Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Truyện ngắn quế hương nhìn từ thi pháp thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 129 trang )

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

NGUYỄN THỊ THẢO

TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG
NHÌN TỪ THI PHÁP THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8220121

BÌNH DƯƠNG – 2020


UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

NGUYỄN THỊ THẢO

TRUYỆN NGẮN QUẾ HƯƠNG
NHÌN TỪ THI PHÁP THỂ LOẠI

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ KIM TIẾN


BÌNH DƯƠNG - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ Truyện ngắn Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại là cơng
trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Kim Tiến. Các số
liệu và tài liệu tôi sử dụng trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Bình Dương, ngày 25 tháng 4 năm 2020
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thảo

i


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình học tập và hồn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng
dẫn, giúp đỡ quý báu của quý thầy cô, anh chị, bạn bè cùng gia đình. Với lịng kính
trọng sâu sắc, tơi xin chân thành cảm ơn:
TS. Nguyễn Thị Kim Tiến, người đã trực tiếp, nhiệt tình chỉ dẫn, giúp đỡ,
khuyến khích tơi hồn thành luận văn này.
Ban giám hiệu, Phịng sau Đại học, Chương trình Ngữ văn - Khoa KHXH&NV,
Trường Đại học Thủ Dầu Một, đã tạo các điều kiện cho chúng tôi được học tập và
làm luận văn một cách thuận lợi.
Ban Giám hiệu, tổ Ngữ văn Trường THCS - THPT Minh Hịa, huyện Dầu
Tiếng, tỉnh Bình Dương - nơi tôi công tác, đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt thời gian
và cơng việc trong q trình tơi học tập và thực hiện luận văn.
Thầy Võ Anh Tuấn, giáo viên Ngữ Văn trường THPT Bưng Riềng, huyện
Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm tài liệu,
phục vụ quá trình làm luận văn.

Gia đình, bạn bè - những người đã động viên tơi học tập, làm việc và hồn
thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Bình Dương, ngày 25 tháng 4 năm 2020
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thảo

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................5
4. Đóng góp của đề tài .............................................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn ................................................................5
6. Cấu trúc của luận văn...........................................................................................6
Chương 1. THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VÀ TÁC GIẢ QUẾ HƯƠNG ..............7
1.1.Thi pháp truyện ngắn ..........................................................................................7
1.1.1. Khái lược về truyện ngắn ...............................................................................7
1.1.2. Về thi pháp và thi pháp truyện ngắn ............................................................15
1.2. Vị trí truyện ngắn Quế Hương trong dịng chảy văn học đương đại Việt
Nam .......................................................................................................................21
1.2.1. Cuộc đời và văn chương của Quế Hương....................................................21
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Quế Hương ..........24
1.2.3. Vị trí truyện ngắn Quế Hương với các tác giả nữ cùng thời .......................27

Chương 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ
HƯƠNG ....................................................................................................................32
2.1. Kiểu nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương ...............................................32
2.1.1 Nhân vật đời thường .....................................................................................32
2.1.2. Nhân vật tâm linh .........................................................................................41
2.1.3. Nhân vật loài vật, đồ vật ..............................................................................46
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương....................50
2.2.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình ..............................................................50
2.2.2. Xây dựng nhân vật qua nội tâm ...................................................................55
iii


2.2.3. Xây dựng nhân vật qua tiếp nhận “lí thuyết trò chơi” .................................59
2.2.4. Xây dựng nhân vật theo lối vật hóa .............................................................65
Chương 3. PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN QUẾ
HƯƠNG ....................................................................................................................69
3.1. Khơng gian nghệ thuật......................................................................................69
3.1.1. Khơng gian cổ tích .......................................................................................69
3.1.2. Không gian tâm linh ....................................................................................72
3.2. Thời gian nghệ thuật .........................................................................................75
3.2.1. Thời gian đồng hiện .....................................................................................75
3.2.2. Thời gian vĩnh cửu .......................................................................................77
3.3. Ngôn ngữ............................................................................................................79
3.3.1. Ngôn ngữ đời thường đậm chất địa phương ................................................79
3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất thơ................................................................................81
3.3.3. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm ....................................................84
3.4. Giọng điệu ..........................................................................................................87
3.4.1.Giọng điệu khắc khoải, lo âu ........................................................................87
3.4.2. Giọng điệu trải nghiệm, suy ngẫm ...............................................................91
3.4.3 Giọng điệu trong sáng, nhẹ nhàng ................................................................93

3.5. Phương thức tổ chức kết cấu ............................................................................95
3.5.1. Nghệ thuật tổ chức kết cấu ..........................................................................95
3.5.2. Nghệ thuật xây dựng chi tiết ..................................................................... 102
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 116

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn, văn học đều mang
những đặc điểm riêng để hoàn thành sứ mệnh của nó. Cùng với sự biến chuyển của
xã hội, văn học ngày càng phát triển và đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ. Nền
văn học sau đổi mới với một đội ngũ nhà văn vô cùng đông đảo. Mỗi nhà văn, mỗi
người một vẻ, mỗi người một phong cách đã hòa chung và làm nên sự phong phú và
đa dạng của nền văn học Việt Nam hiện nay. Chúng ta có thể kể đến thế hệ tiên phong
- đội ngũ những người viết truyện ngắn đương đại với những cây đại thụ như: Nguyễn
Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Dậu, Vũ Bão, Nguyễn Kiên...
Điểm nổi trội của các nhà văn gạo cội này là, họ đã có ý thức đổi mới ngịi bút của
mình để những đứa con tinh thần của mình bắt kịp với những biến chuyển của thời
cuộc. Sau thời kì này là sự xuất hiện của những nhà văn có sự bứt phá trong cách viết:
Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Thái, Ngô Tự Lập, Sương Nguyệt Minh, Phan Triều
Hải... Truyện ngắn của các nhà văn này là tiếng nói của một thế hệ đã thật sự có những
bước chuyển mạnh mẽ trong tư duy với những khám phá sâu hơn về đời sống con
người và cuộc sống với cái nhìn đa diện, đa thanh mới về hiện thực và con người.
Tiếp bước thế hệ của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái là những cây bút cá
tính ở thế hệ 7X, 8X như Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Vĩnh
Nguyên, Vũ Đình Giang, Phan Việt... và một số gương mặt mới. Những gương mặt

này đầy cá tính với chất văn lạ, thể hiện qua những đứa con tinh thần gây được tiếng
vang trên văn đàn.
Bên cạnh những nhà văn viết truyện ngắn đương đại nam nổi bật, không thể
không nhắc đến đội ngũ nhà văn nữ vừa đông đảo, vừa cá tính từ sau đổi mới. Đó là
những gương mặt tạo nên dấu ấn đậm nét, không thể nhầm lẫn. Từ đó đội ngũ nhà
văn nữ này đã tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi với những cây bút như Đoàn Lê,
Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh,
1


Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Lý
Lan… và gần đây là Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp, Di Li, Nguyễn
Quỳnh Trang, Nguyễn Thị Cẩm, Từ Nữ Triệu Vương, Cấn Vân Khánh, Niê Thanh
Mai, Ái Duy... và trong đó có cả Quế Hương. Mỗi nhà văn một sắc điệu thẩm mỹ,
một lối đi riêng và chính điều đó đã tạo nên sự đa sắc cho nền văn học đương đại.
Trong các nhà văn nữ đầy sắc sảo và cá tính, tơi đặc biệt chú ý đến Quế Hương,
một nhà văn của xứ Huế với giọng văn đầy chất thơ chất chứa những nỗi buồn nặng
trĩu nhưng đã tái hiện đầy đủ, sinh động và chân thật về cuộc sống của con người với
tất cả các cung bậc cảm xúc, với những khát vọng của con người vô cùng mãnh liệt.
Quế Hương từng viết tản văn, làm thơ nhưng tài năng của Quế Hương được biết đến
trên văn đàn với thể loại truyện ngắn và có những truyện ngắn của bà đã được chuyển
thể thành phim như truyện Một cuộc đua, Phố Hoài.
Đọc truyện ngắn của Quế Hương để thấy được cái quen mà lạ trong quan niệm
nghệ thuật về con người của bà đến cách xây dựng một thế giới nhân vật đa dạng và
sống động, ở đó khơng chỉ có con người mà có cả con vật, có cả những đồ vật vô tri
vô giác như những con búp bê, những viên gạch đá, những mảng rêu phơi cũ kĩ...
Khơng những thế, truyện ngắn của Quế Hương cịn đặc biệt trong cách tổ chức cốt
truyện với những truyện ngắn truyện lồng trong truyện, ngôn ngữ mang hơi thở Huế
- Quảng Nam - Đà Nẵng đậm chất trữ tình, triết lí mà nên thơ. Có những truyện ngắn
liên văn bản, có truyện mang yếu tố tâm linh, những hình ảnh mang tính biểu tượng

và ngồi ra truyện ngắn của Quế Hương chứa đựng bề sâu văn hóa xứ Huế, vùng đất
cố đơ trầm mặc cổ kính với những món ăn, con đường, khúc hát, câu ngâm, bản đàn...
và đặc biệt là những cơn mưa rất Huế. Cơn mưa là chất xúc tác, là cảm hứng cho bà
và cho chính nhân vật của bà những trải nghiệm, trăn trở, suy tư để trang viết của bà
trở nên sâu hơn, nặng hơn, chạm khắc sâu hơn vào độc giả, để lại trong lòng độc giả
những dư âm, cùng với Quế Hương trăn trở về kiếp nhân sinh, từ đó hướng đến những
giá trị nhân văn cao đẹp. Không chỉ thế, qua những truyện ngắn của mình, Quế Hương
cịn bộc lộ sự xót xa trước sự xuống cấp của đạo đức con người, sự tàn lụi dần của các
2


di sản dân tộc như văn hóa Chăm với các tháp Chàm đổ nát, phố cổ Hội An, Lăng tẩm
Huế... Chính vì thế, truyện ngắn của Quế Hương là một vùng đất tuy đã mang dấu
chân người khám phá nhưng vẫn ẩn chứa nhiều điều mới lạ để cho chúng ta khai thác
để nghiên cứu.
Tuy nhiên, đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện về
truyện ngắn Quế Hương dưới góc nhìn thi pháp thể loại. Chính vì vậy chúng tơi chọn
đề tài Truyện ngắn Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại nhằm nghiên cứu một cách
toàn diện những đặc điểm về thi pháp thể loại truyện ngắn trong sáng tác của Quế
Hương. Qua đó thấy được sự đóng góp của nữ nhà văn trong nền văn học đương đại,
một tiếng nói của một nhà văn nữ đầy cá tính nhưng khơng kém phần dịu dàng, cẩn
trọng và đằm thắm được gói gọn trong một thể loại cho thấy sức sáng tạo ở lối viết
của bà - truyện ngắn.
2. Lịch sử vấn đề
Quế Hương là một trong những gương mặt khá mới của nền văn học Việt Nam
đương đại nhưng mang một giọng văn rất riêng. Chính vì thế cịn khá ít những nghiên
cứu về truyện ngắn của bà.
Trong các bài nghiên cứu về Quế Hương, nổi bật nhất là cơng trình nghiên cứu
của Võ Anh Tuấn với đề tài Phương thức tự sự trong truyện ngắn Quế Hương. Đây
là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về phương thức tự sự trong

truyện ngắn của Quế Hương ở các phương diện như người kể chuyện và điểm nhìn
trần thuật, cốt truyện và kết cấu tự sự, diễn ngôn nghệ thuật và giọng điệu trần thuật
trong truyện ngắn Quế Hương. Bên cạnh đó, là bài viết mang tính cảm nhận về đề tài,
giá trị hiện thực và nhân văn trong các truyện ngắn Quế Hương với Đọc 27 truyện
ngắn của Quế Hương (Nguyễn Phúc Vĩnh Ba). Bài nghiên cứu khoa học Tình yêu và
hoài niệm xứ Huế trong truyện ngắn Quế Hương của Lê Thị Minh Hiền, đăng trên
Tạp chí khoa học, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012. Bài viết đề cập đến các cung
bậc tình yêu, với những khám phá về số phận con người và các giá trị văn hóa tinh
thần của Xứ Huế trong truyện ngắn của Quế Hương; Truyện ngắn Quế Hương - Thế
3


giới của những “nỗi buồn rực rỡ” của Lê Thị Hường được đăng trên Tạp chí Non
nước số 190, tháng 9 năm 2013 đã đề cập đến đề tài trong truyện ngắn Quế Hương.
Đó là thế giới của những cuộc đời khơng hồn hảo, qua đó đề cập đến những vấn đề
mang tính chất triết lí của cuộc sống. Ngồi ra bài viết còn đề cập đến thiên nhiên
trong truyện Quế Hương, là một thiên nhiên mang tính tâm linh, thanh khiết và đẹp
đẽ. Cũng trong bài viết này đã nhắc dấu ấn hậu hiện đại trong truyện ngắn của Quế
Hương, đó là yếu tố liên văn bản; Chất trữ tình trong truyện ngắn Quế Hương của
Nguyễn Thị Ngọc Giang, Trường THPT Đào Duy Từ, Quảng Bình đã thể hiện một
cái nhìn về giọng văn đầy chất thơ và chan chứa tình cảm trong truyện ngắn của Quế
Hương; Trong chuyên luận Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, tác giả
Bùi Thanh Truyền bàn về yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Bức tranh thiếu nữ áo lục
với những yếu tố như thời gian kì ảo, tình huống kỳ ảo. Trong bài nghiên cứu Biểu
tượng nước trong truyện ngắn của Quế Hương được đăng trên Tạp chí Khoa học của
Trường Đại học Văn Hiến ngày 4 tháng 7 năm 2016, Võ Anh Tuấn đã đi sâu khai thác
biểu tượng nước chứa đựng nhiều ý nghĩa trong truyện ngắn của Quế Hương. Nước
không chỉ là sự phiêu dạt của cõi người, nước còn làn sức mạnh thanh tẩy, tái sinh, là
bi kịch tình u mn thuở, là khát vọng của sự kiếm tìm và hơn hết, nước thể hiện
một thiên tính nữ đằm sâu; Với bài Dấu ấn địa phương trong truyện ngắn của Quế

Hương được đăng trên Tạp chí Non Nước tháng 8/2018 cũng được viết bởi Võ Anh
Tuấn, người viết đã làm rõ được chất Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng với những giá trị
văn hóa khơng thể trộn lẫn với bất kì một địa phương nào.
Nhìn chung, các bài nghiên cứu trên đã phần nào đề cập đến khía cạnh nội dung
cũng như nghệ thuật trong một số truyện ngắn của Quế Hương, tuy nhiên với dung
lượng một bài báo khoa học và phạm vi nghiên cứu của đề tài nên các bài viết và cơng
trình nghiên cứu chỉ đi sâu vào nghiên cứu về một khía cạnh nổi bật trong truyện ngắn
của Quế Hương. Chính vì thế chúng tơi đã mạnh dạn chọn đề tài Truyện ngắn Quế
Hương nhìn từ thi pháp thể loại với tinh thần mong muốn đóng góp một cái nhìn toàn
diện để làm hoàn thiện hơn việc nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn của Quế Hương.
4


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Truyện ngắn của Quế Hương nhìn từ thi pháp thể loại: tiếp cận ở thể loại truyện
ngắn cụ thể ở các phương diện thi pháp: nhân vật, không gian, ngôn ngữ, giọng điệu,
kết cấu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành khảo sát 51 truyện ngắn của Quế Hương
ở những tập truyện sau:
27 truyện ngắn Quế Hương, Nxb Phụ nữ, 2004.
Chiếc vé vào cổng thiên đường xanh, Nxb Trẻ, 2009.
Nước mắt hạt bụi, NXB Trẻ, 2018.
4. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống những đặc điểm thi
pháp truyện ngắn của Quế Hương về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật, qua
đó thấy được phong cách truyện ngắn của Quế Hương.
Khẳng định những đóng góp của Quế Hương ở thể loại truyện ngắn trong tiến
trình phát triển của nền văn học đương đại Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Xuất phát từ đặc điểm nghiên cứu, mục đích và ý nghĩa nghiên cứu, chúng tơi
kết hợp sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
5.1. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Đây là phương pháp sử dụng những đặc điểm nội dung và nghệ thuật của một
thể loại cụ thể - truyện ngắn để quy ứng vào sáng tác của Quế Hương.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là phương pháp nghiên cứu các tác phẩm của Quế Hương theo từng khía
cạnh để xem xét một cách tồn diện nhất, từ đó đưa ra những kết luận thuyết phục.
5


5.3. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Đây là phương pháp giữ vai trò khung, làm cơ sở quan trọng để người viết kiến
tạo những luận điểm, luận cứ, làm cho bố cục luận văn có tính chặt chẽ, logic, khoa
học.
5.4. Phương pháp loại hình
Phương pháp loại hình giúp chúng tơi tiếp cận đặc điểm truyện ngắn của Quế
Hương theo đặc trưng thể loại.
5.5. Phương pháp
Thiliên
phápngành
truyện ngắn và tác giả Quế Hương.
Sử dụng phương pháp này giúp chúng tơi có thể tiếp cận truyện ngắn Quế
Hương với các lĩnh vực khác như hội họa,văn hóa, lịch sử, âm nhạc…
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Thi pháp truyện ngắn và tác giả Quế Hương.
Trong chương này, luận văn nhấn mạnh ở hai vấn đề: đặc điểm của truyện

ngắn, vấn đề thi pháp, thi pháp truyện ngắn và vị trí truyện ngắn Quế Hương trong
dòng chảy của văn học đương đại Việt Nam. Chương này chúng tơi trình bày dung
lượng có 25 trang.
Chương 2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương. Trọng tâm của
chương này trình bày về thi pháp nhân vật trong truyện ngắn Quế Hương. Chương
này có dung lượng 37 trang.
Chương 3. Phương thức nghệ thuật trong truyện ngắn Quế Hương. Luận văn
trình bày phương thức nghệ thuật trong truyện ngắn Quế Hương ở các phương diện
như: Nghệ thuật tổ chức không gian và thời gian nghệ thuật; ngôn ngữ; giọng điệu và
phương thức tổ chức kết cấu. Chương này chúng tơi trình bày trong dung lượng 45
trang.

6


Chương 1
THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VÀ TÁC GIẢ QUẾ HƯƠNG
1.1. Thi pháp truyện ngắn
1.1.1. Khái lược về truyện ngắn
Trong văn học Việt Nam, các thể ghi chép lại dưới dạng một truyện ngắn xuất
hiện từ rất sớm. Từ Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích qi đến Thánh Tơng di thảo,
Truyền kì mạn lục - những tác phẩm truyện ngắn trung đại đã bắt đầu manh nha. Qua
thời gian, thể loại này càng ngày càng phát triển dưới sự sáng tạo tài hoa của nhà văn.
Nhưng có thể nói, truyện ngắn đơm hoa kết trái, đạt được những thành tựu rực rỡ nhất
và mang nhiều đột phá nhất là ở những thập kỉ vào nửa đầu thế kỉ XX, đặc biệt là từ
năm 1930 trở đi.
Những truyện ngắn của thời kì đầu mang nặng tính quy phạm của văn học trung
đại ở khuynh hướng “văn dĩ tải đạo” và còn mang dấu vết rõ của truyện kí. Đó là quan
niệm về quốc gia dân tộc, gia đình, sứ mệnh, bổn phận cá nhân, là cảm hứng trong
các tác phẩm của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Vấn đề hạnh phúc gia đình, hạnh

phúc cá nhân, sự lựa chọn hạnh phúc trong tầng lớp trung lưu, thượng lưu ở thành thị
cũng được khai thác qua nhiều truyện ngắn nhất là truyện ngắn của nhóm Tự lực văn
đồn. Ngồi ra, những truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn giai đoạn này
cũng phản ánh sức mạnh của đồng tiền, sự suy thối đạo đức, ln thường đạo lí…
Những truyện ngắn trong hai mươi năm đầu thế kỉ XX chưa có sự đột phá bởi chất
liệu đời sống được khai thác thiếu triệt để. Cũng trong giai đoạn này, quan niệm tuyến
tính ở hiền gặp lành, ác giả ác báo chi phối đến kết cấu của nhiều truyện và điều đó
cũng phù hợp với thị hiếu của người đọc đương thời. Song kết cấu đó tưởng như có lí
trong đời sống tâm hồn, phù hợp với mong muốn của người đọc lại phi lí trong đời
sống thực tế bởi khơng phải cuộc sống lúc nào cũng có những cái kết có hậu như thế,
nghệ thuật khơng chỉ vị nghệ thuật mà cịn vị nhân sinh, văn chương phải bắt nguồn
7


từ hiện thực cuộc sống của con người và phải vì con người. Tuy nhiên, bù lại cho
những năm đầu thế kỉ XX, những truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc lại gây được tiếng
vang lớn với tư tưởng chống thực dân, phong kiến, có truyện lại gắn với những sự
kiện lịch sử lớn của đất nước, đả kích thực dân, phong kiến như Thuế máu, Vi hành,
Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu. Những truyện ngắn của Nguyễn Ái
Quốc đã thể hiện một tư duy nghệ thuật mới, một lối tư duy vô cùng hiện đại và sắc
bén.
Sau những năm 1930, nền văn học Việt Nam xuất hiện những cây bút mới,
thổi vào nền văn học Việt Nam một tinh thần mới. Truyện ngắn thời kì này chịu sự
ảnh hưởng của nền văn học thế giới. Nổi bật lên trong thời kì này với dịng văn học
lãng mạn là các tác giả của nhóm Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch
Lam và đặc biệt là Thạch Lam với biệt tài viết truyện ngắn, những truyện ngắn giàu
chất thơ nhẹ nhàng, đằm thắm mà vô cùng sâu sắc. Ở dòng văn học hiện thực phê
phán là truyện ngắn của các tác giả như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngun Hồng,
Tơ Hồi. Nguyễn Cơng Hoan được mệnh danh là bậc thầy truyện ngắn với lối viết
châm biếm thâm thuý như Oẳn-tà-roằn, Thầy cáu… qua đó vẽ nên một bức tranh xã

hội với bao cảnh đời, vui có, buồn có nhưng lại chất chứa bao điều đau đớn suy tư.
Nam Cao cũng là một cây bút tạo được nhiều dấu ấn, một bức tường thành khó ai có
thể vượt qua. Với những trang văn để đời trong những truyện ngắn như Lão Hạc, Chí
Phèo, Đời thừa, Trăng sáng. Được lấy chất liệu từ vùng quê mà Nam Cao đã biết khơi
nguồn và sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật cho tác phẩm trước và sau khó ai bì kịp.
Chính vì thế, khi đọc những trang văn của Nam Cao, N.I.Niculin đã nhận định: “Nam
Cao nổi tiếng ở nước chúng tôi trước hết như một truyện ngắn, một bậc thầy của lối
viết tinh tế” (Phan Cự Đệ, 2006b). Ngồi ra, thời kì này cịn có thể nhắc đến những
cây bút truyện ngắn nổi bật như Tơ Hồi, Vũ Bằng và Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân
tuy xuất hiện khá muộn nhưng đã để lại nhiều dấu ấn qua tập Vang bóng một thời.
Truyện ngắn của Nguyễn Tuân khai thác từ đề tài lịch sử với sự tôn vinh những giá
trị văn hóa truyền thống nhưng đã trở thành quá vãng như: viết câu đối, thả thơ, chơi
8


chữ, uống trà… Qua đó thấy được chất tài hoa kiêu bạc đầy tính nghệ sĩ của Nguyễn
Tuân trong từng thiên truyện ngắn.
Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện lịch sử quan trọng được xem
như một lằn ranh giữa thế kỉ. Chính yếu tố khách quan đó đã chi phối đến mọi hoạt
động văn nghệ kể cả sự phân kì văn học trong đó có truyện ngắn. Từ đầu thế kỉ XX
đến năm 1945, trên bốn thập kỉ phát triển, truyện ngắn Việt Nam đã đạt được những
thành tựu vô cùng rực rỡ và rất đáng trân trọng. Chỉ trên khoảng mười năm phát triển,
truyện ngắn Việt Nam đã đơm hoa kết trái đạt được những thành tựu nhất định. Về
yếu tố chủ quan, trong nền văn học đương thời, các nhà văn đã có ý thức viết truyện
ngắn là cả một nghệ thuật và để thể loại này có chỗ đứng riêng, mỗi người cầm bút
cần phải có trách nhiệm với đứa con tinh thần của mình. Và thực tế đã chứng minh,
có một đội ngũ những nhà văn viết truyện ngắn đông đảo cùng những đứa con tinh
thần thật sự có chất lượng. Khơng những thế, về khách quan, bối cảnh xã hội Việt
Nam những năm 1930 - 1954 với sự phân hóa của nó, những câu chuyện xảy ra được
các nhà văn nắm bắt kịp thời cộng với thể loại truyện ngắn - một hình thức tự sự nhỏ,

linh hoạt đã chiếm được ưu thế trước những thể loại khác. Nội dung tìm được đúng
hình thức để thể hiện, đó là điều kiện cần và đủ để truyện ngắn phát triển lên một tầm
vóc mới. Gần nửa thế kỉ phát triển, truyện ngắn nối tiếp kế thừa tinh hoa truyền thống,
mở cửa tiếp thu thành tựu kinh nghiệm của nước ngoài cộng với nội lực của bản thân,
một hiện thực đa sắc màu đã đưa truyện ngắn vào đúng quỹ đạo của văn chương thời
kì hiện đại và hậu hiện đại.
Cho đến nay, đã có rất nhiều nhà văn, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã bàn
về truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn trong tư cách một thể loại của văn học hiện
đại. Các giáo trình lí luận văn học trong và ngồi nước, các chuyên luận, các bài báo
trên các tạp chí đã dành cho truyện ngắn một sự quan tâm khá đặc biệt. Đơn cử có
cơng trình Lí luận văn học của Gulaiev, Dẫn luận nghiên cứu văn học của Pospelov.
Tuy nhiên để có một định nghĩa chính xác về truyện ngắn thì đó khơng phải là điều
dễ dàng, bởi truyện ngắn là một trong những thể loại văn học có tuổi đời cổ nhất, nó
9


ln trong sự vận động và biến hóa đa dạng. Như cách nói của Juan Bosch, một nhà
văn Trung Mỹ từng nói: “Truyện ngắn là gì? Định nghĩa thế nào là một truyện ngắn
rất khó... Đại để có thể khẳng định truyện ngắn là một sự trình bày một sự kiện nào
đó tương đối đáng chú ý. Cố nhiên, sự kiện có thể chỉ quan trọng tới mức nào đó
nhưng cần được độc giả tin cậy. Nếu làm cơ sở cho truyện chỉ là một trường hợp
chẳng mấy có ý nghĩa, nó chỉ là một phác thảo ghi lại một sự kiện đã xảy ra mà không
phải là một truyện ngắn” (Dẫn theo Phan Cự Đệ, 2006b). Đồng tình với ý kiến đó,
theo Phan Cự Đệ, điều quan trọng nhất của truyện ngắn là sự kiện - sự kiện có ý nghĩa
và để làm nổi bật sự kiện, làm rõ chủ đề thì cần có kĩ thuật viết truyện. Kĩ thuật viết
truyện nằm ở khả năng phát hiện ra sự kiện - sự kiện trung tâm, sự kiện thật đắc địa.
Và cũng như Juan Bosch nói, truyện ngắn khơng có chỗ cho sự dài dòng thừa thãi, sự
lỏng lẻo bởi “trong các thể loại văn học nói chung, truyện ngắn đóng vai trị như vai
trị của hổ báo trong đại gia đình các lồi vật. Ở lồi thú dữ này, khơng được có chút
mỡ thừa dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không thể săn mồi được. Người viết

truyện phải có tâm lý của hổ báo là ln ln tấn cơng người đọc, lại phải có khả năng
đánh hơi của lồi thú dữ đó, để tìm ra chủ đề và tính xem đến khoảng nào thì cần lao
vào con mồi, dùng sức thế nào thì vừa…” (Dẫn theo Phan Cự Đệ, 2006b). Vậy điều
quan trọng nhất của truyện ngắn là nằm ở sự kiện và kĩ thuật, kĩ thuật nhìn được điểm
rơi của sự kiện, từ đó làm nổi bật được chủ đề.
Với A.Tolstoi, nhà văn Nga nổi tiếng, ông coi điều quan trọng nhất của truyện
ngắn nằm ở cốt truyện và phải tìm cho được cốt truyện “đơi khi chỉ xảy ra trong chốc
lát một vài giây thôi, nhưng giống như một thứ thuốc đạm bạc, những cốt truyện hay
có khả năng khiến cho những tư tưởng, những quan sát và những hiểu biết đang chồng
chất hỗn loạn bỗng hiện ra thành có lớp lang rành mạch” (Vương Trí Nhàn, 2001).
Đồng thời, với ơng, truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật khó viết bậc nhất vì nếu
như với các tác phẩm có dung lượng lớn, tác giả có thể bày ra cho độc giả những món
ngon có sẵn từ ngơn từ, nhân vật, sự kiện. Cịn truyện ngắn, tất cả như “trong bàn tay
anh”, nhỏ nhắn, vừa vặn, vừa đủ nhưng giống như những đường chỉ tay, hoa tay lại
10


ẩn chứa cả một cuộc đời và với kĩ thuật tưởng dễ mà khó, ơng khẳng định “truyện
ngắn là một trường học tốt nhất đối với các nhà văn” (Vương Trí Nhàn, 2001).
Sikovani cũng đồng ý với A.Tolstoi, ơng nói, khơng thể có truyện ngắn nếu thiếu cốt
truyện, những tác phẩm khơng có cốt truyện suy cho cùng chỉ là một thứ phác thảo,
ghi chép giống như những câu chuyện kể đơn thuần.
K.Paustovski, theo ông “truyện ngắn là một truyện viết rất ngắn gọn, trong đó,
cái khơng bình thường hiện ra như một cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện
ra như một cái gì khơng bình thường” (Vương Trí Nhàn, 2001). Theo U.Xaroyan, một
nhà văn Mỹ khi nói về truyện ngắn, ơng cho truyện ngắn là một cái gì đó thật khơng
cùng khơng có điểm dừng, truyện có thể kết thúc nhưng vĩ thanh của nó cịn âm vang
mãi bởi ông xem “Truyện ngắn là một thể tài văn học sinh ra một cách tự nhiên từ
những câu chuyện hằng ngày, những câu đùa, những lời trêu chọc giữa người nọ người
kia. Nó hết sức dẻo dai để thích hợp với mọi biến động trong cảm hứng cũng tức là

tải được mọi sắc thái tài năng của người kể chuyện” (Dẫn theo Vương Trí Nhàn,
2001).
Trong Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa về truyện ngắn như sau: “Theo
nghĩa đen, từ truyện ngắn trong tiếng Việt đã nói lên quy định hình thức đối với khối
lượng tác phẩm: là truyện nhưng các truyện đó phải ngắn. Trong tiếng Anh, từ short
story cũng có nghĩa gốc như vậy. Tuy nhiên ở một số nước, truyện ngắn còn được gọi
với tên novella (một câu chuyện đang diễn ra - Gớt). Vậy nên có một số ý kiến cho
rằng ý nghĩa chính của tên gọi truyện ngắn khơng phải nhìn vào khối lượng ngắn mà
vào nội dung của câu chuyện” (Lê Bá Hán, 2004). Giáo trình Lí luận văn học của
nhóm tác giả Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xn Nam đã bàn luận đến truyện
ngắn với tư cách của một thể loại quan trọng của tự sự. Bên cạnh đó cịn có giáo trình
Lí luận văn học của Hà Minh Đức, các cơng trình nghiên cứu của Phan Cự Đệ. Các
cuốn Từ điển văn học, Từ điển thuật ngữ văn học, 150 thuật ngữ văn học… đã chú ý
đề cập tới khái niệm truyện ngắn và cố gắng nêu ra các khía cạnh của truyện ngắn trên
những biểu hiện khái quát nhất để giúp người đọc tiếp cận thể loại dễ dàng hơn. Trong
11


Từ điển thuật ngữ văn học, truyện ngắn được định nghĩa “là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ.
Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống:
đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó lại là ngắn. Truyện ngắn viết ra để
tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi khơng ngừng nghỉ”. Cùng với những cơng trình
lí luận nghiên cứu về truyện ngắn là những định nghĩa hay cách hiểu của một số nhà
văn đương thời về thể loại này. Với Nguyễn Quang Sáng, “viết truyện ngắn tức là
chơi bố cục… theo tôi quan niệm truyện ngắn phải có “chuyện” tức là có thể kể lại
cho người khác nghe được. Mà muốn kể, câu chuyện phải chặt chẽ, hấp dẫn. Yêu cầu
bố cục đặt ra từ đấy. Học các nhà văn nước ngoài, truyện ngắn nước ngoài, cũng trông
vào bố cục. Như Mopatxang. Hoặc như truyện ngắn Nga. Tồn là bố cục khiếp cả”
(Vương Trí Nhàn, 2001). Theo Nguyễn Kiên, truyện ngắn “là một trường hợp... trong
quan hệ giữa con người và đời sống có những khoảnh khắc nào đó được bộc lộ. Truyện

ngắn phải nắm bắt được cái trường hợp ấy. Trường hợp ở đây là một màn kịch chớp
nhống, có khi chỉ là một trạng thái tâm lí, một biến chuyển tình cảm kéo dài trong
nhiều ngày. Nhưng nhìn chung thì vẫn có thể gọi là một trường hợp” (Dẫn theo Bùi
Việt Thắng, 2011). Theo Bùi Hiển, “truyện ngắn lấy một khoảnh khắc trong cuộc đời
một con người mà dựng lên. Có khi nhân vật đứng trước một vấn đề phải băn khoăn
suy nghĩ, lựa chọn, quyết định. Có khi chỉ là một cảnh sống và làm việc bình thường,
trong đó nhân vật bộc lộ ý chí, tình cảm của mình. Có khi có những hành động mãnh
liệt, những tình tiết éo le. Có khi chỉ là một tâm trạng, một nỗi buồn vui, một mối tình
chớm nở. Nhưng phải chọn khoảnh khắc mà nhân vật thể hiện đầy đủ nhất” (Vương
Trí Nhàn, 2001). Vậy đối với Bùi Hiển, cái quan trọng nhất của truyện ngắn là nắm
bắt được khoảnh khắc, khoảnh khắc đó chính là hồn cảnh có điều kiện để nhân vật
được bung tỏa, được sống và bộc lộ hết mình, và khoảnh khắc đó hệt như cái thần, cái
nhãn tự của một bài thơ vậy.
Tuy nhiên, “dung lượng của truyện ngắn không phải là điều kiện duy nhất để
phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự khác. Trong văn học dân gian có các thể
loại truyện cổ tích, truyện cười rất ngắn gọn nhưng không phải là truyện ngắn, hay ở
12


văn học trung đại, có những truyện ngắn nhưng cũng gần với truyện vừa” (Dẫn theo
Phan Cự Đệ, 2006b). Ở nền văn học hiện đại, có những truyện rất ngắn nhưng thực ra
đó là những truyện dài được viết lại. Khi nói về truyện ngắn người ta hay đặt nó bên
cạnh tiểu thuyết, đối sánh nó với tiểu thuyết, thậm chí cịn coi truyện ngắn là một
nhánh của tiểu thuyết. Tuy nhiên, truyện ngắn với những khối lượng tác phẩm đồ sộ
và theo như cách nói của nhà văn Tơ Hồi, truyện ngắn là một “thể loại có tính chiến
đấu mạnh” nên nó vẫn có chỗ đứng riêng và vẫn mang những đặc trưng khu biệt của
một thể loại văn học. Hay như cách nói của nhà văn Nguyên Ngọc “có thể nói hiểu
theo một nghĩa nào đó thì truyện ngắn cịn “văn học” hơn cả tiểu thuyết. Tơi nhắc lại:
hiểu theo một nghĩa nào đó. Truyện ngắn mang rất rõ cái chất của từng người viết,
nhất là cái quả quyết đột ngột. Mà truyện ngắn cũng là điều kiện rất tốt để mỗi nhà

văn đi vào những chủ đề mình từng theo đuổi” (Vương Trí Nhàn, 2001). Điều kiện
cần và đủ của tiểu thuyết là dài và phản ánh rộng còn truyện ngắn là ở chiều sâu, dung
lượng ngắn nhưng phải có chiều sâu, nhiệm vụ của truyện ngắn là phải chắt lọc những
gì tinh túy nhất từ đời sống, phải tìm được cái sâu trong cái rộng, tìm ra những nét
khái quát từ những khía cạnh thăng hoa của nó.
Đã từng dịch rất nhiều truyện ngắn trên thế giới sang Tiếng Việt và nghiên
cứu truyện ngắn, Lê Huy Bắc đã tìm hiểu rất cơng phu và cung cấp cho người đọc rất
nhiều tri thức truyện ngắn: về khái niệm, về lịch sử phát triển thể loại, về truyện ngắn
các khu vực và tác giả tiêu biểu của các khu vực ấy thơng qua Truyện ngắn lí luận tác
giả và tác phẩm. Là một người đã có q trình theo sát truyện ngắn cùng với các chặng
đường phát triển của thể loại, Bùi Việt Thắng đã khái quát lại quá trình lịch sử, đặc
điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam qua cuốn chuyên luận Truyện ngắn những vấn
đề lý thuyết và thực tiễn thể loại. Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến cuốn Những vấn
đề thi pháp của truyện của Nguyễn Thái Hòa. Một số tác giả tỏ ra kì cơng trong việc
biên soạn lại những bài viết nêu quan điểm về truyện ngắn của bản thân cũng như của
giới cầm bút, của các nhà nghiên cứu, các nhà kinh điển trên thế giới… để làm phong
phú thêm sự hiểu biết về thể loại. Chúng ta phải kể đến Sổ tay truyện ngắn do Vương
13


Trí Nhàn biên soạn, Giáo trình sáng tác truyện ngắn của Văn Giá, Sổ tay viết văn của
Tơ Hồi, Tác phẩm và thể loại văn học của Huỳnh Như Phương. Bên cạnh đó, nhà
văn Tạ Duy Anh cũng biên soạn cuốn Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí nhằm hướng
bạn đọc đến những đặc điểm nổi bật nhất của thể loại và phân biệt nó với các thể loại
khác, cuốn sách cũng là một tài liệu giúp cho những ai đang bắt đầu viết truyện ngắn,
giúp họ có cái nhìn toàn diện hơn về thể loại.
Định nghĩa về riêng truyện ngắn đã khó, vậy nên càng khơng thể có một định
nghĩa truyện ngắn bao gồm cho tất cả các thể loại: truyện ngắn hiện thực, truyện ngắn
lãng mạn, truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn hậu hiện đại, truyện ngắn hiện sinh. Có
người cho rằng nếu lấy một định nghĩa chung nhất về truyện ngắn hiện đại: là thể loại

hư cấu viết bằng văn xuôi, kết cấu chặt chẽ, chỉ là một lát cắt từ hiện thực, ít nhân vật,
cốt truyện đơn giản, đọc liền mạch, là tình cảm thương xót, đau đớn hoặc đả kích
châm biếm áp dụng tất cả điều đó để khai thác bất kì một truyện nào như đã kể ở trên
thì e rằng chưa thể khai thác hết kĩ thuật viết và độ sâu của nó.
Nhìn chung, các nhà lý luận văn học và các nhà văn đều đưa ra rất nhiều định
nghĩa về truyện ngắn. Họ có thể nhìn và định nghĩa truyện ngắn căn cứ vào phương
diện hình thức và nội dung của truyện ngắn; căn cứ vào hình thức và chức năng thể
loại hoặc kết hợp giữa cấu trúc đặc trưng với chủ đề đặc trưng. Phan Cự Đệ tổng hợp
theo hai nhóm định nghĩa về truyện ngắn, đó là nhóm theo phương pháp diễn dịch và
nhóm theo phương pháp quy nạp. Theo phương pháp diễn dịch, người ta căn cứ vào
nội dung hoặc căn cứ vào hình thức của thể loại. Theo nhóm này có J.Goethe,
K.Pauxtopxki, Frank O’Connor, Edgad Allan Poe… Những định nghĩa về truyện ngắn
theo phương pháp diễn dịch chỉ căn cứ vào một đặc điểm duy nhất như truyện ngắn
là một lát cắt của cuộc sống, truyện ngắn là một tình huống, một trường hợp, truyện
ngắn nhằm một hiệu quả duy nhất. Những định nghĩa này giúp chúng ta hiểu thêm và
truyện ngắn nhưng nó khơng thể bao qt hết được những đặc trưng của truyện ngắn
hiện đại bởi có những truyện ngắn miêu tả tồn bộ cuộc đời của một con người chứ
không phải ở một giai đoạn như truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Phiên
14


chợ Giát của Nguyễn Minh Châu hay Người trong bao của A.Sekhop. Theo ơng,
những định nghĩa này đều có “hạt nhân duy lý” mà mỗi người đọc cần phải lĩnh hội
để thấy được sự đa dạng của truyện ngắn và dựa trên những định nghĩa đó, người đọc
có cái nhìn tổng quát hơn và có thể tổng hợp thành một định nghĩa có sức bao quát và
thuyết phục được nhiều người hơn. Tuy nhiên không thể đi đến một khẳng định sẽ có
một định nghĩa hồn chỉnh về truyện ngắn trong thời kì hiện đại và hậu hiện đại.
Truyện ngắn hiện đại đúng với tên gọi của nó, nó mang một hơi thở mới theo
lối tư duy hiện đại, nó nhanh chóng bắt kịp với các xu thế của thế giới. Chính vì thế
truyện ngắn ln mới trong cách nhìn cuộc đời, đa thanh và đa diện hơn, truyện ngắn

nắm bắt cuộc sống theo một lối rất riêng đúng với bản chất thể loại của nó. Nói như
nhà văn Vũ Thị Thường: “viết truyện dài như làm một căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết
truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm tranh khắc gỗ. Ở truyện
dài, có thể có những chương “độn”, nhưng ở truyện ngắn, chỉ cần viết một nửa trang
lỏng lẻo là truyện đổ liền. Những chi tiết hay đến mấy đi chăng nữa mà khơng phục
vụ chủ đề thì cũng trở nên vơ ích” (Dẫn theo Vương Trí Nhàn, 2001).
1.1.2. Về thi pháp và thi pháp truyện ngắn
Thi pháp học và thi pháp còn được dịch là thi học. Khái niệm thi pháp đã có từ
lâu trong văn học, nó được bắt nguồn từ đất nước Hi Lạp. Ở Việt Nam, khái niệm thi
pháp ban đầu được biết đến với tên gọi “bàn về nghệ thuật thơ ca” hoặc “nghệ thuật
thơ ca” dịch từ tiếng Latinh, sau đó có người dịch ngắn gọn hơn là “thi học”. Cách
dịch này được bắt nguồn từ cơng trình Poietika của Aristote.
Có rất nhiều định nghĩa về khái niệm thi pháp. Theo Viện sĩ Nga
S.S.Averinsev, thi pháp là “hệ thống nguyên tắc sáng tạo của một tác giả, một trường
phái, hay cả một thời đại văn học, tức là những gì mà bất kì nhà văn nào cũng sáng
tạo ra cho mình bất kể là có ý thức tự giác hay khơng” (Dẫn theo Trần Đình Sử, 2017).
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức
là hệ thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình
tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ
15


thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ
thuật, ấn tượng thẩm mỹ và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật” (Lê Bá Hán,
2009). Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học văn học: “Thi pháp là hệ thống các
nguyên tắc, hình thức sáng tạo và biểu đạt nghệ thuật của văn học. Thi pháp học là
khoa học nghiên cứu các hệ thống nguyên tắc, hình thức ấy trong việc thể hiện bản
chất, đặc trưng của văn học lẫn các hình thái lịch sử cụ thể của chúng qua các giai
đoạn phát triển của văn học, các thể loại, các tác phẩm và các cá tính sáng tạo nổi bật”
(Trần Đình Sử, 2017).

“Xét về chỉnh thể văn học mang thi pháp, có thể nói tới thi pháp tác phẩm cụ
thể, thi pháp tác giả, thi pháp một trào lưu, thi pháp văn học của một thời đại, một thời
kì lịch sử, thi pháp văn học của một dân tộc. Xét về phương tiện, phương thức nghệ
thuật đã được chia tách, có thể nói tới thi pháp thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn,
thơ…), thi pháp của phương pháp, thi pháp của phong cách, thi pháp kết cấu, thi pháp
không gian, thi pháp thời gian, thi pháp ngôn ngữ” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi, 2009). Về cách tiếp cận thì thi pháp học có ba phạm vi nghiên cứu: thi pháp
học đại cương (thi pháp học lí thuyết hay như cách gọi dễ hiểu hơn là lí luận văn học),
thi pháp học chuyên biệt và thi pháp học lịch sử. Trong thi pháp học đại cương lại
chia thành ba phương diện: ngữ âm, từ vựng và hình tượng. Thi pháp học đại cương
ra đời nhằm mục đích xây dựng được một hệ thống trọn vẹn các thủ pháp, bao quát
cả ba phương diện trên, từ ngữ âm cho đến hình tượng, tức là từ lớp vỏ ngồi của ngơn
từ cho đến đi sâu vào tầng hình tượng để khám phá chiều sâu của tác phẩm.
Nếu như thi pháp học đại cương mang cái nhìn bao quát thì thi pháp học chuyên
biệt lại tiến hành việc khai thác tất cả các phương diện nói trên của sáng tác văn học.
Đặc biệt là khai thác cách xây dựng hình tượng nghệ thuật (khơng gian nghệ thuật,
thời gian nghệ thuật), hình tượng tác giả, hai phương diện này tạo thành điểm nhìn
nghệ thuật và điểm nhìn nghệ thuật có tác dụng quy định tất cả mọi điều cơ bản của
cấu trúc tác phẩm. Thi pháp học lịch sử nghiên cứu sự tiến hóa của các biện pháp nghệ
thuật cũng như hệ thống các biện pháp ấy bằng phương pháp so sánh lịch sử nhằm
16


vạch ra đặc điểm chung của hệ thống văn học thuộc các nền văn hóa khác nhau, xác
định cội nguồn của chúng cũng như quy luật chung của ý thức văn học nhân loại. Thi
pháp học chuyên biệt và thi pháp học lịch sử cung cấp cho người đoc một bức tranh
tồn cảnh về sự phát triển, biến hóa của các mơ hình và phương tiện nghệ thuật.
Nếu như thi pháp học cổ đại từ Aristote nặng về tính quy phạm thì thi pháp học
hiện đại thiên về sự phát hiện, miêu tả các ngôn ngữ nghệ thuật đang thịnh hành với
sự vận động không ngừng của văn học. Nhưng điều đó cũng khơng thể phủ nhận rằng

chính thi pháp học cổ đại đã tạo một tiền đề, một nền móng vững chắc cho sự ra đời
và phát triển của thi pháp học hiện đại.
Vậy tựu trung lại, khi tiến hành nghiên cứu một chỉnh thể văn học mang thi
pháp, chúng ta có thể nói đến thi pháp tác phẩm, thi pháp tác giả, thi pháp một trào
lưu, một thời đại, hay dài hơn đó là thi pháp ở một thời kì lịch sử, rộng hơn đó là thi
pháp văn học của một dân tộc. Khi đi sâu vào nghiên cứu thi pháp tác phẩm xét từ
khía cạnh các phương tiện, phương thức nghệ thuật, chúng ta có thể nói đến thi pháp
thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch…), thi pháp phương pháp, thi pháp phong cách,
thi pháp kết cấu, thi pháp không gian, thi pháp thời gian hay thi pháp ngôn ngữ. Và
áp dụng vấn đề thi pháp trong nghiên cứu văn học, chúng ta không chỉ khai thác bề
mặt mà cịn có thể đi sâu vào cấu trúc tác phẩm, khám phá được lối tư duy nghệ thuật
cũng như nắm bắt được hệ thống biểu tượng, mã văn hóa nghệ thuật của các tác giả
nói riêng và của cả thời đại văn học nói chung để nâng tầm tác phẩm. Khi đó chính
chúng ta sẽ trở thành thế hệ bạn đọc tinh hoa, biết khai thác và cảm thụ tác phẩm văn
học có chiều sâu nhất.
Nói đến thi pháp truyện ngắn “là nói đến những thủ pháp nghệ thuật thường
được các tác giả sử dụng và được các nhà nghiên cứu đúc kết, coi là quy chuẩn của
thể loại này. Tuy nhiên, trong thực tế sáng tác, mỗi nhà văn lại nhìn nhận những cách
viết đó một cách khác nhau tùy vào quan điểm thẩm mĩ của mình (Phạm Thị Thật,
2009). Chính vì thế, thi pháp truyện ngắn, từ lâu đã được rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình quan tâm đặc biệt: Đơi điều về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu (Tạp chí
17


Văn nghệ Quân đội số 8 - 1981), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại của tác
giả Lê Huy Bắc, Những vấn đề thi pháp của truyện của Nguyễn Thái Hòa, Thi pháp
truyện ngắn của Phan Cự Đệ… Trong rất nhiều bài nghiên cứu và phê bình của những
tác giả đó, mỗi người có một cách thể hiện quan điểm khác nhau, mỗi người chú ý
đến một khía cạnh khác nhau, song đa số họ đều thống nhất ở một số đặc điểm quan
trọng của thể loại truyện ngắn.
Thứ nhất đó là cốt truyện. Cốt truyện đơi khi nó có sẵn trong đời sống thực tế

nhưng khai thác nó ở góc độ nào, tư tưởng, chủ đề nào thì đó lại là cơng việc của nhà
văn. Thơng thường, cốt truyện vẫn là yếu tố được quan tâm nhất, cốt truyện ấy không
chỉ đơn giản là một câu chuyện được kể mà cịn phải mang tính giáo dục, chuyển tải
một bài học tư tưởng, đạo đức. “Phải nói rằng khơng có truyện ngắn nào lại khơng có
cốt truyện” (Kuranop), nhà văn “sống bằng cốt truyên y như họa sĩ sống bằng màu và
bút vẽ vậy” (Dẫn theo Bùi Việt Thắng, 2011). Trong một cốt truyện ẩn giấu, biến hóa,
chủ đề cần phải thu hút được cảm tình của người đọc. “Khuất phục được chủ đề, tạo
được một chủ đề có ấn tượng mạnh, tức khuất phục được người đọc” (Vương Trí
Nhàn, 2001). Chính vì thế, khi sáng tác, các nhà văn phải chú ý đặc biệt đến vai trò
của cốt truyện, xây dựng được cốt truyện của mình càng độc đáo càng tốt. Đồng thời
cốt truyện phải chặt chẽ, mang tính thống nhất. Thường thì sẽ có cốt truyện hành động
và cốt truyện tâm lý và truyện ngắn hiện đại thiên về cốt truyện tâm lý. Tuy nhiên, về
sau này truyện cực ngắn xuất hiện, cốt truyện của nó được tạo thành từ những tình
tiết, những khoảng trắng trong truyện và những yếu tố liên văn bản mà tác giả sử
dụng.
Thứ hai đó là nhân vật, nói đến truyện ngắn không thể không nhắc tới nhân vật.
Nhân vật trong truyện ngắn cũng đa dạng, có nhiều dáng vẻ, nhưng thường ít nhân vật
hơn. Các đặc điểm của nhân vật trong truyện ngắn không phải cùng một lúc được thể
hiện ra một cách đầy đủ mà chắt lọc hơn, người viết chỉ phải lọc được những nét tiêu
biểu nhất, đặc sắc nhất của nhân vật. Nhân vật đóng vai trị then chốt trong tác phẩm
và truyền tải tâm tư nguyện vọng của nhà văn đến người đọc, thể hiện phong cách
18


riêng biệt của nhà văn và thậm chí nhân vật trung tâm đó cịn mang chính bóng dáng
của chính nhà văn đó. Như các tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, các
nhân vật trung tâm của ông dù làm bất cứ nghề nào cũng đều gắn liền với chất nghệ
sĩ, sự tài hoa kiêu bạc của chính ơng. Hay truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
với nhân vật Liên và An đều lấy hình mẫu từ cuộc đời thực là bản thân ông và chị gái
của ông… Hay sau này đến Quế Hương cũng vậy, trong Đôi chân biết khóc là hình

ảnh của chính bà và người mẹ vất vả tần tảo của bà.
Để xây dựng được nhân vật, nhà văn thường xây dựng được những chi tiết đắt
giá xung quanh nhân vật đó. Khơng chỉ thế, chi tiết được xây dựng lên để khắc họa
ngoại hình, tính cách và miêu tả hành động của nhân vật tức là đặt nhân vật vào trong
hồn cảnh có điều kiện để nhân vật bộc lộ toàn bộ bản thân mình. Ví như cái cách mà
Nam Cao miêu tả ngoại hình Chí Phèo khi ra tù đã phác họa được cả bộ mặt tàn ác
của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến đã cướp đi nhân hình lẫn nhân tính của Chí
Phèo. Hay trong truyện Bộ răng vàng của Vũ Trọng Phụng, chi tiết miêu tả hàm răng
bị mất đi của người cha đã chạm đến tận cùng nỗi đau của con người, nỗi đau của một
xã hôi thực dụng, nỗi đau về những người con chạm đến đáy của sự bất hiếu, khốn
nạn đến tận cùng.
Thứ ba, đó là kết cấu. Nếu như cốt truyện thuộc về nội dung thì kết cấu là một
yếu tố thuộc về hình thức. Nhiệm vụ của kết cấu là tổ chức mối quan hệ giữa những
yếu tố trong và ngoài cốt truyện nhằm làm nổi bật chủ đề của tác phẩm và tính cách
của nhân vật. Nguyễn Minh Châu đề cao vai trò của kết cấu trong truyện ngắn; “Cũng
như kịch, truyện ngắn địi hỏi ở người viết một cơng việc tổ chức và cấu trúc truyện
hết sức nghiêm nhặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật tinh xảo - kĩ thuật viết truyện ngắn,
nó cũng giống như kĩ thuât của người làm pháo, dồn nén tư tưởng vào trong một cốt
truyện thật ngắn gọn và tự nhiên” (Nguyễn Minh Châu, 1994).
Thứ tư, đó là cách tạo dựng khoảnh khắc và tình huống truyện. Tình huống cịn
có người gọi là tình thế, cảnh huống. Khoảnh khắc cịn có người gọi là chốc lát.
Khoảnh khắc chính là khoảng thời gian trong cuộc đời mà nhà văn tiếp cận như
19


×