các thành thị duyên hải miền Le-vante, tại
đó nó trao đổi sản phẩm với biển đông. Mặc dù nền công nghiệp và cùng với


nó là các dân cư cơng nghiệp nhỏ bé và hạn chế như vậy, song nó vẫn đủ sức
làm đảo lộn xã hội phong kiến, và ít ra nó vẫn tiếp tục vận động phát triển

trong khi quý tộc bị suy đồi". [6 , 439] Nhưng đã thay đổi bộ mặt kinh tế của
các nước châu Âu, làm cho nền kinh tế phong kiến mất dần địa vị thống trị
của mình. Nền kinh tế hàng hố giờ đây trở thành địa vị thống trị, nó ăn sâu
và phát triển mạnh mẽ vào tất cả các nước châu Âu thời hậu kỳ phong kiến.
Về cơng nghiệp, đó là xuất hiện các công trường thủ công thay thế cho
lao động thủ công giản đơn. Đó là sự tiến bộ kỹ thuật do nhu cầu ngày càng
tăng của sản phẩm. Trước tiên là việc cải tiến các bánh xe nhỏ quay bằng sức
nước các dịng sơng, thành các bánh xe lớn dùng sức nước từ máng trên cao
đổ xuống, mà người ta thường gọi là "guồng nước trên". Guồng nước trên áp
dụng được tiện lợi nhiều nơi và trở thành động lực cơ khí quan trọng của thời
đó. Trong ngành luỵên kim nó có thể chuyển động những búa nặng 1 tấn;
trong khai thác quặng, có thể lấy quặng hoặc nước từ các hầm mỏ lên, hay
quay những máy nén trong nghề làm giấy với năng suất cao hơn trước.
Trong ngành luyện kim đó là sự cải tiến lị nấu quặng. Thay vào những
lò nhỏ và bằng tay trước kia, người ta đã biết xây những lò cao và bắt đầu nấu
được gang và luyện được thép.
Trong ngành hàng hải, người ta đã biết đóng những thuyền đi biển lớn,
có trọng tải 50 - 100 tấn, tốc độ trung bình từ 30 - 60 km/ngày. La bàn, viễn
kính, thước đo phương vị ... đã được hoàn thiện hơn và áp dụng rộng rãi.
Sự tiến bộ trong công nghiệp biểu hiện trước hết ở sự phân cơng trong
q trình sản xuất và nâng cao kỹ xảo trong mỗi việc. Xa kéo sợi được cải
tiến. Máy dệt cũng thế, cho phép dệt len và pha len thành tấm có nhiều màu.
Đồng thời ngành in máy ra đời đánh dấu một bước phát triển quan
trọng nữa của kỹ thuật.


Về mặt nơng nghiệp cũng có những biến đổi sâu sắc nếu như thời trung
cổ nơng nghiệp đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế, nông dân cày cấy
trên phần ruộng đất của mình, cuối mùa nộp tơ, thuế cho địa chủ phong kiến,
thì giờ đây những nơng dân tự do hoặc những nông dân được chuộc lại tự do,

bị nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ làm phân hố nhanh chóng. Một số đơng do
túng thiếu, mắc nợ khơng cịn tài sản gì nữa. Ruộng đất của họ cuối cùng tập
trung vào kẻ giàu có. Hiện tượng này diễn ra sâu rộng hơn cả ở Anh. Giai cấp
quý tộc phong kiến đã suy yếu, đã cho những trại chủ thuê ruộng. Những
vùng đất đai rộng lớn tập trung vào tay một chủ, biến làm bãi chăn cừu thay
trồng cây công nghiệp. Như vậy, nền sản xuất nhỏ của nông dân đã bị thay
thế, địa chủ quý tộc mất địa vị của mình. Như Ăng ghen nhận định: "Trong
khi quý tộc ngày càng trở nên thừa và ngày càng làm trở ngại sự phát triển thì
dân cư thành thị đã trở thành giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển không ngừng
của sản xuất'. [6, 438].
Do tác động của nền kinh tế mới, địa vị kinh tế của quý tộc đã giảm sút.
Những khoản tô thuế cố định trong điều kiện của cuộc cách mạng giá cả diễn
ra vào đầu thế kỷ XVI làm cho thu nhập thực tế của lãnh chúa giảm đi 2 -3
lần. Trong khi đó cuộc sống của giai cấp thống trị ngày càng trở lên xa hoa
phù phiếm. Nhiều quý tộc, đặc biệt vừa và nhỏ bị rơi vào cảnh sa sút, thiếu
thốn, thậm chí cịn ngèo túng, mang cơng mắc nợ bọn nhà bn.
Tính chất bảo thủ của quan hệ sản xuất phong kiến, ở nông thôn nên
sản xuất nông nghiệp không tiến triển được bao nhiêu, công cụ không được
cải tiến, kinh nghiệm canh tác vẫn giữ như cổ truyền, năng suất thấp (trừ Anh)
đã làm cho kinh tế phong kiến trì trệ, lỗi thời khơng thể cạnh tra với nền kinh
tế hàng hoá đang diễn ra như vũ bão. Biểu hiện rõ nét nhất là sự sa sút ngày
càng mạnh của quý tộc phong kiến. Trong tác phẩm "Đônkihôtê" của Xéc


văng tec, đã cho chúng ta hiểu sâu sắc nhất về q tộc của Tây Ban Nha nói
riêng và tồn thể châu Âu nói chung.
Ở Tây Ban Nha, trong một xứ gọi là Măng sơ, có một nhà quý tộc
thuộc loại chỉ còn ghi được danh hiệu qúy tộc chứ gia tư điền sản chẳng cịn
mấy. Đó là sự sa sút của giới quý tộc Tấy Ban Nha mà Đôn ki hô tê là tiêu
biểu. Đôn ki hô tê say mê tiểu thuyết hiệp sĩ, cuối cùng dẫn anh đến bước

đường cùng là hiệp sĩ giang hồ. Trong tác phẩm, Xéc văng téc còn xây dựng
nên một nhân vật khác nữa tiêu biểu cho nông dân là Xăngsô Păngxa - người
nông dân chất phát, hồn nhiên, thực tế. Cả hai nhân vật này đại diện cho hai
giai cấp thời trung cổ, họ đều có đặc điểm chung là ngày càng bị tha hố.
Cuối cùng cả Đơn ki hơ tê và Xăng xô lại trở về buổi ban đầu.
Qua tác phẩm, Xec văng téc muốn gửi đến người đọc về tình hình kinh
tế Tây Ban Nha thời đó. Nền kinh tế phong kiến đang trược dốc và suy tàn bị
đồng tiền tha hoá, quý tộc phong kiến vừa và nhỏ mất địa vị, nông dân mất
ruộng đất. Các lãnh chúa phong kiến chiếm đoạt ruộng đất, vơ vét bóc lột
nơng dân ăn chơi xa xỉ.
Như vậy, dưới tác động mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hoá thời phục
hưng, càng đẩy nhanh sự tan rã của quan hệ sản xuất phong kiến. Vua chúa
quý tộc phong kiến trở thành con nợ của những tên chủ kinh doanh. Thị
trường trong nước ngày càng được mở rộng, phá tan nền kinh tế tự nhiên, tự
cấp tự túc, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hố.
2.1.2. Về chính trị.
Trong suốt thời kỳ trung cổ châu Âu chìm đắm dưới chế độ phong kiến
và nhà thờ thiên chúa giáo. Nhưng cùng với sự phát triển và thay đổi bộ mặt
kinh tế thì địa vị chính trị của lớp quý tộc phong kiến cũng vì thế mà thay đổi.
Chúng phải phục tùng nhà vua, phải chịu nghĩa vụ quân sự và bãi bỏ những
chế độ thuế má, luật lệ riêng. Ăng ghen viết:"Ngay cả ở nông thôn nữa, các



×