- 1 -
THÔNG TIN ĐỐI VỚI QUI TRÌNH TÍN DỤNG:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Ngô Vi Trọng, Lê Hồ An Châu
Học viện ngân hàng, PV- TP.HCM
216 Hoàng Diệu, Quận Thủ Đức, Tp.Hồ Chí Minh
Ngày nay, sự toàn cầu hóa hội nhập kinh tế, một xu thế nổi bật
trong những năm đầu thế kỷ 20 đã và đang tạo ra những mối quan hệ mới giữa
các quốc gia, các nền kinh tế và các dân tộc trên thế giới. Là một nước đi sau,
Việt Nam hiện đang nỗ lực cải cánh kinh tế nhằm cố gắng tìm cho mình một chỗ
đứng trên trường quốc tế vốn đã bị chi phối bởi nhiều quốc gia và tập đoàn kinh
tế lớn. Tuy nhiên, trong các cuộc cạnh tranh trên thế giới và ngay cả trên sân nhà,
các ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTMVN) vẫn còn phải chịu nhiều thua
thiệt, trong đó có thua thiệt về mặt thông tin. Vì vậy, việc đánh giá đúng tầm
quan trọng của thông tin tín dụng và tìm ra những giải pháp thiết thực khắc phục
tình trạng đói thông tin tín dụng ở Việt Nam nhằm lành mạnh hóa hệ thống ngân
hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTMVN không chỉ là yêu cầu của
hội nhập quốc tế mà còn là cơ sở đảm bảo cho một quốc gia có thể tận dụng được
lợi thế và khắc phục được những hạn chế của quá trình toàn cầu hóa.
Trong thực tế, mục tiêu cơ bản của hầu hết các NHTM là: lợi nhuận, an
toàn và sự lành mạnh của các khoản tín dụng. Do đó, một qui trình tín dụng được
thiết kế hợp lý và áp dụng một cách linh hoạt sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro, nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM. Tùøy thuộc vào qui mô của
từng ngân hàng, năng lực của đội ngũ nhân sự, mức độ ứng dụng công nghệ tin
học, thời hạn cho vay, hình thức cho vay và lĩnh vực cho vay mà qui trình tín
dụng có thể được thiết kế khác nhau. Nhưng, dù được thiết kế như thế nào đi
- 2 -
chăng nữa thì thông tin vẫn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, giúp cho các
ngân hàng xác định khá chính xác về đối tượng vay vốn, uy tín, thiện chí trả nợ,
tính khả thi của dự án đầu tư kinh doanh của khách hàng. Thông tin chính là cơ
sở để các NHTM tin tưởng vào khách hàng của mình. Bởi vì, quan hệ tín dụng
luôn được hình thành dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách
hàng. Điều đó có nghĩa là ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi và chỉ khi
ngân hàng đã hoàn toàn tin tưởng vào khả năng hoàn trả (vốn + lãi) của khách
hàng khi đáo hạn.
Để các khoản cho vay an toàn và hiệu quả, thông tin phải được ngân hàng
khai thác từ nhiều nguồn khác nhau như: hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, hồ sơ khách
hàng, các cơ quan chức năng có liên quan (cơ quan thuế, trung tâm thông tin tín
dụng của Ngân hàng nhà nước...), trực tiếp phỏng vấn khách hàng, cập nhật
thông tin trên thị trường...nhằm phục vụ kịp thời cho các giai đoạn của qui trình
tín dụng. Như vậy, sau khi nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, ngân hàng phải tiến
hành phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về việc sử dụng
vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng từ những thông tin
cơ bản này nhằm đưa ra những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Tất nhiên
để có được những thông tin chính xác và đầy đủ ngân hàng phải biết cách tạo ra
thông tin cho riêng mình. Giai đoạn phân tích tín dụng là giai đoạn quan trọng,
song giai đoạn quyết định tín dụng lại là giai đoạn quyết định nhất, hình thành
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng thể hiện bằng hợp đồng tín dụng.
Đây cũng là cơ sở để các nhân viên và nhà quản trị ngân hàng triển khai các thao
tác nghiệp vụ giải ngân cho khách hàng, tiến hành giám sát và thanh lý tín dụng.
Thông tin chính xác, quyết định tín dụng hợp lý chắc chắn khả năng quay về của
vốn tín dụng cao, vốn tín dụng được hoàn trả đúng hạn, góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động tín dụng và hoạt động ngân hàng.
- 3 -
NHỮNG THÔNG TIN KHÁC
Trong qui trình tín dụng, kết quả của giai đoạn trước luôn là tiền đề để
thực hiện các giai đoạn tiếp theo, ảnh hưởng đến chất lượng công việc của các
giai đoạn sau. Nhưng, tùy từng trường hợp cụ thể mà các giai đoạn của qui trình
tín dụng có thể được các cán bộ tín dụng áp dụng một cách linh hoạt tạo thuận
lợi cho khách hàng vay vốn. Kết quả đánh giá của các cán bộ tín dụng sẽ quyết
định đến hiệu quả tín dụng. Nếu kết quả đánh giá sai sẽ làm giảm những khách
QUI TRÌNH TÍN DỤNG
Giai đoạn 1:
Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
Giai đoạn 2:
Phân tích tín dụng
Giai đoạn 3:
Quyết định tín dụng
Giai đoạn 4:
Giải ngân
Giai đoạn 5:
Giám sát và thanh lý tín dụng
Hồ sơ
khách hàng
- 4 -
hàng truyền thống và ngân hàng gặp phải nguy cơ không thu hồi nợ. Đối với các
khách hàng quan hệ lần đầu thì ngân hàng phải có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể
về thủ tục, phương thức cho vay và đặc biệt quan tâm khả năng trả nợ, trách
nhiệm trong quản lý kinh doanh của khách hàng. Đối với khách hàng thường
xuyên và lâu năm thì công việc sẽ dễ dàng hơn, bởi vì ngân hàng đã có những
thông tin nhất định về khách hàng của mình. Tất nhiên, ở tất cả các trường hợp,
ngân hàng đều phải thận trọng, xem xét một cách kỹ lưỡng trước khi ra quyết
định cho vay và giám sát chặt chẽ sau khi đã giải ngân nhằm đảm bảo khách
hàng sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả nhất. Nhất là những hồ sơ xin vay
vốn phức tạp hoặc giá trị lớn thì công việc trao đổi thông tin và thực hiện công
việc bổ sung giữa các giai đoạn được diễn ra nhiều lần và tuân thủ đúng trình tự
qui trình tín dụng.
Thực tế, thông tin tín dụng vẫn chưa được các NHTMVN khai thác triệt
để phục vụ cho các giai đoạn của qui trình tín dụng là do những nguyên nhân chủ
quan và khách quan chủ yếu sau:
Nguyên nhân chủ quan:
− Do chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của thông tin nên các
NHTMVN chưa có biện pháp xử lý, khai thác thông tin một cách hiệu quả nhất
phục vụ cho toàn bộ qui trình tín dụng. Thêm vào đó, nhiều NHTMVN chỉ ngồi
chờ để nhận thông tin mà không chủ động tìm kiếm, làm chủ thông tin đã để chi
nhánh các ngân hàng nước ngoài dần dần chiếm lĩnh thị phần tiền gửi và thị phần
hoạt động tín dụng. Rõ ràng, chính bản thân các NHTMVN đánh mất niềm tin
nơi khách hàng, mất đi thị phần và cơ hội khẳng định mình trên thị trường tín
dụng trong nước.
− Các NHTMVN thiếu một đội ngũ cán bộ tín dụng có đạo đức nghề
nghiệp trong sáng, trình độ chuyên môn cao, thông thạo kỹ năng phân tích doanh
nghiệp, chuyên sâu về nghiệp vụ thông tin tín dụng… nên các nguồn thông tin
chưa được khai thác triệt để dẫn đến kết quả phân tích tín dụng không chính xác,
hiệu quả tín dụng kém.
- 5 -
− Thủ tục cho vay chưa được thiết kế phù hợp với từng nhóm khách
hàng, từng loại cho vay nên khi khách hàng đến vay vốn, NHTM chỉ hướng dẫn
chung chung mà không hướng dẫn chi tiết, đầy đủ những thủ tục cần thiết để
khách hàng có thể chuẩn bị một lần. Đến khi vấn đề khó khăn phát sinh, ngân
hàng mới yêu cầu khách hàng phải bổ sung thông tin, hồ sơ có liên quan gây
phiền hà cho khách hàng, làm lãng phí thời gian và tốn kém về tiền bạc của
khách hàng.
− Mạng lưới ngân hàng chưa vững mạnh, bộ phận thu thập, lưu trữ và
khai thác thông tin chưa được quan tâm đầu tư phát triển. Do đó, ngân hàng lệ
thuộc nhiều vào các tổ chức cung cấp thông tin bên ngoài. Nguồn thông tin đó
vừa tốn kém vừa chẳng đáng tin cậy, buộc ngân hàng phải thẩm định lại độ chính
xác của thông tin. Nhiều ngân hàng phải phỏng đoán theo cảm tính mà cho vay vì
nếu ngân hàng đi thẩm định lại thông tin thì chi phí sẽ cao và mất nhiều thời gian.
Như vậy, rủi ro trong hoạt động tín dụng cao là tất yếu.
− Thông tin hai chiều giữa các NHTMVN với nhau và với trung tâm
thông tin tín dụng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chưa thông suốt làm giảm
đi hiệu quả hoạt động thông tin tín dụng, ảnh hưởng chất lượng nguồn dữ liệu,
chưa đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng tăng của các ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan:
− Việt Nam cơ bản vẫn là một nước lạc hậu về thông tin, nguồn cung
cấp thông tin không đầy đủ, hệ thống thông tin vẫn còn nghèo nàn, kém phát
triển so với thế giới. Thông tin chưa phục vụ tốt cho công tác quản lý và điều
hành của bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, thiếu thông tin từ
trong nước lẫn từ nước ngoài cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
nghiên cứu khoa học… Chính vì thế, các NHTMVN mất nhiều thời gian để thẩm
định và đưa ra quyết định tín dụng do khó mà nắm bắt kịp thời sự thay đổi không
ngừng về thông tin trong nước lẫn các thông tin thương mại quốc tế, thông tin về
tình hình tài chính của đối tác nhập khẩu hàng hóa Việt Nam… gây cản trở đến