Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

suy thoái tài nguyên nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.08 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Phần 1: Đặt vấn đề
Phần 2: nêu một số khái niệm cơ bản
- Suy thoái môi trường.
- Taì nguyên nước.
Phần 3: Thực trạng, nguyên nhân của suy thoái tài nguyên nước
- Thực trạng và biểu hiện của suy thoái tài nguyên nước ở Việt nam.
- Nguyên nhân dẫn đến suy thoái nguồn tài nguyên nước.
- Hậu quả của suy thoái nguồn tài nguyên nước.
Phần 4: ý kiến đề xuất và giải pháp
- Hạn chế và giảm thiểu suy thoái Tài nguyên nước do biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Hạn chế và giảm thiểu suy thoái Tài nguyên nước do Phát triển, sử dụng Tài
nguyên nước không hợp lý.
- Hạn chế và giảm thiểu suy thoái Tài nguyên nước do Quản lý, Tổ chức và Luật
pháp
Phần 5: Kết luận
1
PHẦN1: ĐẶT VẤN ĐỀ.
“Nước là tài nguyên quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên trái
đất.Viện sĩ Xiđorenko khẳng định “ nước là khoáng sản quý hơn các loại
khoáng sản”.Vai trò quan trọng của nước thể hiện rõ nét trong tất cả mọi mặt
của đời sống con người : nước chiếm 99% trọng lượng sinh vật sống trong môi
trường nước và 44% trọng lượng cơ thể con người,ngoài chức năng tham gia
vào chu trình sống trên,nước còn mang năng lượng (hải triều,thuỷ năng,chất
mang vật liệu và là tác nhân quan trọng điều hoà khí hậu,thực hiện các chu trình
tuàn hoàn vật chất trong tự nhiên.Có thể nói,sự sống của con người và mọi sinh
vật trên trái đất phụ thuộc vào nước.
Hiện nay,sự suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên đang diễn ra với mức độ
nghiêm trọng,trong đó có nguồn tài nguyên nước.Với những ý nghiã to lớn như
vậy,nguồn tài nguyên nước luôn là điều kiện cần cho tất cả mọi hoạt động diễn
ra trên trái đất,nhưng có một thực tế, đây cũng chính là nguồn tài nguyên bị con


người lạm dụng nhiều nhất,và luôn ảo tường về tính vô tận của nó.trên trái
đất,97% lượng nước là nước mặn,2%nước ngọt tập trung ở 2 cực,0,6%là nước
ngầm,còn lại là nước sông hồ. Trong những năm gần đây do sự bùng nổ về dân
số, Tài nguyên thiên nhiên như rừng bị khai thác cạn kiệt, điều kiện kinh tế xã
hội phát triển mạnh, yêu cầu dùng nước ngày càng tăng, chất thải trong nông
nghiệp, công nghiệp và trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, sự tác động của
con người vào thiên nhiên ngày càng mạnh, cộng với thiên nhiên ngày càng biến
đổi khắc nghiệt dẫn đến tình trạng nguồn nước ngày càng khan hiếm, cạn kiệt.
Nếu trong thời gian này chúng ta không nhìn nhận nước là tài nguyên quý giá,
phải có biện pháp bảo vệ sẽ dẫn đến tình trạng chiến tranh để giành nguồn nước
phục vụ cuộc sống.
2
PHẦN 2: NÊU MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN.
Trước khi trình bày cụ thể về suy thoái
tài nguyên nước,cần phải hiểu rõ một số khái niệm cơ bản:
- Suy thoái môi trường: là sự suy giảm về số lượng và chất lượng của thành
phần môi trường,gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.
- Theo “Thuật ngữ thuỷ văn và môi trường nước”,tai nguyên nước: là lượng
nước trên 1 vùng đã cho hoặc lưu vực,biểu diễn ở dạng nước có thể khai
thác ( nước mặt và nước dưới đất).
Suy thoái tài nguyên nước là một vấn đề rộng lớn, đòi hỏi quá trình nghiên
cứu,làm việc công phu và lâu dài.Vì vậy trong phạm vi giới hạn kiến thức và
nguồn tài liệu của môn học,Nhóm 4 xin phép trình bày những vấn đề chung nhất
trong suy thoái nguồn tài nguyên nước ở Việt Nam.
PHẦN 3:
Việt Nam là một nước có nguồn Tài nguyên nước vào loại trung bình trên thế
giới có nhiều yếu tố không bền vững. Sự không bền vững đó ngày một tăng trầm
trọng do t ác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, do sự phát triển và sử dụng
thiếu hợp lý kể cả khâu quản lý dẫn đến Tài nguyên nước Việt Nam có xu thế
ngày càng suy thoái, cạn kiệt, nghèo nước.

I. THỰC TRẠNG VÀ BIỂU HIỆN CỦA SUY THOÁI TÀI NGUYÊN
NƯỚC.
Nước ta có khoảng 830 tỷ m3 nước mặt trong đó chỉ có 310 tỷ m3 được
tạo ra do mưa rơi trong lãnh thổ Việt Nam chiếm 37% còn 63% do lượng mưa
ngoài lãnh thổ chảy vào. Tổng trữ lượng tiềm tàng khả năng khai thác nước dưới
đất chưa kể phần hải đảo ước tính khoảng 60 tỷ m3/năm. Trữ lượng nước ở giai
đoạn tìm kiếm thăm dò sơ bộ mới đạt khoảng 8 tỷ m3/năm (khoảng 13% tổng
trữ lượng).
Nếu kể cả nước mặt và nước dưới đất trên phạm vi lãnh thổ thì bình quân đầu
người đạt 4400 m3/người, năm (Thế giới 7400m3/người, năm). Theo chỉ tiêu
3
đánh giá của Hội Tài nguyên nước Quốc tế IWRA thì quốc gia nào dưới
4000m3/người, năm là quốc gia thiếu nước. Như vậy, nước ta là một trong
những nước đang và sẽ thiếu nước trong một tương lai rất gần (Thực tế nếu kể
cả lượng nước từ các lãnh thổ nước ngoài chảy vào thì Việt Nam trung bình đạt
khoảng 10.600m3/người, năm). Lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh thổ chiếm
xấp xỉ 2/3 tổng lượng nước có được, rất khó chủ động, thậm chí không sử dụng
được. Sự phân bố của cả nước mặt lẫn nước dưới đất rất không đều. Theo không
gian, nơi có lượng mưa nhất là Bạch Mã 8000mm/năm, Bắc Quang, Bà Nà đạt
khoảng 5000mm/năm, trong khi Cửa Phan Rí chỉ đạt xấp xỉ 400mm/năm. Theo
thời gian, mùa lũ chỉ kéo dài từ 3- 5 tháng nhưng chiếm tới 70- 85% lượng nước
cả năm. Mùa lũ, lượng mưa một ngày lớn nhất đạt trên 1500mm/ngày song mùa
cạn tồn tại hàng nhiều tháng không có giọt mưa nào. Mưa, lũ đạt kỷ lục trong
vùng Đông Nam á là ven biển Miền Trung. Hạn hán xảy ra nghiêm trọng. Điều
đó cần phải tích nước trong mùa lũ để điều tiết bổ sung mùa cạn là giải pháp tích
cực nhất, quan trọng nhất.Nước ta có khoảng 2360 con sông có chiều dài lớn
hơn 10 km. Trong số 13 lưu vực sông chính và nhánh có diện tích lớn hơn
10.000 km2 thì có đến 10/13 sông có quan hệ với các nước láng giềng, trong đó
có 3/13 sông thượng nguồn ở Việt Nam, hạ nguồn chảy sang nước láng giềng, 7
sông thường nguồn ở nước láng giềng, hạ nguồn ở Việt Nam. Điều này Việt

Nam không những bị ràng buộc nguồn lợi về nước của quốc gia thứ hai, thứ
ba… chia sẻ, đồng thuận.Tổng lượng nước năm ứng với p = 75% khoảng 720 tỷ
m3, tổng lượng nước mùa cạn có khoảng 170 tỷ m3 (kể cả 30 tỷ m3 điều tiết từ
các hồ chứa tính đến năm 2010). Tổng nhu cầu nước năm 2010 là 110 tỷ m3,
trong mùa cạn khoảng 85 tỷ m3 (chưa kể đến lưu lượng nước đảm bảo môi
trường sinh thái hạ lưu). Nếu quản lý không tốt thì đến năm 2010 khả năng thiếu
nước đã rõ ràng vào từng nơi, từng thời kỳ, đặc biệt là các vùng Ninh Thuận,
Bình Thuận, Daklak, Daknông, ĐBSCL, Trung du S. Thái Bình và sông Hồng
và dải ven biển.
Không những nguồn nước mặt mà nguồn nước ngầm cũng đang ở trong tình
trạng bị suy thoái nghiêm trọng. Đặc biệt là hàm lượng asen trong các mẫu nước
4
ngầm điển hình nhưkhu vực đồng bằng Bắc bộ nói chung đều cao hơn nhiều so
với tiêu chuẩn cho phép. Trong khi đó việc khai thác nước ngầm cũng chưa có
quy hoạch hoàn chỉnh, tình trạng người dân tự khoan giếng diễn ra khắp nơi nên
tình trạng ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.
Dân số tăng, chỉ số lượng nước trên đầu người giảm. Năm 1943 là 16.641
m3/người, nếu dân số nước ta tăng lên 150 triệu người thì chỉ còn đạt 2467
m3/người, năm xấp xỉ với những quốc gia hiếm nước.Theo Cục Bảo vệ môi
trường, chất lượng nước 3 LVS Cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai - Sài Gòn đang bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Thậm chí có những đoạn sông thuộc 3 LVS trên đã "chết"
hoàn toàn, nhất là ở các vùng hạ lưu. Trên LVS Nhuệ - Đáy, các sông ở nội
thành Hà Nội, sông Nhuệ từ thị xã Hà Đông đến thị xã Phủ Lý bị ô nhiễm rất
nghiêm trọng. Trên LVS Đồng Nai - Sài Gòn, đoạn hạ lưu sông Đồng Nai, sông
Sài Gòn, sông Thị Vải tồn tại nhiều đoạn sông "chết". Các LVS bị ô nhiễm nặng
chủ yếu là do nước thải từ sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, các làng nghề, bệnh
viện, sản xuất nông nghiệp và thủy sản, chất thải rắn, khai thác khoáng sản…
Theo Cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và PTNT), TNN trên LVSHồng cũng đang
suy giảm về số lượng, bởi vì mực nước sông Hồng đang ngày càng hạ thấp hơn
vào mùa kiệt. Mùa khô 2004 - 2005 mực nước sông Hồng xuống tới mức 1,36m

- thấp nhất trong vòng 100 năm qua. Mùa khô 2006 - 2007, mực nước sông
Hồng xuống tới 1,12m - mức thấp nhất kể từ khi có trạm quan trắc trên sông
Hồng.
5
II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SUY THOÁI NGUỒN TÀI
NGUYÊN NƯỚC.
1. Do các Quốc gia ở thượng nguồn khai thác nước các sông ngày càng nhiều
và có chiều hướng bất lợi. Ví dụ: Trung Quốc đã và đang xây dựng hơn 10 hồ
chứa lớn trên sông Mekong, sông Nguyên; Lào đã và đang xây dựng 35 công
trình thuỷ lợi- thủy điện trong đó có 27 hồ chứa trên sông nhánh và 8 đập dâng
trên sông chính. ở Thái Lan, đã có 10 hồ chứa vừa và lớn và đang có kế hoạch
xây thêm. ở Campuchia có dự kiến giữ mực nước Biển Hồ với một cao trình
nhất định để phát triển tưới…
2. Nạn phá rừng ngày một tăng cao để trồng càphê ( khi được giá), phá rừng để
lấy gỗ, lấy củi, lấy đất làm nương rẫy… khó kiểm soát đã làm nguồn nước về
mùa cạn nhiều sông suối, khô kiệt, về mùa lũ làm tăng tốc độ xói mòn đất, tăng
tính trầm trọng của lũ lụt…Đó là chưa kể hậu quả gây giảm sút đáng kể về Đa
dạng sinh học . Ô nhiễm nước ngày một trầm trọng do tốc độ đô thị hoá, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày một tăng nhanh trong khi nước thải, rác thải chưa
được kiểm soát chặt chẽ. Đó là chưa kể ô nhiễm do sử dụng hoá chất bảo vệ
thực vật, phân bón hoá học ngày một tăng khó kiểm soát, ô nhiễm nước do nước
thải, chất thải của các ao nuôi thuỷ sản xả trực tiếp không qua xử lý vào nguồn
nước.
3. Nhiệt độ không khí có xu thế ngày một tăng lên đã được khẳng định. Kịch
bản có thể chấp nhận là đến năm 2070, ở các vùng ven biển có khả năng tăng
thêm +1,5oC, vùng nội địa +2,5oC. Chúng kéo theo lượng tăng bốc thoát hơi
lên khoảng 7,7 ∼ 8,4%, nhu cầu nước tưới tăng lên, lượng dòng chảy nước mặt
sẽ giảm đi tương ứng khi lượng mưa không đổi.
4. ElNino gắn liền với việc gây hạn hán rất nặng nề ở nước ta. Những năm có
ElNino, lượng mưa và lượng dòng chảy trong sông đặc biệt là trong mùa cạn

thường bị giảm mạnh, thậm chí không có dòng chảy như sông Lòng Sông, S.
Lũy…(Bình Thuận), sông LrongBuk (Daklak), sông Hà Thanh (Bình Định)…
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×