Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 ( nhìn từ góc độ thi pháp thể loại )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.75 KB, 24 trang )


1
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ truyện ngắn phát triển mạnh mẽ
trong điều kiện chiến tranh. Tuy nhiên, hiện nay những công trình nghiên
cứu về truyện ngắn cha nhiều, nhất là trên phơng diện thi pháp thể loại.
Chọn nghiên cứu truyện ngắn từ góc độ thi pháp thể loại, chúng tôi không
cho đây là một cách tiếp cận toàn diện nhng phần nào mở ra một hớng
nghiên cứu mới cho thể loại truyện ngắn thời kỳ này.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1 Tình hình nghiên cứu lý thuyết truyện ngắn.
Đã có rất nhiều tài liệu bàn về khái niệm và đặc trng của truyện
ngắn. Tiêu biểu có thể kể đến ý kiến của Gulaiép, Pospêlốp, Hà Minh Đức,
Nguyễn Công Hoan, Vơng Trí Nhàn, Bùi Việt Thắng Những ý kiến về
truyện ngắn ở các tài liệu nêu trên rất phong phú đa dạng, song về cơ bản
có hai loại:
2.1.1 Nêu ra những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn, từ những vấn
đề mang tính lý luận (nh vai trò, khả năng, phạm vi khám phá, cách thức
chiếm lĩnh đời sống) đến những vấn đề cụ thể (kết cấu, cốt truyện, nhân
vật, ngôn ngữ, chi tiết).
2.1.2 Trình bày kinh nghiệm viết truyện ngắn.
Loại ý kiến này thờng là của các tác giả có nhiều thành công với
truyện ngắn. Để minh họa cho những nhận xét khái quát về thể loại, họ
trình bày lại quá trình viết các tác phẩm và từ đó rút ra kinh nghiệm, bài
học sáng tác.
Loại ý kiến này không trực tiếp phục vụ cho việc giải quyết đề tài,
nhng ít nhiều cũng là những gợi ý cần thiết cho chúng tôi trong quá trình
tìm hiểu các sáng tác cụ thể, phục vụ cho việc khái quát lý thuyết
2.2 Tình hình nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975.
2.2.1 Những công trình nghiên cứu về những vấn đề lý thuyết của


truyện ngắn từ sau Cách mạng tháng Tám đến 1975.
Những bài đánh giá chung về truyện ngắn cha nhiều. Điểm chung
của các bài viết này là đều khẳng định truyện ngắn là một thể loại năng
động, có khả năng thích ứng với cuộc sống thời chiến. Tuy nhiên, các dạng
bài này, trong phạm vi của một bài viết, mới chỉ dừng lại ở một vài khía
cạnh hoặc những nhận xét có tính chất khái lợc.

2
Trong số những công trình nghiên cứu về truyện ngắn giai đoạn này,
phải kể đến luận án Tiến sỹ của Phùng Ngọc Kiếm: Con ngời trong truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Luận án đi sâu nghiên cứu quan
niệm nghệ thuật về con ngời trong truyện ngắn giai đoạn này (bộ phận văn
học cách mạng). Trong đó tác giả đề cập tới một số các vấn đề thi pháp
truyện ngắn nh: cốt truyện, ngôn ngữ, nhân vậtnhằm lý giải sự chi phối
của quan niệm nghệ thuật về con ngời đối với các phơng diện nghệ thuật.
Luận án Tiến sỹ của Nguyễn Khắc Sính: Phong cách thời đại trong
truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 đã tập trung khảo sát sự tác
động, ảnh hởng của thời đại đối với truyện ngắn trên các phơng diện nh
giá trị thẩm mỹ, chất trữ tình, chất hiện thực và quá trình vận động của các
yếu tố này trong truyện ngắn 1945 - 1975.
Các luận án trên ít nhiều đều có sự gặp gỡ với luận án của chúng tôi ở
đối tợng nghiên cứu, xét trên phạm vi rộng là tác giả và tác phẩm. Tuy
nhiên, cha có công trình nào nghiên cứu theo hớng thi pháp thể loại, đi sâu
khám phá truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này trên cơ sở đặc trng thể loại.
2.2.2 Những bài nghiên cứu về tác giả.
Loại bài nghiên cứu về một tác giả xuất hiện tơng đối nhiều, tập
trung ở một số tác giả sáng tác đều đặn và bớc đầu định hình những nét
riêng nh: Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành, Vũ Thị Thờng, Nguyễn
Ngọc Tấn - Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Giang Nam, Phan
Tứ một số luận văn về Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên

Ngọc Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về các tác giả khác nh: Giang
Nam, Phan Tứ, Nguyễn Thi, Nguyễn KhảiĐiểm chung của loạt bài này
là các tác giả thờng cố gắng phát hiện ra những nét riêng của từng tác giả,
tuy không nhiều. Loạt bài này đã giúp chúng tôi khá nhiều trong việc
nghiên cứu các khuynh hớng của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn
1945 - 1975.
2.2.3 Những bài viết về từng tác phẩm.
Loại bài này rất nhiều ở các các báo, tạp chí. Loạt bài này có tác
dụng giúp chúng tôi tìm hiểu sự trởng thành của một tác giả trong sự phát
triển của một thời kỳ nhất định.
3. Đối tợng và giới hạn nghiên cứu.
3.1 Đối tợng khảo sát.
Luận án chọn mốc thời gian từ 1945 đến 1975, vì đây là giai đoạn
đất nớc có chiến tranh, văn học chịu sự chi phối của qui luật chiến tranh.

3
Tuy nhiên, truyện ngắn cha xuất hiện nhiều trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp. Vì vậy, luận án khảo sát chủ yếu là truyện ngắn từ những năm
cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp đến 1975 của những tác giả tiêu
biểu, đã định hình về mặt phong cách.
3.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
3.2.1 Do đối tợng khảo sát tơng đối rộng, cộng thêm sự khó khăn
khi tìm tài liệu, nhất là những truyện ngắn đợc ra đời ở các đô thị miền
Nam thời bị tạm chiếm nên chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo sát ở bộ
phận văn học Cách mạng.
3.2.2 Luận án chỉ giới hạn ở những vấn đề mang tính đặc trng và
đáng quan tâm hơn cả của truyện ngắn 1945 - 1975 nh: cốt truyện, nhân
vật, giọng điệu, ngôn ngữ. Đó là những cấp độ quan trọng của cấu trúc
truyện ngắn, đồng thời là nơi bộc lộ rõ những đặc trng của truyện ngắn
phát triển trong điều kiện chiến tranh.

4. Phơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài "Truyện ngắn Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975 (Nhìn từ góc độ thi pháp thể loại)", luận án sử dụng các
phơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau: phơng pháp loại hình, phơng pháp
tiếp cận thi pháp học, phơng pháp so sánh và phơng pháp xã hội học.
5. Những đóng góp của luận án
4.1 Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của những ngời đi trớc, luận
án cố gắng phác họa một mô hình chung nhất về thi pháp truyện ngắn 1945
- 1975. Qua đó hiểu đợc sự vận động và tiếp nối của thể loại truyện ngắn
qua các giai đoạn.
4.2 Góp phần nhìn lại một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của thể
tài truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại thời kỳ 1945 - 1975
nhằm khẳng định những đóng góp của thể loại này đối với công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
6 Giới thuyết một số khái niệm
7. Cấu trúc của luận án.
Luận án có 198 trang. Ngoài phần mở đầu (12 trang), phần kết luận
(6 trang), phần tài liệu thamkhảo gồm 222 tài liệu (16 trang) và phần phụ
lục: danh mục các tác phẩm đã khảo sát gồm 125 tác phẩm (6 trang)., luận
án đợc chia làm ba chơng (158 trang): Chơng 1: Diện mạo chung của
truyện ngắn 1945 - 1975;
Chơng 2: Hai kiểu cấu trúc thể loại; Chơng 3:
Kết cấu, các loại hình nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ

4
Chơng I
Diện mạo chung của truyện ngắn 1945 - 1975

Đây là chơng chúng tôi trình bày hai vấn đề cơ bản của truyện ngắn
giai đoạn 1945 - 1975:

I. Khả năng bao quát hiện thực rộng lớn.
1. Phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp.
Những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, các nhà văn lớp trớc
nh Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển cha thích nghi đợc
với hoàn cảnh mới nên cha có nhiều sáng tác theo kịp những biến chuyển
to lớn của thời đại. Chỉ có một số truyện ngắn của Nam Cao, Nguyên
Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tởng nh Mò sâm banh, Địa ngục và Lò
lửa, Vỡ tỉnh, Một phút yếu đuổi ít nhiều ghi lại đợc hình ảnh xã hội Việt
Nam trong đêm trớc của cuộc cách mạng và khí thế sục sôi của dân tộc
trong cuộc trở dạ vĩ đại của lịch sử.
Bớc vào cuộc kháng chiến, truyện kí kháng chiến, tuy không nhiều,
đã phản ánh khá trung thực cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện trên các
chiến trờng khác nhau, đồng thời nêu lên sức mạnh vô địch của cuộc
chiến tranh nhân dân dới sự lãnh đạo của Đảng. Ngời nông dân kháng
chiến và anh bộ đội cụ Hồ trở thành nhân vật trung tâm của nhiều truyện
ngắn (Một lần tới Thủ đô của Trần Đăng, Làng, Vợ nhặt của Kim Lân, Đôi
mắt của Nam Cao, Th nhà của Hồ Phơng, Voi đi của Siêu Hải, Con
đờng sống của Minh Lộc, Tây đầu đỏ của Sơn Nam, Bên rừng Cù lao
Dung của Phạm Anh Tài, Cây đớc Cà Mau của Đoàn Giỏi).
2. Phản ánh cuộc đấu tranh thống nhất đất n
ớc.
Sau 1954, hòa bình đợc lập lại trên miền Bắc. ở miền Nam, vẫn đang
trong tình trạng nớc sôi lửa bỏng. Hoàn cảnh ấy đã gây nên sự nhức nhối
trong tình cảm của nhân dân hai miền Nam Bắc và sâu hơn là niềm mong
mỏi thiết tha thống nhất nớc nhà. Tâm t, nguyện vọng ấy đã đợc nhiều
nhà văn quan tâm và tạo thành cảm hứng chủ đạo cho mạch truyện viết về
miền Nam, về cuộc đấu tranh thống nhất nớc nhà (Cây đàn miền Bắc -
Phạm Anh Tài, Lá cờ mình - Nguyễn Văn Tâm, Em bé - Hoàng Minh Châu,
Hai em bé miền Nam - Hoài Vũ, Trung thành - Nguyễn Thành Long)
Trong hoàn cảnh đó, những sáng tác mang màu sắc bi quan, buồn nản

đã xuất hiện (Về nhà- Nguyễn Thành Long; Im lặng - Nguyễn Ngọc Tấn,
Vết thơng - Hải Hồ, Đứa con - Nguyên Ngọc, Sau hai chiến dịch - Minh

5
Giang), Theo thời gian, thứ tâm trạng buồn yếu, bi quan đó ngày càng
bớt đi, thay vào đó là những sáng tác lành mạnh, trong trẻo hớng về miêu
tả hành động, việc làm của những con ngời miền Nam trên đất Bắc. Đáng
chú ý là hai tập truyện Trăng sáng và Đôi bạn của Nguyễn Ngọc Tấn.
3. Phản ánh công cuộc xây dựng chủ nghĩa x hội.
3.1 Về cuộc cách mạng dân chủ.
Song song với đề tài đấu tranh thống nhất nớc nhà, truyện ngắn
miền Bắc cũng cố gắng bám sát dòng chảy của lịch sử với những sự kiện
trung tâm của thời đại nh Cải cách ruộng đất, xây dựng chủ nghĩa xã hội
(Tiếng hát trên đỉnh Hoa Sơn - Mộng Lục, Lớp học vùng cao - Trịnh Ngọc
Khu, Ngời chú dợng - Kim Lân, Lấy nớc ao trời - Huy Phơng, Thôn
Kim đoàn kết làm chiêm - Đăng Tiến). Nhiều truyện đi sâu khai thác cuộc
đời của những nhân vật vốn là nạn nhân của quan hệ sản xuất cũ nay nhờ
cách mạng mà đã tìm thấy niềm vui, hạnh phúc, giá trị cuộc sống của mình
(Cây mít - Nguyễn Công Hoan, Ngời vợ lẽ - Đỗ Quang Tiến, Ông lão
chăn bò trên núi Thắm - Xuân Thu, Đờng cày trên đám ruộng - Đặng
Hữu Phát, Ma đêm - Vũ Giang, Nên vợ nên chồng - Kim Lân, Hai cha
con - Nguyễn Địch Dũng). Nhìn chung, truyện ngắn thời kỳ này đã phản
ánh đợc hiện thực bề bộn, phức tạp hơn so với kháng chiến chống Pháp.
Nhng nhân vật còn đơn giản, cha sinh động, nhiều khi thiếu chân thực.
Do đó những tác phẩm thành công về cuộc Cách mạng dân chủ cha có
nhiều và cũng cha đủ sức v
ợt qua thử thách của thời gian.
3.2 Về cuộc cách mạng x hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng làm thay đổi nhiều
mặt toàn bộ xã hội. Tất cả những thay đổi đó hiện lên khá rõ trên nhiều

truyện ngắn tiêu biểu trong các tập: Hai vợ, Trai làng Quyền (Nguyễn Địch
Dũng), Mùa lạc (Nguyễn Khải), ánh sáng bên hàng xóm (Chu Văn), Quê
hơng (Vũ Tú Nam), Gánh vác (Vũ Thị Thờng), Đồng tháng năm, Vụ
mùa cha gặt (Nguyễn Kiên) Càng về sau, truyện ngắn càng phản ánh
hiện thực phong phú và có chiều sâu hơn. Một số truyện ngắn của Vũ Thị
Thờng, Nguyễn Kiên, Nguyễn Địch Dũng (Câu chuyện xảy ra không
tránh khỏi, Cái lạt, Anh Keng, Nhà chị Nhỡ) đi sâu vào nghiên cứu, tái
hiện cuộc đấu tranh trong nội bộ nhân dân, nhằm làm cho đội ngũ trong
sạnh, vững mạnh hơn. Điều đó chứng tỏ, các tác giả đã hiểu rõ hơn về
ngời nông dân tập thể và không chỉ dừng lại ở mức độ minh họa cho chủ
trơng chính sách. Nhìn chung, mỗi ngời viết trong khả năng của mình

6
đều cố gắng dựng lại những đổi mới cơ bản ở nông thôn, nhằm khẳng định
bớc tiến của cách mạng, của nông thôn trên con đờng xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
4. Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc
Sau những thất bại nặng nề ở miền Nam, ngày 5/ 8/ 1964 Mỹ tiến
hành cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Cả nớc bớc vào cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nớc. Trong tình hình ấy, nhiều nhà văn lên đờng trở
về quê hơng nh Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành
Và họ đã có những sáng tác kịp thời về cuộc chiến đấu của đồng bào miền
Nam (Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Con chị Lộc - Anh Đức, Quán
rợu ngời câm - Nguyễn Quang Sáng, Ngời tị nạn - Vĩnh Hòa, Về làng
của Phan Tứ, Vở kịch cô giáo của Giang Nam, Chiếc guốc xinh xinh của
Thủy Thủ). Đặc biệt, cuộc đối đầu trực tiếp của nhân dân miền Nam với kẻ
thù để giữ ruộng đất đợc nhiều tác giả quan tâm (Giữa vòng vây - Trúc Hà,
Mùa gió, Đất - Anh Đức, Lửa đêm - Phan Tứ, Chuyện bên bờ sông Vàm cỏ -
Lê Văn Thảo, Về làng - Phan Tứ). Có thể nói, truyện ngắn miền Nam đã
phản ánh kịp thời, chân thực về hiện thực cuộc chiến đấu của nhân dân ta.

Nó đã tái hiện lại đợc nhiều kiểu ngời tích cực, nhiều hiện thực đau
thơng nhng rất hào hùng của miền Nam trong chiến tranh.
ở miền Bắc, đề tài đấu tranh chống Mỹ đợc thể hiện với sắc thái
khác: vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội (Những vùng trời khác
nhau - Nguyễn Minh Châu, Quán bên đờng - Nguyễn Thị Ngọc Tú,
Ngời cầm súng - Lê Lựu,
Mùi thơm dây cháy chậm - Cao Tiến Lê).
Chân dung con ngời Việt Nam trong truyện ngắn chống Mỹ đã dần đợc
triển khai qua nhiều bối cảnh, dáng vẻ. Nhng cũng phải nhận thấy rằng, ở
buổi đầu, sự đúc kết cuộc sống vào các chân dung, các điển hình cha phải
đã tốt. Không ít nhân vật còn rất mờ nhạt và thờng là hao hao giống nhau.
II. Một giai đoạn chủ yếu đợc sáng tác theo cảm hứng lãng mạn
và khuynh hớng sử thi.
1. Cảm hứng lng mạn.
1.1 Con ngời lạc quan.
Trong truyện ngắn, cảm hứng lãng mạn đợc thể hiện trớc hết ở việc
xây dựng nhân vật. Để thể hiện bản lĩnh, niềm lạc quan của con ngời Việt
Nam trong chiến đấu, truyện thờng xoay quanh tình huống cơ bản một
bên là ta (ngời cán bộ, chiến sỹ, nhân dân) ở trong tình thế bất lợi và bên
kia là kẻ địch hung bạo, tàn ác, đợc trang bị vũ khí hiện đại. Nhng bằng

7
ý chí, niềm tin, nghị lực bao giờ ta cũng là ngời chiến thắng (Rừng xà nu,
Đất, Giấc mơ ông lão vờn chim, Chuyện bên bờ sông Vàm cỏ, Gieo mầm,
Mầm sống, Niềm vui thầm lặng, Chân trời tím, Những đứa con trong gia
đình, Lửa đêm) Trong các truyện về đề tài sản xuất, xây dựng cuộc sống
mới thiên nhiên khắc nghiệt và cả các lề thói, định kiến luôn là những cản
trở đối với con ngời. Trong hoàn cảnh ấy, con ngời buộc phải có nghị
lực, quyết tâm để có thể vợt qua (Ché Mèn đợc đi họp - Nông Minh
Châu, Ngời vợ - Nguyễn Địch Dũng, Xa Phủ - Ma Văn Kháng, Hạnh

phúc - Vũ Thị Thờng, Màu tím hoa mua - Nguyễn Thị Nh Trang, Đêm
trong làng - Nguyễn Thị Ngọc Tú) Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau,
các tác giả đều nhằm ca ngợi tinh thần lạc quan của con ngời trớc các
thử thách của hoàn cảnh.
1.2 Xu hớng lý tởng hóa hoàn cảnh sống của nhân vật
Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ số phận cộng đồng đợc đặt lên hàng
đầu. Ngời với ngời sống với nhau trong tình chan hòa, thân ái. Do đó, con
ngời tiến bộ hay lạc hậu hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân họ, còn môi
trờng luôn luôn tốt. Nhiều truyện đã đề cập đến sự đổi đời của những con
ngời từng là nạn nhân trong xã hội cũ nay tìm lại đợc niềm vui, hạnh phúc
trong cuộc sống mới (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ng
ời vợ lẽ - Đỗ Quang
Tiến, Bộ quần áo mới - Ngô Ngọc Bội, Hoa đào năm ngoái - Chu Văn, Ma
đêm - Vũ Giang, Gặp bạn, Trai làng Quyền - Nguyễn Địch Dũng, Hai chị
em - Vũ Thị Thờng, Mùa lạc, Đứa con nuôi - Nguyễn Khải, Lẽ mọn -
Nguyễn Thị Cẩm Thạch, Tiếng sóng khuya - Nguyễn Kiên).
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nớc ngày
càng sôi nổi, thu hút sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân. Nhiều truyện
ngắn đã xây dựng những kiểu nhân vật tự nhận thức để tiến kịp phong trào
nh nhân vật cô giáo (Vở kịch cô giáo - Giang Nam), ông Sần (Về làng -
Phan Tứ), Ngời đàn bà Tháp Mời trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn
Quang Sáng. Điều này chứng tỏ sức cảm hóa kỳ diệu của cách mạng, của
hoàn cảnh đối với con ngời.
2. Khuynh hớng sử thi
2.1 Đề tài
Theo nhà phê bình Lại Nguyên Ân thì: "Tính chất sử thi của nền văn
học mới Việt Nam thể hiện trớc hết ở chỗ nó lấy đối tợng miêu tả chủ
yếu là cuộc đấu tranh của dân tộc nhằm thoát khỏi mọi ách ngoại xâm ()
nó ca ngợi sự nghiệp dựng nớc và giữ nớc của toàn dân trong hiện tại và


8
quá khứ, ngợi ca xả thân vì dân tộc, đất nớc của những ngời con u tú
của dân tộc (10, 120). Truyện ngắn cũng không phải là ngoại lệ.
2.2 Nhân vật
Nhân vật là phơng diện thể hiện rõ sự chi phối của khuynh hớng sử
thi vào truyện ngắn. Nhìn chung, truyện ngắn thời kỳ này tập trung vào hai
kiểu nhân vật: những con ngời mang t tởng, khát vọng của thời đại và
những con ngời kết tinh bản lĩnh, khí phách của dân tộc, thời đại ở loại
thứ nhất, đời sống riêng của cá nhân đợc thể hiện nh đời sống chung của
dân tộc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng hành xử với t cách một công
dân, một chiến sỹ nh: Thân (Cái hom giỏ), hai chị em Chiến và Việt
(Những đứa con trong gia đình), ông T vờn chim (Giấc mơ ông lão vờn
chim), anh Khang, chị Tiềm (Mùa cá bột), Tâm (Nếm nớc) Tất cả họ
đều tự nhận thức đợc về trách nhiệm của mình đối với đất nớc, luôn coi lý
tởng cách mạng là nguồn vui, lẽ sống. Kiểu ngời thứ hai đợc xây dựng
để phản ánh bớc đờng đi lên của lịch sử, dân tộc (ông Hai - Làng, Mỵ và
A Phủ - Vợ chồng A Phủ, Độ - Đôi mắt, Lợng - Th nhà
, Miên - Gặp gỡ,
ông Tám Xẻo Đớc - Đất, chị út - Mẹ vắng nhà; cụ Mết - Rừng xà nu)


Chơng II
hai kiểu cấu trúc thể loại

2.1 Truyện ngắn trữ tình.
2.1.1. Phơng thức tiếp cận và chiếm lĩnh hiện thực.
Với một lối tiếp cận và cảm nhận u ái, nâng niu, các cây bút thuộc
khuynh hớng này không đi vào khai thác những xung đột xã hội gay gắt
mà nghiêng về khai thác vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nớc và nhất là vẻ đẹp
tâm hồn con ngời. Vì vậy, nó thờng nắm bắt đợc cái hồn, cái thần thái

của hiện thực hơn là tái hiện hiện thực dới hình thức trực tiếp.
2.1.2 Cốt truyện với chức năng bộc lộ trạng thái, tâm tởng
Truyện ngắn trữ tình là truyện về thế giới đời sống đã đợc khúc xạ
qua lăng kính tâm hồn của tác giả, là truyện về niềm vui, nỗi buồn của con
ngời trớc cuộc sống. Nói cách khác, những chi tiết, sự kiện, biến cố chỉ
là cái nền, cái cớ để nhân vật phô diễn thế giới nội tâm phong phú của
mình. (Thung lũng cò, Đờng qua nhà, Tiếng ma ).

9
Để những truyện "không có chuyện" có thể "đứng" đợc, không rơi
vào tình trạng chết yểu, vô vị nhà văn phải tạo ra một "không khí" quán
xuyến toàn bộ truyện, một "môi trờng sống" cho nhân vật bằng cách đa
vào trong truyện những chi tiết chân thực, chính xác, đáp ứng yêu cầu
"phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống". Do quan niệm "cốt truyện
không thành vấn đề lắm", các cây bút trữ tình ít chú ý tới những sự kiện,
biến cố khách quan mà chủ yếu quan tâm tới những biến cố bên trong,
những suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật.
2.1.3 Nhân vật trữ tình
Nhân vật trữ tình là kiểu nhân vật có thế giới nội tâm phong phú,
phức tạp, có tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động trớc những biến chuyển của
đời sống. Đỗ Chu, Nguyễn Thị Nh Trang, Nguyễn Thành Long, Anh Đức,
Nguyễn Minh Châu có sở trờng xây dựng loại nhân vật này. Hành động
không còn là cốt lõi của nhân vật. Nhân vật không đợc miêu tả qua ngoại
hình, hành động mà chủ yếu xuất hiện qua tâm trạng và miêu tả tâm trạng
cũng không nhằm cắt nghĩa, lý giải cho hành động
Nhân vật trữ tình, trớc hết, là những con ngời rất tinh tế và nhạy
cảm trong cảm nhận cuộc sống, con ngời. Để có đợc những cảm nhận
đó, họ phải là những con ngời có một tình yêu mặn mà, tha thiết với cuộc
sống quanh mình.
"Nặng yêu thơng, tâm sự, hồi tởng" cũng là một đặc điểm của

nhân vật trữ tình. Họ không phải là những ngời không có gì để nhớ, càng
không phải là những ngời mau quên hoặc cố tình quên những gì đã qua
mà là những con ngời nặng tình nặng nghĩa, có thủy có chung. Không chỉ
sống với thế giới hiện tại, họ còn có cả một ký ức tuổi thơ phong phú để đi
về sau những truân chuyên của cuộc đời.
2.1.4 Tình huống truyện
Đối với truyện ngắn trữ tình, tình huống truyện không nhằm thúc đẩy
hành động của nhân vật cũng nh khái quát các mâu thuẫn của đời sống
mà chỉ đóng vai trò khơi nguồn, châm ngòi cho việc lý giải nguyên cớ,
nguồn cơn của những tâm trạng, những biến thái tinh thần của nhân vật.
Chúng tôi chia các tình huống ở truyện ngắn trữ tình thành ba dạng:
2.1.4.1 Tình huống tự nhận thức
Đây là dạng tình huống cho loại truyện viết về đời thờng, gắn với
khả năng tự nhận thức, tự soi xét chính mình của nhân vật. Qua những tình
huống nh vậy, nhà văn gửi gắm quan niệm của mình về đời sống, xã hội,

10
con ngời (Lao động quang vinh, Làm việc - Nguyễn Ngọc Tấn; Chiến sỹ
quân bu, Vòm trời quen thuộc - Đỗ Chu; Con chim bã trầu - Nguyễn
Thành Long;)
2.1.4.2 Tình huống hồi cố
Là tình huống đặt nhân vật sống lại những hồi ức, những kỷ niệm,
những hồi cố về quá vãng, tìm về ngày xa với một sự trân trọng, tạo thành
kiểu tình huống chất đầy tâm trạng và giàu sức gợi (Quê hơng, Về Nam -
Nguyễn Ngọc Tấn; Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng, Rẻo cao - Nguyên
Ngọc; Hơng cỏ mật, Ráng đỏ - Đỗ Chu; Kí ức tuổi thơ - Anh Đức; Tiếng
ma, Con đờng và dòng sông - Nguyễn Thị Nh Trang;).
2.1.4.3 Tình huống khơi mở tâm lý.
Truyện ngắn trữ tình thờng chú ý đến những khoảnh khắc bất ngờ,
ngắn ngủi, thâu thái đợc những xung động tâm lý căng, nhạy có khả năng

khơi mở, đánh động những rung động khẽ khàng, tinh tế ở bên trong. Nó là
tiêu điểm thu gọn để làm nảy sinh cảm xúc, cảm giác. Chính vì thế, tình
huống khơi mở tâm lý là tình huống tiêu biểu nhất của truyện ngắn trữ tình,
giàu tiềm năng khơi mở cõi lòng bí ẩn của con ngời (Mùa cá bột, Phù sa,
Trong tầm súng - Đỗ Chu; Lặng lẽ Sa Pa, Giữa trong xanh, Buổi sáng thần
tiên - Nguyễn Thành Long; Chuyện ở đảo, Con đờng và dòng sông -
Nguyễn Thị Nh Trang;).
2.1.5 Nghệ thuật trần thuật
Trần thuật từ ngôi thứ nhất:
Là kiểu trần thuật phổ biến trong truyện trữ tình. Hình thức ngời kể
chuyện từ ngôi thứ nhất tạo tiền đề cho quyền tự bộc lộ của ng
ời viết, phát
huy một cách tối đa vai trò và sự hiện diện của mình trong văn bản nghệ
thuật. Đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa ngời kể chuyện và nhân vật,
tạo độ tin cậy cho tác phẩm. Kiểu trần thuật này cho phép đa vào lời trần
thuật quan điểm riêng, sắc thái cá tính mang đậm màu sắc chủ quan, tăng
cờng chất trữ tình cho câu chuyện (Tiếng ma - Nguyễn Thị Nh Trang,
Ký ức tuổi thơ - Anh Đức, Mùa nấm tràm - Đinh Quang Nhã)
Nhịp điệu trần thuật chậm ri, khoan thai
Cơ sở để tạo nên nhịp điệu trần thuật ấy chính là do đặc trng thể loại
quy định. Hầu hết truyện ngắn trữ tình đều rất ít sự kiện. Những sự kiện,
biến cố ít ỏi này không đợc phát triển để trở thành biến cố mà thờng bị
kéo dãn ra, mờ nhạt dần theo dòng tâm trạng của nhân vật. Đó là nguyên

11
nhân cơ bản để tạo ra nhịp điệu trần thuật chậm rãi, khoan thai cho loại
truyện ngắn trữ tình.
Một trong những biện pháp cơ bản làm chậm lại tiến trình trần thuật
chính là phép hồi cố. Khảo sát truyện ngắn trữ tình giai đoạn này, chúng
tôi nhận thấy phần lớn truyện đều đợc bắt đầu bằng thời gian hiện tại

nhng theo dòng hồi tởng của nhân vật truyện dần rút vào bên trong với
những kỷ niệm, hồi ức trong quá khứ. Việc sử dụng phơng thức trữ tình
ngọai đề, độc thoại nội tâm - vốn là đặc trng của truyện ngắn trữ tình -
cũng góp phần đáng kể tạo nên nhịp điệu khoan thai của loại hình truyện
ngắn này. Ngoài ra, ảnh hởng của những nhân vật phụ, chi tiết phụ, nhiều
khi chỉ nhằm mục đích dẫn dắt câu chuyện cũng tác động tới tiến trình vận
động chung của sự kiện trong loại truyện trữ tình.
2.2 Truyện ngắn hiện thực.
2.2.1 Phơng thức tiếp cận hiện thực
Với quan niệm thống nhất: hiện thực thời đại là cái đẹp, cái có thực
của đời sống cũng là cái có thực mang phẩm chất thẩm mỹ, truyện ngắn
hiện thực (nhất là truyện thời kỳ 1945 - 1954) có cách ứng xử với chất liệu
khác với truyện trớc 1945 và cũng khác với truyện sau 1975. Các sự kiện
đời sống đang diễn ra trớc mắt dờng nh đợc đa trực tiếp vào tác phẩm
làm cho truyện mang dáng vẻ khách quan tuyệt đối. Nhà văn cũng không
hề né tránh việc đa những con ngời, sự việc có thật vào tác phẩm. Ngợc
lại, còn xem đó là một cách phản ánh hữu hiệu.
2.2.2 Cốt truyện với chức năng phản ánh mâu thuẫn, xung đột x hội
Các tác phẩm tự sự nói chung, trong đó có truyện ngắn, thờng thông
qua việc trình bày một hệ thống các sự kiện để phản ánh những xung đột xã
hội. Sự phản ánh hiện thực trong các mâu thuẫn, xung đột và sự vận động
dẫn đến việc tổ chức các nhân vật đối lập. Nó gắn liền với sự đối lập của các
cá nhân về ph
ơng diện địa vị, cá tính, phẩm chất. Trong những truyện viết
về đề tài đấu tranh cách mạng, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự đối lập rất gay
gắt giữa ta và địch (Th nhà, Gặp gỡ, Thức tỉnh, Lửa đêm Chuyện xóm tôi,
Những đứa con trong gia đình). Qua đó, lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù,
đồng thời ca ngợi phẩm chất, khí tiết của con ngời Việt Nam.
Xung đột giữa cá nhân và tập thể, lạc hậu và tiến bộ, riêng và chung,
kinh nghiệm và tri thức giữa những ngời cùng một cộng đồng trở thành

cái cốt trong nhiều truyện viết về đề tài cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã

12
hội (Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi, Ngời vợ, Xa Phủ, Vợ chồng xã
đội, Anh Keng, Ché Mèn đợc đi họp, Xung khắc, Tiếng gõ áp lực).
2.2.3 Nhân vật
Hầu hết nhân vật của truyện ngắn hiện thực đều là nhân vật loại hình.
Do đó, khi xây dựng loại nhân vật này, các tác giả chú ý tới những nét ngoại
hình tiêu biểu, phù hợp với từng loại ngời, từng lớp ngời trong xã hội.
Khuôn mặt, nụ cời, dáng vóc là những nét ngoại hình thờng đợc sử dụng
để khác họa chân dung những con ngời Việt Nam trong giai đoạn này.
2.2.4 Tình huống
2.2.4.1 Tình huống kịch.
Là tình huống bao hàm những xung đột đời sống mang tính kịch cao,
trong đó sự va chạm giữa các nhân vật trở nên gay gắt, dồn nén trong một
không gian, thời gian và hành động theo quy tắc "tam nhất" của kịch. Để
thể hiện t tởng yêu nớc, t tởng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc,
nhân vật của truyện ngắn hiện thực thờng đợc đặt vào các tình huống
giao tranh căng thẳng giữa sự sống và cái chết để rồi cuối cùng phẩm chất
anh hùng trong mỗi ngời bao giờ cũng chiến thắng (Một nhà, Con chị
Lộc, Gieo mầm)
2.2.4.2 Tình huống luận đề
"Là cách tạo dựng tình huống truyện theo những luận đề, những t
tởng có sẵn để tạo ra những truyện ngắn luận đề"(199, 48). Viết loại
truyện này, các tác giả thờng chú ý đến tính chất thế sự hơn là đi sâu phân
tích diễn biến tâm lý phức tạp. Đằng sau những sự việc, con ngời bình
thờng bao giờ tác giả cũng nhằm gửi gắm một quan niệm của mình về đời
sống, con ng
ời. Loại tình huống này xuất hiện chủ yếu trong loại truyện
thông qua số phận của một cá nhân cụ thể để ca ngợi tính u việt của chế

độ xã hội chủ nghĩa đối với con ngời (Vợ nhặt - Kim Lân, Anh Keng -
Nguyễn Kiên, Nhà chị Nhỡ, Trai làng quyền - Nguyễn Địch Dũng, Bộ
quần áo mới - Ngô Ngọc Bội)
2.2.5Nghệ thuật trần thuật
Trần thuật khách quan
Khảo sát truyện ngắn hiện thực 1945 - 1975, chúng tôi nhận thấy
phần lớn tác phẩm đều đợc trần thuật theo cách này - trần thuật khách
quan. Kiểu trần thuật này khiến cho giữa nhà văn và nhân vật luôn tồn tại
khoảng cách. Tuy nhiên, cách trần thuật này mang lại tính khách quan tối
đa cho tác phẩm. Chủ thể trần thuật vừa là ngời dẫn truyện vừa là ngời

13
hớng đạo cho độc giả. Trần thuật khách quan khiến cho tác phẩm, nhìn
chung, mang tính đơn thanh
Nhịp điệu trần thuật nhanh, dồn dập trong các cốt truyện có hành
động bên ngoài chiếm u thế
Đặc điểm của kiểu cốt truyện này đã chi phối trực tiếp đến nhịp điệu
trần thuật dồn dập, gấp gáp, liền mạch trong tác phẩm. Có thể thấy yếu tố
quan trọng nhất trong mạch trần thuật của truyện ngắn thời kỳ này là kể và
tả, và trong đó trục chính của tác phẩm là trần thuật theo dòng sự kiện tiến
trình của cốt truyện. Nhịp điệu trần thuật do đó thờng nhanh và dồn dập
để theo kịp diễn biến sự kiện. Việc tạo hình khách thể chủ yếu dựa vào
những hành động hớng ngoại nên rất ít những dòng tâm t làm chậm nhịp
điệu trần thuật. Đôi khi cũng có những đoạn suy tởng trong độc thoại nh
của ông Năm Hạng (Ông Năm Hạng), những giấc mơ của ông T vờn
chim (Giấc mơ ông lão vờn chim) hoặc để hoàn thiện thêm những bức
chân dung đã phác họa, hoặc để đáp ứng khuynh hớng lý tởng hóa đối
với con ngời và cuộc sống trong chiến tranh chứ không nhằm khám phá
chiều sâu bên trong của con ngời.


Chơng III
kết cấu, Các loại hình nhân vật v
giọng điệu, ngôn ngữ

3.1 Kết cấu
3.1.1 Phần lớn truyện ngắn vẫn đợc kết cấu theo lối truyền thống
Đây là kiểu kết cấu đã có từ lâu và rất phổ biến trong văn học Việt
Nam. Đặc điểm của kiểu kết cấu này là có đầu cuối rõ ràng với nhiều sự
kiện, nhiều biến cố. ở loại này, cốt truyện trở thành cái khung chi phối
phần lớn tính cách nhân vật.
Cốt truyện dựa vào hệ thống sự kiện
Khảo sát truyện ngắn 1945 - 1975, có thể thấy đa số cốt truyện đợc
viết theo kiểu truyền thống, có đầu cuối rõ ràng. Mỗi một thành phần có
thể có một hay nhiều sự kiện. Điều quan trọng là các sự kiện này thờng
không đợc mở rộng về quan hệ, thời gian, không gian mà chủ yếu đợc
xâu chuỗi theo thời gian, xoay xung quanh nhân vật chính để làm nổi bật
tính cách nhân vật. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn này là truyện đơn
tuyến, không có những mối quan hệ phức tạp. Truyện của Vũ Thị Thờng,

14
Nguyễn Quang Sáng, Đỗ Chu, Phan Tứ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Khải, Hồ
Phơng, Bùi Hiển, Nguyễn Địch Dũng rất tiêu biểu cho kiểu kết cấu
truyền thống.
Biến cố vẫn giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy cốt truyện phát triển
Xung đột giữa địch và ta, cá nhân và tập thể là cái cốt của hầu hết
truyện ngắn 1945 - 1975. Để giải quyết những xung đột ấy, nhân vật nhất
thiết phải quyết định những hành động thích ứng, những hành động không
chỉ phân loại phẩm chất, tính cách của họ trong những ngăn loại hình xác
định mà còn là bớc ngoặt lớn đối với cuộc đời, số phận nhân vật. Với kiểu
cốt truyện này, tình huống có ý nghĩa nh một sự thử thách của hoàn cảnh

nhằm đa nhân vật vào hành động khiến họ tự bộc lộ phẩm chất vốn có (Vợ
chồng A Phủ, Ông Năm Hạng, Đất).
Kết thúc có hậu
Về mặt xây dựng cốt truyện, mô hình kết thúc khép kín, có hậu là lựa
chọn của hầu hết các tác giả truyện ngắn 1945 - 1975. Kiểu kết thúc nh
vậy chi phối toàn bộ sự phát triển của các tình tiết cũng nh tính cách nhân
vật. Tình tiết truyện dù phức tạp đến đâu, mâu thuẫn căng thẳng nh thế
nào đi nữa, câu chuyện cũng sẽ kết thúc ở chỗ trọn vẹn nhất. Kiểu kết thúc
có hậu phù hợp với khuynh hớng sử thi và tính chất đơn giọng của truyện
ngắn giai đoạn này.
3.1.2. Tiếp cận kiểu kết cấu hiện đại
Cốt truyện trữ tình
Là những truyện có cốt truyện lỏng, chất truyện mờ nhạt, khó tóm
tắt, khó kể lại. Truyện không còn là truyện mà là sự tuôn chảy của những
dòng tâm trạng. Kết cấu truyện cũng lỏng lẻo, chỉ là sự lắp ghép bất chợt
các chi tiết, sự kiện trong qua trình diễn biến của tâm trạng. Truyện của Đỗ
Chu, Nguyên Ngọc rất tiêu iểu cho loại cốt truyện này.
Kết cấu theo thủ pháp "dòng ý thức"
Khảo sát truyện của một số tác giả tiêu biểu trong giai đoạn 1945 -
1975, chúng tôi nhận thấy cốt truyện trữ tình thờng đợc kết cấu theo thủ
pháp "dòng ý thức", truyện đợc triển khai dựa trên sự vận động của cảm
xúc, tâm trạng chứ không phải bằng những chuyện đợc tờng thuật. Các
nhà văn đã cố ý vứt bỏ tính hoàn chỉnh, nhất quán của cốt truyện và sáng
tạo ra nhiều thủ pháp nghệ thuật mới nh đảo ngợc thời gian, hòa trộn
hiện tại và quá khứ Nhờ vậy, mà những truyện không có chuyện, khởi
phát từ những duyên cớ không đâu vẫn có thể thành chuyện, mang đến cho

15
độc giả những cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và con ngời. Có thể nói, kết
cấu theo dòng ý thức là một thủ pháp khá hiện đại. Nó cho phép nhà văn có

thể nới lỏng cốt truyện, mở rộng đề tài, phạm vi phản ánh.
Kết thúc không hoàn kết.
Thờng gặp trong những truyện ngắn có cốt truyện vận động theo
dòng tâm trạng. Tiêu biểu cho loại kết thúc này là truyện ngắn của Đỗ Chu,
Nguyễn Thị Nh Trang, Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Thành Long, một vài
truyện trong tập Rẻo cao của Nguyên Ngọc Kiểu kết thúc nh vậy "gieo
vào lòng ngời đọc những dự cảm về tơng lai, về cái đẹp và khả năng
thấu thị đời sống trong dòng chảy liên tục của nó" (199. 60).
3.2. Các loại hình nhân vật
3.2.1 Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong truyện ngắn 194-1975
3.2.1.1 Về con ngời chính trị, con ngời công dân
Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ đất nớc có chiến tranh. Lợi ích
cộng đồng trở thành nguyên tắc hàng đầu. Do đó, xét trên đại thể, có thể
thấy quan niệm nghệ thuật về con ngời của truyện ngắn 30 năm chiến
tranh cách mạng là con ngời chính trị, con ngời công dân, con ngời
hớng về cách mạng.
Con ngời cộng đồng trong truyện ngắn 1945 - 1954.
Khám phá con ngời từ phơng diện xã hội, từ trách nhiệm công dân
là biểu hiện đầu tiên của con ngời cộng đồng trong truyện ngắn. Trong
mỗi tác phẩm, nhà văn không xem xét con ngời ở bình diện cá nhân, mà
khám phá và thể hiện con ngời của cộng đồng, giai cấp, xã hội. Con ngời
của gia đình, làng xóm đã trở thành con ngời của cách mạng và kháng
chiến. Mối quan hệ thế sự và đời t không nằm trong sự chú ý của nhà văn
và nếu có đợc đa vào trong tác phẩm thì cũng bị chi phối mạnh mẽ bởi
đời sống cộng đồng và mang một ý nghĩa khác hẳn.
Việc đa lên hàng đầu con ngời xã hội, con ngời công dân đã khiến
cho truyện ngắn thời kỳ này tập trung khám phá và thể hiện "những nét tâm
lý của quần chúng nh lòng yêu nớc, căm thù giặc, tình nghĩa đồng bào,
tình cảm tiền tuyến hậu phơng, ý thức giai cấp, sự ham thích đời sống sinh
hoạt tập thể, sinh hoạt chính trị" (125, 21) (Đôi mắt - Nam Cao, Làng - Kim

Lân, Th nhà - Hồ Phơng, Gặp gỡ - Bùi Hiển). Đời sống nội tâm không
phải hoàn toàn bị bỏ qua, nhng nếu có, cũng đi theo những môtíp định sẵn
nh: từ ngộ nhận đến thức tỉnh, từ căm thù đến hành động, từ giác ngộ thấp
đến giác ngộ cao (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Th nhà - Hồ Phơng).

16
Tuy nhiên, việc xây dựng nhân vật tập thể nếu có giúp nhà văn thể
hiện đợc quan niệm về con ngời của thời đại thì lại cản trở ngòi bút của
nhà văn đi sâu, tờng tận vào từng nhân vật để dựng lên những bức chân
dung sinh động và có giá trị. Chân dung con ngời Việt Nam kháng chiến
có chiều sâu và sự phong phú đời sống tinh thần, xứng đáng với tầm vóc
của lịch sử còn cha kịp xuất hiện trong văn học chín năm kháng chiến
chống Pháp.
Con ngời thống nhất riêng chung trong truyện ngắn 1954 -1965.
Thể hiện con ngời thống nhất riêng chung, nhiều truyện viết về nông
thôn thờng xoay quanh vấn đề vào - ra hợp tác xã, nhất là những tác
phẩm ra đời vào khoảng trớc năm 60. Tập thể đợc coi là môi trờng tốt
nhất để thể hiện t cách đạo đức của một con ngời. Lựa chọn con đờng
làm ăn tập thể đợc xem là tiêu chuẩn hàng đầu của cái mới, cái tiên tiến.
(Cái hom giỏ, Con cá song, Đồng tháng năm, Cái lô cốt) Sau năm 1960,
khi phong trào hợp tác hoá đã căn bản hoàn thành, không còn những băn
khoăn vào hay ra nữa. Các truyện ngắn viết về nông thôn lại nêu vấn đề
đấu tranh giữa cái riêng và cái chung trong hình thức mới. Nhng cách lí
giải và giải quyết của nhà văn thì vẫn không vợt ra ngoài những chuẩn
mực chung lúc bấy giờ nh: cá nhân phải phục tùng tập thể. Trong hoàn
cảnh ấy, kiểu nhân vật hết lòng lo toan những công việc chung, có hoàn
cảnh gia đình khó khăn nh Năm (Gia đình lớn - Nguyễn Khải); Thân
(Cái hom giỏ), Thơm (Cái đĩ con), Bí th
Vợi (Một ngày), chủ nhiệm Chẩn
(Neo đơn), bác Mục (Ngày xuân), Chủ tịch Bình (Đêm mùa thu), cụ T

Gấc, anh Khang, chị Tiềm (Mùa cá bột), đội trởng Nham (Phù sa) xuất
hiện nhiều. Có thể nói, lớp ngời này rất tiêu biểu cho quan niệm của các
nhà văn về những con ngời mới xã hội chủ nghĩa.
Miêu tả sự đổi thay số phận và tính cách của nhân vật trong hoàn
cảnh, môi trờng tập thể của một xã hội tốt đẹp cũng là một hớng khẳng
định sự hoà nhập riêng chung của con ngời trong truyện ngắn lúc này.
Nhiều truyện ngắn đi theo hớng này đã thể hiện đợc khát vọng hạnh
phúc của con ngời, nhất là những con ngời từng chịu nhiều đau khổ,
thiệt thòi (Đờng cày trên đám ruộng, Chị Nhâm, Bộ quần áo mới, Hoa
đào năm ngoái, gặp bạn, Trai làng Quyền).
Con ngời sử thi trong truyện ngắn 1965 - 1975
Quan niệm nghệ thuật về con ngời của truyện ngắn chống Mỹ vẫn là
sự tiếp tục của con ngời chính trị, con ngời công dân ở những giai đoạn

17
trớc nhng đã có thêm những phẩm chất mới để phù hợp với hoàn cảnh
mới. Đó là những con ngời ý thức sâu sắc về tầm vóc lịch sử và ý nghĩa
thời đại của cuộc chiến đấu chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân
tộc; mỗi cá nhân đợc biểu hiện tập trung ý chí, khát vọng và sức mạnh của
cả cộng đồng dân tộc, thậm chí của thời đại. Họ là những ngời quyết tâm
tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc với một tinh thần tự giác rất cao, t
tởng và ý thức chính trị đã đợc nhận thức một cách triệt để (Trong các tập
Về làng, Giấc mơ ông lão vờn chim, Ngời đàn bà Tháp Mời).
Con ngời trong truyện ngắn chống Mỹ không chỉ ra trận bằng hiện
tại mà còn tự nhận thức về mình qua cuộc chiến đấu với kẻ thù, qua những
quan hệ với đồng đội và với nhân dân, với cách mạng và với lịch sử, họ soi
lại mình trong quá khứ anh hùng của dân tộc, lấy đó làm động lực để vơn
tới cho xứng tầm thời đại (Rừng xà nu, Đứa con, Lửa đêm).
Thế giới tình cảm của con ngời thời chống Mỹ đợc khai thác ở
nhiều mặt. Nổi lên và bao trùm vẫn là những tình cảm cộng đồng, tình yêu

quê hơng, đất nớc, nhng không thiếu những tác phẩm viết về tình cảm
riêng t (Chiếc lợc ngà, Bông cẩm thạch - Nguyễn Quang Sáng; Đứa con,
Con chị Lộc - Anh Đức; Mùa nấm tràm - Đinh Quang Nhã). Sự kết hợp hài
hòa giữa hành động cách mạng và vẻ đẹp tâm hồn của con ngời trong
truyện ngắn chống Mỹ là một đóng góp không nhỏ của văn học vào việc
khám phá, thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của con ngời, dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của lịch sử, quan niệm con ngời
sử thi cũng không tránh khỏi tính phiến diện, tính đơn giọng khi thể hiện
cuộc sống và con ngời trong chiến tranh. Do đó, nhân vật "thiếu hẳn sự
sinh động của đời sống và mất đi tính cụ thể, biểu cảm của nghệ thuật mà
chỉ còn là những hình tợng ớc lệ thuần túy" (125, 46).
3.2.1.2 Về con ngời con ngời cá nhân trong truyện ngắn 1945- 1975
Con ngời tự nhiên
Từ sau 1954, trong hoàn cảnh hòa bình, con ngời bắt đầu nghĩ đến
cá nhân mình. Trong một chừng mực nào đấy, có thể xem đây là một thời
kỳ con ngời bừng tỉnh trớc những khát vọng sống mãnh liệt của cá nhân
(Hai vợ - Nguyễn Địch Dũng; Đêm - Phan Quang; Mất hết - Hữu Mai; Đẹp
- Xuân Cang; Im lặn - Nguyễn Ngọc Tấn; Bông hoa hồng - Lê Minh; Về
thành phố - Nguyễn văn Bổng). Sự xuất hiện của kiểu ngời này đã
mang lại một cái nhìn toàn diện hơn về con ngời.


18
Con ngời hớng nội.
Con ngời vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội. Con ngời, có khi hành động theo sự chỉ huy tỉnh táo của
lý trí, có khi lại bị dẫn dắt bởi bản năng, vô thức mà ngời ngoài cuộc
không sao hiểu nổi. Chỉ khi đi sâu vào thế giới nội tâm của con ngời,
chúng ta mới có thể thấu hiểu điều này, để có cái nhìn biện chứng và nhân
ái hơn về cuộc đời, con ngời.

Đi sâu vào nội tâm con ngời, các nhà văn còn cho thấy đợc những
day dứt, dằn vặt của con ngời, nhất là những ngời lính trở về sau chiến
tranh. Có một số nhà văn đã sớm nhận thấy sự chi phối của hoàn cảnh đối
với con ngời và thể hiện trong những bi kịch cá nhân (Im lặng - Nguyễn
Ngọc Tấn; Đứa con - Hoài Giao; Đứa con - Nguyên Ngọc; Vết thơng -
Hải Hồ; Ngang trái - Chu Văn; )
3.2.2 Những kiểu dạng và phơng thức thể hiện nhân vật
3.2.2.1 Nhân vật loại hình.
Là kiểu nhân vật đợc xây dựng để "thể hiện tập trung một loại phẩm
chất, tính cách nào đó của con ngời hoặc các phẩm chất, tính cách, đạo
đức của một loại ngời nhất định của một thời đại". Họ đợc xây dựng nh
là những con ngời sống hết mình với lý tởng độc lập, tự do, với sự
nghiệp bảo vệ quê hơng đất nớc nh cặp vợ chồng Đờng - Miên (Gặp
gỡ), Lợng (Th
nhà), T.nú, Dít (Rừng xà nu), ông T vờn chim (Giấc mơ
ông lão vờn chim), ông Hai Vàm Cỏ (Chuyện bên bờ sông Vàm Cỏ)
Tuy khác nhau về thành phần xuất thân nhng họ đều có chung bản chất xã
hội. Họ là kết tinh khí phách dân tộc, là bộ mặt tinh thần của thời đại. Mỗi
nhân vật đều có sức vẫy gọi, sức truyền lan lý tởng trong cộng đồng.
Trong những truyện viết về đề tài cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, truyện ngắn lại đề cập đến một kiểu ngời mới ở nông thôn miền Bắc.
Qua đó, các tác giả phản ánh sự vận động và khí thế chung dân tộc, thời
đại nh Mỵ (Vợ chồng A Phủ), chị Nhâm (Chị Nhâm), Đoan (Ngời vợ),
bà cụ Thuận (Buổi tối trong gia đình), lão Học (Con trâu bạc), Chủ tịch
Bình (Đêm mùa thu), chủ nhiệm Chẩn (Neo đơn)
3.2.2.2 Nhân vật loại hình kết hợp với nhân vật tính cách
Những nhân vật này không chỉ đại diện, kết tinh cho tinh thần yêu
nớc của nhân dân ta mà ở họ còn có những nét cá tính không thể trộn lẫn
với bất cứ nhân vật nào khác. Đó là văn sỹ Hoàng (Đôi mắt - Nam Cao),
Đào (Mùa lạc - Nguyễn Khải), ông Tám Xẻo Đớc (Đất - Anh Đức), bác


19
Tám Sành (Lửa đêm - Phan Tứ), Cụ Mết (Rừng xà nu - Nguyễn Trung
Thành), ông Năm Hạng (Ông Năm Hạng- Nguyễn Quang Sáng), hai chị
em Chiến và Việt (Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi)
Để xây dựng loại nhân vật này, các tác giả tập trung làm nổi bật cá
tính của họ bằng những cử chỉ, hành động, việc làm sinh động, chân thực
và có tính khu biệt cao. Ngoại hình là một thủ pháp quen thuộc đợc nhà
văn sử dụng để khắc hoạ cá tính nhân vật.
3.3 Giọng điệu, ngôn ngữ
3.3.1 Giọng điệu
3.3.1.1 Giọng trang trọng, ngợi ca, đậm chất sử thi
Trớc hết, giọng khẳng định, ngợi ca với thái độ tôn trọng đợc biểu
hiện ở hệ thống đại từ nhân xng, đại từ chỉ thị hoặc gọi bằng các danh từ
chung chỉ nghề nghiệp hay chức vụ mà các nhân vật đó đảm nhiệm. Cũng
có khi, giọng ngợi ca đợc gửi gắm trong cách miêu tả của nhà văn về đối
tợng. Giọng ngợi ca còn đợc thể hiện trong các đoạn văn trữ tình ngoại
đề. Nhà văn không trực tiếp nói về một ngời nào cụ thể nhng chúng ta
cũng có thể hiểu đợc thái độ của tác giả về đối tợng đợc nói tới.
3.3.1.2 Giọng cảm thông, chia sẻ
Giọng cảm thông, gần gũi của tác giả đợc thể hiện trớc hết trong
cách trần thuật. Đặc điểm trần thuật của thể loại tự sự chủ yếu "ở ngôi thứ
ba không nhân vật hóa mà đằng sau là tác giả". Sau kháng chiến, nhà văn
nhìn cuộc sống với con mắt của ngời trong cuộc, không chỉ phản ánh
những điều tai nghe mắt thấy, mà còn cố gắng hòa nhập vào tình cảm, tâm
t của nhân vật. Do đó, trong truyện ngắn 1945 - 1975, ngời trần thuật tỏ
ra hiểu thấu những diễn biến trong tâm t, tình cảm của con ngời.
3.3.2 Ngôn ngữ
3.3.2.1 Ngôn ngữ trau chuốt và giàu chất thơ.
Ba mơi năm chiến tranh cách mạng là thời kỳ con ngời sống trong

gian khổ tột cùng nhng vẫn luôn lạc quan, tin vào một ngày mai tơi
sáng. Cuộc sống nhìn đâu cũng thấy đẹp, thấy nên thơ. Con ngời sống với
nhau chân tình, cảm động. Hiện thực ấy đã tạo cho truyện ngắn một chất
trữ tình bay bổng. Chất trữ tình ấy đợc tạo bởi những hình ảnh, ngôn từ
đẹp đẽ, trau chuốt và nhiều câu văn tràn đầy cảm xúc trữ tình.
3.3.2.2 Ngôn ngữ đời thờng mộc mạc, dân d
Kiểu ngôn ngữ này đợc thể hiện rõ nhất ở cách các nhà văn sử dụng
khá nhiều lối phát âm và tiếng địa phơng. Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Anh

20
Đức, Vũ Thị Thờng, Kim Lân, Nguyễn Địch Dũng là những tác giả đã sử
dụng khá thành công lời ăn tiếng nói của quần chúng, tạo nên giá trị thẩm
mỹ riêng của tác phẩm.
3.3.2.3 Ngôn ngữ hành chính khuôn mẫu
Xuất phát từ tâm lý ham thích các hoạt động tập thể, thích đợc gọi
nhau là đồng chí, thích đợc hoà nhập vào cái bao la của đoàn thể nên đã
chi phối đến cách nói năng của nhân vật là thích dùng những từ ngữ mang
tính chính trị.


kết luận

1. Truyện ngắn 1945 - 1975 phát triển trong điều kiện chiến tranh.
Truyện ngắn là một thể loại bắt nhịp và bắt mạch nhanh nhạy với đời
sống ở những bớc ngoặt mau lẹ. Đặc biệt, trong hoàn cảnh gấp gáp, quyết
liệt của chiến tranh thì truyện ngắn càng tỏ ra thích hợp. Biêlinxki đã từng
cho rằng: "Nếu có những t tởng của thời đại thì cũng có những hình thức
của thời đại" (129, 362). Có thể xem một hình thức thời đại của giai đoạn
1945 - 1975 chính là truyện ngắn. Trong xu thế chung của thời đại, với tất
cả những u điểm thể loại, truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 đã phát triển

về nhiều mặt, phù hợp với điều kiện chiến tranh. Sự phát triển của truyện
ngắn không chỉ đợc khẳng định qua những thành tựu sáng tác của cá
nhân, mà còn thể hiện rõ ở sự biến đổi những nguyên tắc thể loại, những
phơng tiện và phơng thức nhận thức cuộc sống. Chính những thay đổi
này đã tạo cho truyện ngắn 1945 - 1975 một diện mạo riêng, mang dấu ấn
của thời đại.
Có nhiều cách để tìm hiểu truyện ngắn mà mỗi cách đều chỉ ra những
bình diện khác nhau cho việc khảo sát loại hình. Trong phạm vi luận án,
chúng tôi tập trung khảo sát truyện ngắn từ góc độ thi pháp thể loại để thấy
qua các thời kỳ lịch sử diện mạo, bản chất của truyện ngắn đã có nhiều
thay đổi. Truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 không chỉ kế thừa những
thành tựu của truyện ngắn những giai đoạn trớc mà còn là sản phẩm riêng
của thời đại đấu tranh cách mạng. Sự phát triển của truyện ngắn giai đoạn
này chứng tỏ xu hớng của cả một thể loại đang tìm cách vận động để đáp
ứng cao nhất yêu cầu của thực tiễn lúc đó là cổ vũ, động viên, tuyên truyền
cho những nhiệm vụ cách mạng của đất n
ớc.

21
2. Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn 1945 - 1975.
Truyện ngắn ngày càng tăng cờng khả năng bao quát hiện thực ở cả
chiều rộng lẫn chiều sâu. Trớc cách mạng, truyện ngắn chỉ bó hẹp ở một
số đề tài về ngời nông dân, tiểu t sản trí thức thì sau cách mạng, phạm vi
đề tài ngày càng đợc mở rộng và luôn bám sát dòng chảy lịch sử. Các đề
tài chính của truyện ngắn giai đoạn này là đề tài về cuộc kháng chiến
chống Pháp, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ trên cả hai miền Nam Bắc. Tuy
nhiên, truyện ngắn không chỉ mở rộng phạm vi phản ánh đời sống theo
chiều rộng mà ngày càng đi sâu khám phá chiều sâu của hiện thực. Từ
những truyện ký thời kháng chiến chống Pháp đến những truyện ngắn có

chất lợng thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và những năm chống Mỹ
cứu nớc là những bớc phát triển rất đáng kể trên phơng diện này.
Truyện ngắn thời kỳ này phát triển trong điều kiện chiến tranh, với
chức năng là cổ vũ công cuộc dựng nớc và giữ nớc của dân tộc nên cảm
hứng lãng mạn và khuynh hớng sử thi có tác động rất lớn đến việc lựa
chọn đề tài, ngôn ngữ, nhân vật. Và chính sự tác động này đã tạo nên một
giai đoạn truyện ngắn mang đậm dấu ấn thời đại.
3. Truyện ngắn có sự xuất hiện của những khuynh hớng thẩm mỹ
khác nhau
Điều kiện chiến tranh không cho phép nhà văn có thể hoàn toàn làm
theo ý mình. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nhà văn phải đặt cho mình
mục tiêu "viết gì ?" trớc khi nghĩ tới "viết nh thế nào ?". Phải nghĩ tới
trách nhiệm của một công dân trớc khi nghĩ tới vai trò là một nghệ sỹ.
Cho nên không mấy khó khăn để hiểu sự giống nhau ở chỗ này hay chỗ
khác giữa các nhà văn. Song nh thế cũng không có nghĩa là mọi biểu hiện
của phong cách cá nhân và sự đa dạng về bút pháp biểu hiện không xuất
hiện. Truyện ngắn thời kỳ này, đặc biệt là những năm chống Mỹ, đã xuất
hiện một số phong cách cá nhân và hình thành một số xu hớng thẩm mỹ
trong việc khám phá và thể hiện hiện thực. Căn cứ vào những dấu hiệu đặc
trng của thể loại nh cách thức tiếp cận hiện thực, nhân vật, cốt truyện,
tình huống, nghệ thuật trần thuật chúng tôi thấy có hai loại hình truyện
ngắn cơ bản: truyện ngắn trữ tình và truyện ngắn hiện thực.
Truyện ngắn trữ tình xuất hiện muộn trong lịch sử văn học dân tộc.
Loại hình truyện ngắn này chỉ thực sự bắt đầu vào những năm 30 của thế
kỷ trớc với những tên tuổi nh Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Xuân

22
Diệu Sau Cách mạng tháng Tám, do điều kiện chiến tranh, truyện ngắn
trữ tình hầu nh vắng bóng. Phải đến những năm 60, truyện ngắn trữ tình
mới bắt đầu trở lại. Tuy cha tạo đợc một gơng mặt nổi bật nh trớc

Cách mạng nhng loại hình truyện ngắn này cũng đã tạo nên sự đa dạng,
phong phú hơn cho văn học thời kỳ này. Những cây bút tiêu biểu phải kể
đến Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyên Ngọc, Nguyễn Thành Long, Đỗ Chu,
Nguyễn Thị Nh Trang, Anh Đức, Đinh Quang Nhã Đặc điểm nổi bật
của loại hình truyện ngắn trữ tình là ở cách tiếp cận đời sống. Các cây bút
thuộc xu hớng này không đi sâu vào những xung đột, mâu thuẫn mang
tính xã hội, giai cấp mà thờng đi sâu vào khám phá nội tâm con ngời với
những rung động tinh tế trớc cuộc đời. Bên cạnh đó, cốt truyện không có
chuyện cũng là một dấu hiệu để làm nên đặc trng của truyện ngắn trữ
tình. Truyện thờng đợc kết nối bằng thủ pháp dòng ý thức. Những sự
kiện, chi tiết tởng nh không có gì liên quan đến nhau nhng thực ra
chúng vẫn có một kết cấu bên trong chặt chẽ là nhờ vào sự vận động của ý
thức, tâm trạng. Do đi sâu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật nên trần
thuật từ ngôi thứ nhất là kiểu trần thuật phổ biến ở loại hình truyện ngắn
này. Và cũng chính điều này đã làm cho khoảng cách giữa nhà văn và độc
giả đợc rút ngắn, tạo độ tin cậy cao cho tác phẩm. Nhịp điệu trần thuật
của loại hình truyện ngắn trữ tình thờng chậm rãi, khoan thai do có sự
xuất hiện với tần số cao của những dòng hồi tởng của nhân vật, những lời
bình luận của tác giả, những đoạn văn trữ tình ngoại đề
Loại hình truyện ngắn hiện thực chiếm số lợng lớn trong truyện
ngắn giai đoạn này. Nhìn chung về mặt cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ,
nghệ thuật trần thuật cha có gì mới. Phần lớn vẫn chịu ảnh hởng của
truyện truyền thống. Chẳng hạn, cốt truyện vẫn có chức năng bộc lộ các
mâu thuẫn xung đột xã hội thông qua hệ thống sự kiện, kết cấu truyện theo
trật tự thời gian tuyến tính, kết thúc có hậu Nhân vật chủ yếu là nhân vật
loại hình và loại hình kết hợp với tính cách. Nhân vật tính cách còn cha
xuất hiện. Nhân vật t tởng hầu nh không có. Nghệ thuật trần thuật cũng
hầu nh không có gì mới. Phần lớn "truyện đợc trần thuật từ ngôi thứ ba,
không nhân vật hóa mà đằng sau là tác giả". Không đi sâu vào nội tâm
nhân vật, truyện ngắn hiện thực chú trọng đến những gì diễn biến bên

ngoài do đó nhịp điệu trần thuật nhanh, gấp gáp, khẩn trơng để theo kịp
diễn tiến của sự kiện.

23
4. Phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt, truyện ngắn một mặt kế thừa
và phát huy những thành tựu của những giai đoạn trớc, mặt khác cũng đã
tạo nên những đặc điểm thi pháp riêng của thể loại trong một hoàn cảnh
lịch sử nhất định. Luận án tập trung khảo sát ba vấn đề thuộc về thi pháp
thể loại. Đó là: kết cấu, các kiểu loại nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ.
Qua sự khảo sát, phân tích chúng tôi nhận thấy những đặc điểm thi pháp
thể loại truyện ngắn của giai đoạn này nh sau:
Về kết cấu: chủ yếu vẫn mang tính quy phạm của truyện truyền
thống nh: hệ thống sự kiện vẫn là chất liệu chủ yếu để xây dựng cốt
truyện, biến cố vẫn giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy cốt truyện phát
triển, kết thúc truyện vẫn theo mô hình có hậu, khép kín. Cách tổ chức hệ
thống sự kiện vẫn theo thời gian tuyến tính. Kiểu kết cấu hiện đại cũng đã
xuất hiện trở lại nhng cha đã dạng, mới chỉ dừng lại ở kiểu truyện không
có chuyện,. Tơng ứng với kiểu cốt truyện này là kết cấu tác phẩm theo thủ
pháp "dòng ý thức" và kiểu kết thúc không hoàn kết". Nếu so sánh với văn
học sau 1975 thì những dấu hiệu đổi mới này vẫn còn quá ít ỏi và cha
phaong phú.
Về các kiểu loại nhân vật: Nhân vật là sự hiện thực hóa quan niệm
nghệ thuật về con ngời của nhà văn. Do đó, trớc khi đi vào tìm hiểu thế
giới nhân vật, luận án tập trung tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con
ngời của truyện ngắn 1945 - 1975. Đi vào khảo sát, chúng tôi nhận thấy
có hai kiểu ngời cơ bản. Thứ nhất: Con ngời chính trị, con ngời công
dân với những biểu hiện cụ thể qua các thời kỳ là: con ngời cộng đồng
trong truyện ngắn chống Pháp, con ngời thống nhất riêng chung trong
truyện ngắn thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và con ngời sử thi


trong truyện ngắn chống Mỹ. KIểu ngời này chiếm vị trí quan trọng trong
truyện ngắn 1945 - 1975. Kiểu ngời thứ hai là con ngời cá nhân với
những biểu hiện cụ thể là con ngời tự nhiên và con ngời hớng nội. Con
ngời cá nhân xuất hiện nhiều nhất trong một số truyện ngắn ra đời vào
những năm cuối của thập kỷ 50 (sau cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa
bình lập lại trên miền Bắc). Kiểu ngời này đã từng phải chịu sự phê phán
của d luận vì đã đi chệnh ra khỏi quỹ đạo của nền văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa, theo quan niệm hồi bấy giờ. Tuy nhiên, từ chỗ đứng của
ngày hôm nay, chúng tôi nhận thấy, sự xuất hiện của con ngời cá nhân là
hợp quy luật, là sự tiếp nối của con ngời cá nhân trớc Cách mạng. Sau

24
1975, không còn chịu sự chi phối của chiến tranh, con ngời cá nhân sẽ trở
lại và giữ một vị trí quan trọng trên văn đàn.
Tơng ứng với kiểu quan niệm con ngời chính trị, con ngời công
dân là kiểu nhân vật loại hình với phơng thức thể hiện phù hợp. Họ đợc
xây dựng để minh chứng cho phẩm chất yêu nớc của con ngời Việt Nam.
Nhìn chung, kiểu nhân vật này trong truyện ngắn cha tạo đợc những điển
hình sắc nét. Điều đó chúng tỏ, các tác giả cha nắm đợc bản chất của
hiện thực, mới chỉ chú ý đến sự minh họa đơn thuần những chủ trơng,
chính sách của Đảng. Nhân vật loại hình kết hợp với tính cách đã xuất hiện
nhng cha nhiều. Dù sao, sự xuất hiện của kiểu nhân vật loại hình kết hợp
với tính cách cũng đã cho thấy tay nghề của nhà văn đã đợc nâng cao, họ
đã có thể nhìn thấy bản chất của hiện thực, xây dựng đợc những nhân vật
sống cùng thời gian (ông Năm Hạng trong Ông Năm Hạng - Nguyễn
Quang Sáng, Đào trong Mùa lạc - Nguyễn Khải, ông Tám Xẻo Đớc trong
Đất - Anh Đức ).
Về giọng điệu: Hớng tới sự thống nhất trong quan điểm của ngời
trần thuật và nhân vật chính nên tính đơn giọng là đặc điểm riêng của
truyện ngắn thời kỳ này. Những biểu hiện cụ thể của nó có thể là giọng

trang trọng, ngợi ca hoặc giọng cảm thông, chia sẻ. Ngôn ngữ: Cũng mang
dấu ấn của thời kỳ đấu tranh cách mạng gian khổ mà hào hùng của dân tộc.
Đó là ngôn ngữ chau chuốt, giàu chất thơ; ngôn ngữ đời thờng mộc mạc

và ngôn ngữ hành chính khuôn mẫu. Nhìn chung ngôn ngữ mang tính đại
chúng cao, gần gũi với cuộc sống của ngời lao động.
5. Bên cạnh những thành tựu, truyện ngắn giai đoạn này vẫn còn tồn
tại một số hạn chế. Do chú trọng đến chức năng tuyên truyền, cổ vũ công
cuộc giữ nớc và dựng nớc của dân tộc mà truyện thờng đi sâu khai thác
mặt thuận chiều khiến cho hiện thực đợc phản ánh rơi vào sự sơ lợc, giản
đơn. Cũng do yêu cầu của lịch sử mà nhân vật chỉ đợc khai thác ở phơng
diện xã hội, đời sống nội tâm cha đợc quan tâm nhiều nên nhân vật thiếu
sinh động, cha có sức sống lâu bền
Hiện nay, bên cạnh những cách đánh giá tơng đối nhất quán, cũng
vẫn có nhiều ý kiến trái ngợc về thành tựu của nền văn học Cách mạng
nói chung, trong đó có truyện ngắn. Tuy nhiên, theo chúng tôi những gì mà
truyện ngắn 1945 - 1975 đã đạt đợc là không thể phủ nhận. Đây vẫn là
một thể loại cần nhiều sự nghiên cứu công phu và tâm huyết để tránh rơi
vào tình trạng khen chê cảm tính.

×