Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tài liệu Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.25 KB, 31 trang )

NHỮNG MỐI ĐE DOẠ ĐỐI VỚI ĐA DẠNG SINH HỌC
Những hoạt động của con người đã làm cho rất nhiều loài bị tuyệt chủng. Kể từ năm
1600 đến nay khoảng 21% các loài động vật và 1,3% các loài chim trên thế giới đã bị
tuyệt chủng. Tốc độ tuyệt chủng của các loài trở nên ngày càng cao. Những loài còn
sống sót thì cũng có nguy cơ đứng bên bờ của sự tuyệt chủng. Hơn 99% những sự
tuyệt chủng thời cận đại là do con người gây ra .
Những loài sống trên các đảo đặc biệt rất dễ tuyệt chủng vì chúng chỉ sống được trên
một hay một số ít hòn đảo. Mô hình sinh địa của đảo được sử dụng để dự báo rằng với
tốc độ phá hủy nơi cư trú như hiện nay thì mỗi năm sẽ có 25.000 loài sẽ bị tuyệt chủng
trong vòng 10 năm tới. Nhiều quần xã sinh học đang dần dần bị mai một bởi những sự
tuyệt chủng cục bộ của loài.
Hạn chế việc gia tăng dân số loài người là một giải pháp hữu hiệu giải quyết cuộc
khủng hoảng của đa dạng sinh học. Hơn nữa những hoạt động quy mô lớn của công
nghiệp khai thác gỗ và nông nghiệp thường dẫn đến việc hủy hoại môi trường tự nhiên
không cần thiết, làm ảnh hưởng đến việc khai thác dài hạn các nguồn lợi thiên nhiên.
Những nỗ lực nhăm hạn chế sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở những nước
cộng nghiệp phát triển và việc xóa đói giảm nghèo tại các nước đang phát triển đóng vai
trò rất quan trọng trong chiến lược tống thể bảo vệ đa dạng sinh học.
Nguy cơ lớn nhất đe dọa đa dạng sinh học là việc mất các nơi cư trú; bởi vậy việc làm
quan trọng nhất để bảo vệ đa dạng sinh học là bảo tồn các nơi cư trú. Các nơi cư trú đặc
biệt đang bị đe dọa hủy hoại là các khu rừng mưa, rừng khô nhiệt đới, các vùng đất
ngập nước ở tất cả các vùng khí hậu, các vùng đồng cỏ ôn đới, rừng ngập mặn, và các
dải san hô. Nơi cư trú bị chia cắt là quá trình mà những khu vực rộng lớn, liên tục của
nơi sinh sống bị giảm về diện tích hay bị chia cắt xé lẻ nơi ra làm hai hay nhiều phần
nhỏ. Việc việc chia cắt xé lẻ nơi cư trú có thể dẫn đến sự mất mát nhanh chóng của các
loài còn lại bởi vì chúng tạo ra những rào chắn ngăn cản việc phát tán, việc định cư và
kiếm mồi của các loài động vật. Môi trường sống trong phần bị chia cắt xé lẻ sẽ bị thay
đổi và các côn trùng gây hại sẽ trở nên phổ biến hơn.
Sự ô nhiễm môi trường loại bỏ rất nhiều loài ra khỏi quần xã sinh học của chúng kể cả
ở những nơi mà cấu trúc quần xã không bị ảnh hưởng lớn. Sự ô nhiễm môi trường bao
gồm: sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, các chất thải công nghiệp, phân bón hóa học


và ô nhiễm không khí gây ra mưa axit, nitơ bị lắng đọng quá mức, các khí quang
hóa và khí ôzôn. Như chúng ta đã biết khí hậu địa cầu có thể bị thay đổi trong thế kỷ
XXI bởi vì lượng khí cacbonnic thải vào khí quyên quá lớn do quá trình đốt cháy các
nhiên liệu hóa thạch. Mức độ tăng nhiệt độ dự kiến sẽ nhanh đến mức nhiều loài không
thê nào điều chỉnh được biên độ sống của chúng và sẽ bị tuyệt chủng.
Hiện nay tình trạng nghèo khó vẫn diễn ra ở nông thôn. Việc cải tiến đạt hiệu quả cao
hơn các phương pháp săn bắn và hái lượm, quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế đã thúc
đẩy sự khai thác quá mức đối với rất nhiều loài, đẩy chúng đến sự tuyệt chủng. Các nền
văn minh của các xã hội trước đây có những truyền thống, thói quen hạn chế khai thác
tài nguyên quá mức, nhưng ngày nay, những truyền thống đó đã bị phá vỡ và con người
vô tình hoặc hữu ý đã chuyển hàng ngàn loài đến những vùng đất mới trên thế giới. Một
số loài nhập cư đã có tác động xấu đối với các loài bản địa dẫn đến dịch bệnh và động
vật sống ký sinh thường gia tăng khi các loài động vật bị nuôi nhốt tại những khu bảo
tồn thiên nhiên và không thể di chuyển đi lại trong một địa bàn rộn lớn. Động vật bị
nuôi nhốt thường có tỷ lệ bị mắc bệnh cao và các bệnh dịch đôi khi lan truyền giữa các
loài động vật có quan hệ họ hàng với nhau.
Các loài động vật dễ bị tuyệt chủng có những đặc điểm nhất định như: có vùng phân
bố địa lý hẹp, chỉ có một hay ít quần thể, kích thước quần thể nhỏ, quần thể bị suy
giảm về số lượng và có giá trị kinh tế đối với con người dẫn đến việc bị khai thác
quá mức .
Các nhà sinh học đã nhận thấy rằng các quần thể nhỏ có nguy cơ bị tuyệt chủng cao hơn
nhiều so với các quần thể lớn. Kích thước tối thiểu của quần thế (Minimum viable
population) chính là số lượng cá thê cần đủ để đảm bảo cho một quần thể có khả năng
sống sót cao trong tương lai gần. Có ba nguyên nhân chính dẫn đến sự tuyệt chủng của
các quần thể nhỏ: sự mất đi khá năng trao đổi gen và suy giảm sức sống do giao phối
gần; sự dao động về số lượng cá thể; sự biến đối môi trường do thiên tai. Các hệ quả
tổng hợp của các yếu tố trên được so sánh như yếu tố chính làm cho các quần thể nhỏ bị
tuyệt chủng. Để tính toán số lượng quần thể tối thiểu có thể sống sót của một quần thể
và khả năng chống chịu của quần thể đó trong một môi trường nhất định, ta phải sử
dụng các số liệu về chủng quần học, gen, môi trường, thiên tai trong phân tích khả năng

sống sót của quần thể. Các nhà sinh học bảo tồn cũng khẳng định rằng bằng cách quan
trắc các quần thể của một loài có nguy cơ bị đe dọa, có thể biết được hiện trạng số
lượng, của loài đó hoặc đang ổn định, đang tăng lên, đang dao động hay đang suy giảm.
Thường thì điều chủ yếu để bảo vệ và quản lý một loài quý hiếm hay có nguy cơ tuyệt
chủng chính là phải hiểu được lịch sử tự nhiên của loài đó. Một số loài qúy hiếm được
mô tả một cách chính xác hơn như là các quần thể biến thái trong đó một nhóm các
quần thể tạm thời được nối kết với nhau do sự di cư, sự nhập cư và sự xâm chiếm. Các
quần thể mới của các loài quý hiếm và quần thể loài có nguy cơ tuyệt chủng có thể
được tái phục hồi trong tự nhiên bằng cách sử dụng các cá thể hoặc được nuôi hay bị
bắt ở ngoài tự nhiên. Trước khi thả ra tự nhiên, chim và thú được nuôi trong chuồng có
thể phải được huấn luyện về tập tính săn mồi và sau khi được thả ra, chim và thú đó
cũng thường phải được duy trì sự chăm sóc ở một mức độ nhất định. Việc tái lập phục
hồi đưa vào các loài thực vật đòi hỏi phải có một phương thức khác do yêu cầu về
môi trường chuyên hoá tại các giai đoạn gieo hạt và nảy mầm. Một số loài đang có
nguy cơ tuyệt chủng ở ngoài thiên nhiên có thể được duy trì ở các vườn thú, các vườn
thực vật các bể nuôi; cách thức này được biết như là phương pháp bảo tồn ngoại vi. Đôi
khi các loài được nuôi chiếm ưu thế có thể được sử dụng về sau để tái lập các loài đó ở
ngoài thiên nhiên.
Nhằm nêu bật tình trạng của các loài nằm trong mục đích bảo tồn IUCN đã đưa ra năm
mức báo tồn chính: tuyệt chủng, có nguy cơ, dễ bị tổn thương, quý hiếm và chưa có
thông tin đầy đủ. Hệ thống phân loại này ngày nay được sử dụng rộng rãi để đánh giá
tình trạng của các loài và lập các ưu tiên về bảo tồn.
Hiện nay một số những đạo luật có hiệu quả về bảo vệ các loài Đang có Nguy cơ
Tuyệt chủng được ban hành ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những đạo luật này thường
là trung tâm của các cuộc tranh cãi giữa các lợi ích về môi trường, và lợi ích kinh tế .
Một sự thật hết sức hiển nhiên là một số loài sinh vật có khả năng di cư xuyên biên giới
cho nên việc kiểm soát các loài cần phải có sự liên kết giữa các quốc gia. Các hoạt động
buôn bán quốc tế về các sản phẩm sinh học, tầm quan trọng quốc tế của các lợi ích về
đa dạng sinh học và tính quốc tế của các mối đe dọa đối với tính đa dạng nên cần thiết
phải có các công ước và thỏa thuận quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học. Công ước

Quốc tế về buôn bán các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng (CITES) đã được ban
hành nhằm kiểm soát và quan trắc việc buôn bán các động vật có nguy cơ bị đe doạ;
ngày càng được xem là một cứu cánh lớn nhất của NHÂN LOẠI trong việc bảo tồn đa
dạng sinh học của hành tinh chúng ta.
RỪNG
Việt Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông nam Á giàu về đa dạng
sinh học. Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần Xích đạo tới giáp
vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên
nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Một dải rộng các thảm
thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã được hình thành ở các độ cao khác
nhau như các rừng thông chiếm ưu thế ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới, rừng hỗn loại lá
kim và lá rộng, rừng khô cây họ Dầu ở các tỉnh vùng cao, rừng họ Dầu địa hình thấp
rừng ngập mặn cây Đước chiếm ưu thế ở ven biển châu thô sông Cửu Long và sông
Hồng rừng Tràm ở đồng bằng Nam bộ và rừng hỗn loại tre nứa ở nhiều nơi.
Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài nhiều
thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt Nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã
thống kê được 10.484 loài thực vật bậc cao có mạch. khoảng 800 loài rêu và 600 loài
nấm. Theo dự đoán của các nha thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ
lên đến 12.000 loài, trong đó có khoảng 2.300 loài đã được nhân dân dùng làm nguồn
lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều
nguyên vật liệu khác. Chắc chắn rằng hệ thực vật Việt Nam còn nhiều loài mà chúng ta
chưa biệt công dụng của chúng. Cũng có thể có rất nhiều loài có tiềm năng như một
nguồn cung cấp dược liệu hết sức quan trọng.
Hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao. Tuy rằng hệ thực vật Việt Nam không có
các họ đặc hữu và chỉ có khoảng 3% số chi là đặc hữu (như các chi Ducampopinus,
Colobogyne) nhưng số loài đặc hữu chiếm khoảng 33% số loài thực vật ở miền Bắc
Việt Nam và hơn 40% tổng số loài thực vật toàn quốc (Thái Văn Trừng, 1970). Phần
lớn số loài đặc hữu này tập trung ở bốn khu vực chính: khu vực núi cao Hoàng Liên
Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở
phía Nam và khu vực rừng mưa ở phần Bắc Trung Bộ. Nhiều loài là đặc hữu địa

phương chỉ gặp trong một vùng rất hẹp với số cá thể rất thấp. Các loài này thường rất
hiếm vì các khu rừng ở đây thường bị chia cắt thành những mảnh nhỏ hay bị khai thác
một các mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường không có loài
chiếm ưu thế rõ rệt nên số lượng cá thể của từng loài thường hạn chế và một khi đã bị
khai thác, nhất là khai thác không hợp lý thì chúng chóng bị kiệt quệ. Đó là tình trạng
hiện nay của một số loài cây gỗ quý như Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa) Gụ mật (Sindora
siamensis) nhiều loài cây làm thuốc như Hoàng liên chân gà (Coptis chinensis), Ba
kích (Morinda officinalis)... thậm chí có nhiều loài đã trở nên hiếm hay có nguy cơ bị
tiêu diệt như Thông nước (Glyptostrobus pensilis), Hoàng đàn (Cupressus terbulosa),
Bách xanh (Calocedrus macolepis), Cẩm lai Bà Rịa (Dalbergia bariaensis), Pơmu
(Fokiena hodginsii) v.v.
Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 275 loài thú,
828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, 472 loài cá nước ngọt, khoảng 2.000
loài cá biển và thêm vào đó có hàng chục ngàn loài động vật không xương sống ở cạn,
ở biển và nước ngọt (Đào Văn Tiến, 1985; Võ Quý, 1997; Đặng Huy Huỳnh, 1978). Hệ
động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo,
đại diện cho vùng Đông nam á. Cũng như thực vật giới động vật giới Việt Nam có
nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc
hữu. Có rất nhiều loài dộng vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về
bảo vệ như: Voi, Tê giác Giava, Bò rừng, Bò tót, Trâu rừng, Bò xám, Nai cà tông, Hổ,
Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá, Voọc xám, Voọc mũi hếch, Sếu cổ trụi, Cò quắm cánh
xanh, Cò quắm lớn, Ngan cánh trắng, nhiều loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển...
Theo tài liệu (Review of the Protected Areas System in the Indo - Malayan Realm,
MacKinnon, MacKinnon, 1986) thì Việt Nam khá giàu về thành phần loài và có mức
độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Trong số 21 loài
khỉ có trong vùng phụ này thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc hữu của
vùng phụ (Eudeyl 1987). Có 49 loài chim đặc hữu trong vùng phụ, ở Việt Nam có 33
loài trong đó có 10 loài đặc hữu của Việt Nam, so với Miến Điện, Thái Lan, Malaixia,
Hải Nam, mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào một loài và Campuchia không có loài đặc hữu nào

cả. Khi xem xét về sự phân bố của các loài ở trong vùng phụ Đông Dương nói chung,
số loài thú và chim và các hệ sinh thái có ngụy cơ bị tiêu diệt nói riêng và sự phân bố
của chúng. Chúng ta có thể nhận rõ rằng Việt Nam là một trong những vùng xứng đáng
có ưu tiên cao về vấn đề bảo vệ. Không những thế, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có
những phát hiện mới rất lý thú. Chỉ trong hai năm 1992 và 1994 đã phát hiện được ba
loài thú lớn, trong đó có hai loài thuộc vùng rừng Hà Tĩnh là loài Sao la (Pseudoryx
nghetinhensis) và loài Mang lơn hay còn gọi là Mang bầm (Megamuntiacus
vuquangensis), nơi mà trước đây không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới,
loài Gà lam đuôi trắng hay còn gọi là Gà lừng (Lophura hatinhensis).
Ngày 21 tháng 10 năm 1994 một loai thú lớn mới thứ ba là loài (Pseudonovibos
spiralis) ở Tây Nguyên, tạm gọi là loài Bò sừng xoắn được công bố và năm 1997 một
loài thú lớn mới nữa cho khoa học được mô tả đó là loài Mang Trường Sơn
(Caninmuntiacus truongsonensis) tìm thấy lân đầu tiên ở vùng Hiên, thuộc tỉnh
Quảng Nam. ở khu vực Vũ Quang trong những năm gần đây phát hiện được thêm một
loài cá mới cho khoa học: Opsarichthys vuquangensis. Chúng ta tin rằng ở Việt Nam
chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật chưa được các nhà khoa học biết đến.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này, có thể đáp ứng những nhu cầu
hiện tại và tương lai của nhân dân Việt Nam trong quá trình phát triển, cũng như đã đáp
ứng những nhu cầu ấy trong quá khứ. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là
cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà
còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới. Tuy nhiên
thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên này, nhân dân Việt Nam dưới danh nghĩa Phát triển
kinh tế đang khai thác quá mức và phí phạm nguồn tài nguyên quý giá này. Nhiều loài
hiện đã trở nên hiếm một số loài đang có nguy cơ bị diệt vong. Nếu biết sử dụng đúng
mức và quản lý tốt nguồn tài nguyên sinh học của Việt nam có thể trở thành nguồn tài
nguyên tái tạo rất có giá trị thế nhưng nguồn tài nguyên này đang suy thoái nhanh
chóng. Nếu bạn là một con người tâm huyết bạn sẽ nghĩ gì ?
Việt Nam
Việt Nam được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh
học cao nhất thế giới, với nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối, rạn san hô... tạo nên

môi trường sống cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã trên thế giới.
Việt Nam được Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) công nhận có 3 trong hơn 200
vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife) công nhận là một trong 5
vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) công nhận có 6 trung
tâm đa dạng về thực vật.
Việt Nam còn là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của nhiều loại cây trồng, vật nuôi,
trong đó có hàng chục giống gia súc và gia cầm. Đặc biệt các nguồn lúa và khoai, những
loài được coi là có nguồn gốc từ Việt Nam, đang là cơ sở cho việc cải tiến các giống lúa và
cây lương thực trên thế giới.
Hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, hơn 21.000 loài
thực vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng để cung
cấp vật liệu di truyền.
Trong 30 năm qua, nhiều loài động thực vật được bổ sung vào danh sách các loài của Việt
Nam như 5 loài thú mới là sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, chà vá chân xám và thỏ
vằn Trường Sơn, 3 loài chim mới là khướu vằn đầu đen, khướu Ngọc Linh và khướu Kon
Ka Kinh, khoảng 420 loài cá biển và 7 loài thú biển. Nhiều loài mới khác thuộc các lớp bò
sát, lưỡng cư và động vật không xương sống cũng đã được mô tả.
Về thực vật, tính từ năm 1993 đến năm 2002, các nhà khoa học đã ghi nhận thêm 2 họ, 19
chi và trên 70 loài mới. Tỷ lệ phát hiện loài mới đặc biệt cao ở họ Lan.
Để bảo vệ và duy trì hệ sinh thái này, trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường đầu
tư cho các chương trình, dự án bảo tồn sinh học. Theo báo cáo môi trường Việt Nam 2005,
tổng kinh phí đầu tư cho bảo tồn đa dạng sinh học năm 2005 đạt xấp xỉ 51,8 triệu USD,
gấp 10 lần so với một thập kỷ trước.
Pec Mơ
Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permin-kỷ Trias
Kỷ Permi kết thúc với sự kiện tuyệt chủng rộng lớn nhất được ghi lại trong cổ sinh vật học:
Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias. 90% đến 95% các loài sinh vật biển đã tuyệt
chủng, cũng như khoảng 70% loài sinh vật trên cạn. Ở mức độ riêng rẽ, có lẽ tới 99,5% số
lượng các loại sinh vật khác nhau đã biến mất do hậu quả của sự kiện này.
Ở đây cũng có các chứng cứ đáng kể cho thấy sự ngập lụt rộng khắp gây ra bởi đá bazan

nóng chảy từ sự phun trào macma đã gây ra sức ép môi trường và dẫn tới sự tuyệt chủng
hàng loạt. Sự suy giảm môi trường sống ven biển và độ khô cằn tăng lên cũng góp phần
vào sự kiện này.
Một giả thuyết khác cho rằng đó là do sự phun trào khí sulfua hiđrô từ lòng biển cả. Các
phần của đại dương bị mất ôxy hòa tan trong nước theo chu kỳ đã cho phép các chủng loại
vi khuẩn sống không cần ôxy có thể phát triển mạnh mẽ và tạo ra một lượng lớn khí sulfua
hiđrô. Nếu một lượng lớn khí này được tích lũy trong khu vực thiếu ôxy thì nó có thể thoát
ra ngoài khí quyển.
Các loại khí có tính ôxi hóa trong khí quyển có thể triệt tiêu loại khí độc này nhưng sulfua
hiđrô có lẽ đã tiêu thụ hết tất cả khí trong khí quyển có thể chuyển hóa nó. Nồng độ sulfua
hiđrô đã tăng lên một cách đáng kể trong vài trăm năm.
Mô hình hóa sự kiện như thế đã chỉ ra rằng khí này có thể tiêu hủy ôzon trong các tầng trên
của khí quyển, làm cho bức xạ tia cực tím lại tiếp tục giết chết nốt các loài đã sống sót sau
sự phun trào khí độc này (Kump và những người khác, 2005). Tất nhiên, còn tồn tại những
loài có thể chuyển hóa sulfua hiđrô.
Thậm chí người ta còn đưa ra một giả thuyết mang tính suy đoán nhiều hơn là các bức xạ
mãnh liệt từ các siêu tân tinh cận kề là nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng này.
Trùng ba lá đã phát triển thịnh vượng kể từ kỷ Cambri, cuối cùng đã bị tuyệt chủng trước
khi kỷ Permi kết thúc.
Năm 2006, một nhóm các nhà khoa học Hoa Kỳ từ Đại học quốc gia Ohio thông báo rằng
có chứng cứ cho thấy tồn tại một hố do thiên thạch (hố vùng đất Wilkes) gây ra với đường
kính khoảng 500 km tại châu Nam Cực. Hố này nằm ở độ sâu 1,6 km phía dưới lớp băng
của khu vực vùng Wilkes ở miền đông châu Nam Cực. Các nhà khoa học đã suy đoán là va
chạm mạnh này có thể đã gây ra sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, mặc dù niên đại
của nó là dao động trong khoảng 100-500 triệu năm trước. Họ cũng suy doán là nó cũng
góp phần bằng một cách thức nào đó đối với sự chia tách của Australia ra khỏi khối đất
Nam Cực, mà khi đó cả hai đều là các phần của siêu lục địa Gondwana.
GHI NHẬN
Số lượng sự tuyệt chủng loài đã được ghi nhận những thế kỷ vừa qua là nhỏ hơn rất nhiều
so với sự dự đoán cho những thập kỷ sắp tới . Sự khác biệt này, một phần là do sự gia tăng

tốc độ mất nơi cư trú trong những thập kỷ gần đây, một phần cũng do những khó khăn của
việc ghi nhận sự tuyệt chủng. Phần lớn các loài vẫn chưa được miêu tả, và nhiều loài có
thể đã biến mất trước khi chúng được các nhà khoa học biết đến. Hơn thế nữa, các loài nói
chung thường không được công bố bị tuyệt chủng cho đến sau khi chúng được nhìn thấy
lần cuối cùng - do đó những tính toán đối với sự tuyệt chủng là chỉ có mức độ. Cuối cùng,
một số loài mà quần thể của chúng bị giảm sút do việc mất nơi cư trú dưới ngưỡng cần
thiết để suy trì sự sống sót lâu dài có thể vẫn tồn tại trong vài thập kỷ mà không có hy vọng
phục hồi khi quần thể của chúng bị suy thoái, chúng được gọi là "living dead".
Sự tuyệt chủng, đặc biệt các quần thể riêng biệt, là quá nhiều . Năm 1990, rái cá đã biến
mất ở Hà Lan, và đến 1991 nước Anh đã công bố loài dơi tai chuột bị tuyệt chủng. Tại
đông Thái Bình Dương, nhiệt độ nước biển nâng cao trong những năm 1980 đã dẫn đến sự
tuyệt chủng của một loài san hô thuỷ tức. Trong thập kỷ qua, ít nhất 34 loài thực vật và
động vật có xương sống hoặc các quần thể độc lập của chúng đã bị tuyệt chủng ở Mỹ trong
khi đang chờ sự bảo vệ của chính phủ. Trên toàn thế giới, trên 700 sự tuyệt chủng động vật
có xương sống, không xương sống và thực vật có mạch đã được ghi nhận từ năm 1600.
Còn bao nhiêu loài đã bị tuyệt chủng nữa bị bỏ qua ?
Việc mất nơi cư trú không chỉ làm gia tăng sự tuyệt chủng loài, mà còn cho thấy sự suy
giảm đa dạng sinh học nơi đó. Ở nhiều nước, chỉ còn tương đối ít các thảm thực vật tự
nhiên chưa bị bàn tay con người đặt tới . Tại Bangladesh, chỉ có 6% thảm thực vật nguyên
thuỷ còn tồn tại . Các cánh rừng xung quang Địa Trung Hải đã từng có diện tích gấp 10 lần
diện tích hiện nay, và ở Hà Lan, Anh chỉ còn ít hơn 4% vùng đầm lầy đất thấp là chưa bị
phá huỷ.
Suy giảm đa dạng di truyền
Suy giảm loài và hệ sinh thái đều đe doạ nghiêm trọng đến đa dạng di truyền. Trên toàn thế
giới, có khoảng 492 quần thể các loài cây khác biệt về di truyền (bao gồm cả những loài
trọn vẹn) đang bị đe doạ. Ở đông bắc Mỹ, 159 quần thể cá đại dương di cư khác biệt về di
truyền đang ở các mức đe doạ tuyệt chủng cao hoặc vừa phải, nếu không muốn nói chúng
đã rơi vào lãng quên.
Suy giảm đa dạng sinh truyền có thể đẩy nông nghiệp vào tình trạng nguy hiểm. Rất khó có
thể nói bao nhiêu cơ sở di truyền đã bị suy giảm, nhưng từ những năm 1950, việc phổ cập

các giống ngô, lúa mì, lúa gạo và các giống cây trồng khác trong "cách mạng xanh" hiện
đại đã thực sự gây sức ép đối với các giống cây trồng bản địa . Các giống hiện đại được
chấp nhận trên 40% các đồng lúa châu á trong 15 năm mà chúng được đưa ra, và ở
Philippin, Indonesia và một số nước khác, hơn 80% người nông dân hiện nay đã trồng các
giống mới . Tại Indonesia, 1500 giống lúa gạo địa phương đã bị tuyệt chủng từ 15 năm
trước. Một điều tra hiện nay ở các vùng của Kenya về giống cà phê hoang dã đã cho thấy
rằng các cây cà phê ở hai vùng đã biến mất, ba vùng đang bị đe doạ nghiêm trọng, và sáu
vùng khác có thể bị đe doạ. Chỉ có hai vùng là được an toàn.
ảnh hưởng của suy giảm đa dạng di truyền như vậy thường được ghi nhận ngay lập tức.
Năm 1991, sự giống nhau về di truyền của các cây cam Braxin đã gây ra sự bùng nổ tồi tệ
nhất của bệnh thối mục thân cây đã được ghi nhận ở nước này . Năm 1970, các nông dân
Mỹ đã mất khoảng 1 tỷ đô la cho một dịch bệnh lan truyền ở các giống ngô nhạy cảm và
đồng nhất về di truyền. Cũng tương tự như vậy, sự khan hiếm khoai tây Irish năm 1846, sự
mất mùa của lúa mì Sô viết trên một vùng rộng lớn năm 1972, và sự bùng nổ bệnh thối
mục cây cam ở Florida năm 1984, tất cả đều xuất phát từ việc suy giảm đa dạng di truyền.
Tại một số nước như Bangladesh khoảng 62% các giống lúa gạo có nguồn gốc từ một
giống cây mẹ duy nhất, Indonesia (74%), và Sri Lanka (75%), những sự bùng nổ bệnh dịch
như vật có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào .
Ngân hàng gen là giải pháp có thể làm chậm quá trình suy giảm di truyền, nhưng việc khôi
phục theo định kỳ hạt giống có chi phí cao và nguy cơ hỏng hóc thiết bị có thể khiến ngân
hàng trở nên kém an toàn hơn. Năm 1980, các chuyên gia đã ước tính rằng ở các nước phát
triển khoảng 1/2 đến 2/3 các hạt giống được thu thập trong các thập kỷ trước đã bị mất đi .
Năm 1991, đại diện của 13 ngân hàng gen quốc gia ở châu Mỹ La tinh đã thống kê được
khoảng 5 đến 100% hạt giống ngô đã thu thập từ 1940 đến 1980 đã không còn giá trị.
Đa dạng di truyền là tất cả các gen di truyền khác nhau của tất cả các cá thể thực vật, động
vật, nấm, và vi sinh vật. Đa dạng di truyền tồn tại trong một loài và giữa các loài khác nhau
.
Đa dạng di truyền là sự đa dạng về thành phần gen giữa các cá thể trong cùng một loài và
giữa các loài khác nhau; là sự đa dạng về gen có thể di truyền được trong một quần thể
hoặc giữa các quần thể.

Đa dạng di truyền là biểu hiện sự đa dạng của các biến dị có thể di truyền trong một loài,
một quần xã hoặc giữa các loài, các quần xã. Xét cho cùng, đa dạng di truyền chính là sự
biến dị của sự tổ hợp trình tự của bốn cặp bazơ cơ bản, thành phần của axit nucleic, tạo
thành mã di truyền.
Một biến dị gen xuất hiện ở một cá thể do đột biến gen hoặc nhiễm sắc thể, ở các sinh vật
sinh sản hữu tính có thể được nhân rộng trong quần thể nhờ tái tổ hợp. Người ta ước tính
rằng, số lượng các tổ hợp có thể giữa các dạng khác nhau của các trình tự gen ở người
cũng như ở ruồi giấm đều lớn hơn số lượng các các nguyên tử trong vũ trụ. Các dạng khác
của đa dạng di truyền có thể được xác định tại mọi cấp độ tổ chức, bao gồm cả số lượng
DNA trong mỗi tế bào, cũng như số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể.
Tập hợp các biến dị gen trong một quần thể giao phối cùng loài có được nhờ chọn lọc.
Mức độ sống sót của các biến dị khác nhau dẫn đến tần suất khác nhau của các gen trong
tập hợp gen. Điều này cũng tương tự trong tiến hoá của quần thể. Như vậy, tầm quan trọng
của biến dị gen là rất rõ ràng: nó tạo ra sự thay đổi tiến hoá tự nhiên cũng như chọn lọc
nhân tạo .
Chỉ một phần nhỏ (thường nhỏ hơn 1%) vật chất di truyền của các sinh vật bậc cao là được
biểu hiện ra ngoài thành các tính trạng kiểu hình hoặc chức năng của sinh vật; vai trò của
những DNA còn lại và tầm quan trọng của các biến di gen của nó vẫn chưa được làm rõ.
Ước tính cứ 109 gen khác nhau phân bố trên sinh giới thì có 1 gen không có đóng góp đối
với toàn bộ đa dạng di truyền. Đặc biệt, những gen kiểm soát quá trình sinh hóa cơ bản,
được duy trì bền vững ở các đơn vị phân loại khác nhau và thường ít có biến dị, mặc dù
những biến dị này nếu có sẽ ảnh hưởng nhiều đến tính đa dạng của sinh vật. Đối với các
gen duy trì sự tồn tại của các gen khác cũng tương tự như vậy . Hơn nữa, một số lớn các
biến dị phân tử trong hệ thống miễn dịch của động vật có vú được quy định bởi một số
lượng nhỏ các gen di truyền.
Sự tuyệt chủng trong quá khứ
Tốc độ tuyệt chủng hàng loạt
Tốc độ tuyệt chủng thay đổi nhiều theo lịch sử sự sống của trái đất. Các nhà cổ sinh vật
học phân biệt ra năm thời kỳ "tuyệt chủng hàng loạt", các giai đoạn tương đối ngắn (1 triệu
đến 10 triệu năm), trong thời kỳ đó một phần lớn các loài của hàng loạt các đơn vị phân

loại bị tuyệt chủng. Sự tuyệt chủng hàng loạt quan trọng nhất ước lượng khoảng 77 đến
96% số loài xảy ra vào giai đoạn cuối của kỷ Pecmi (250 triệu năm trước đây).
Ngoài những tuyệt chủng hàng loạt này ra, tốc độ tuyệt chủng là không cố định. Ví dụ, từ
250 triệu năm trước, tốc độ tuyệt chủng tương đối cao đã xảy ra 9 lần, giữa các khoảng
thời gian từ 26 đến 28 triệu năm. Hai trong số 9 thời kỳ này đã diễn ra sự tuyệt chủng hàng
loạt, một vào cuối kỷ Triat, 220 triệu năm trước, và một vào cuối kỷ Creta, 65 triệu năm
trước.
Đa dạng sinh học toàn cầu gần đạt giá trị cao nhất từ trước tới nay . Ví dụ, đa dạng thực
vật, đạt được mức cao nhất kể từ hàng chục nghìn năm trước đây . Cũng tương tự như vậy,
đa dạng động vật ở biển đạt đỉnh so với vài triệu năm trước.
Loài người góp phần vào sự tuyệt chủng các loài
Sự góp phần quan trọng đầu tiên của con người vào tốc độ tuyệt củng toàn cầu xảy ra và
khoảng 15.000 đến 25.000 năm trước đây, việc săn bắn một số lượng lớn thú đã gây ra
hoặc góp phần vào sự tuyệt chủng quan trọng ở Bắc, Nam Mỹ và Australia . Ba lục địa này
đã mất 74 đến 86% giống thú lớn, thú lớn hơn 44 kg, vào thời điểm này .
Nguyên nhân của những tuyệt chủng này vẫn là một vấn đề cần bàn luận, thậm chí nếu con
người không phải chịu trách nghiệm hoàn toàn, nhưng rõ hàng nghìn năm qua, con người
đã gây những biến đổi quan trọng sinh cảnh với rất nhiều những ảnh hưởng được đối với
động, thực vật bản địa . Từ ít nhất 50.000 năm, những vụ cháy có chủ ý đã xảy ra ở các
thảo nguyên châu Phi . Cách đây ít nhất 5.000 năm, ở châu Âu, và khoảng 4000 năm ở Bắc
Mỹ, việc phá rừng và biến đổi các vùng đất tự nhiên thành các bãi chăn gia súc đã xuất
hiện tác động đến cấu trúc các quần xã rừng, tạo cơ hội cho các loài cỏ dại và các loài ăn
cỏ như bò rừng Bizon mở rộng phạm vi phân bố và gây ra sự tuyệt chủng của các loài địa
phương. ở Trung Mỹ, rừng đã thực sự biến mất trên một diện tích lớn từ trước khi người
Tây Ban Nha tới .
Quá trình định cư thời tiền sử trên các lục địa của loài người và những sự hội sinh của họ
đã ảnh hưởng căn bản đến tính đa dạng của các loài lục địa . Các hoá thạch chứng minh
rằng 98 loài chim đặc hữu đã hiện diện ở các đảo Hawaii 400 năm trước công nguyên khi
các đảo này lần đầu tiên được người Polynesi định cư. Khoảng 50 loài trong số đó đã bị
tuyệt chủng trước khi những người châu Âu bắt đầu có quan hệ vào năm 1778.

Phần lớn các chuyên gia đều tin rằng nguyên nhân sự tuyệt chủng này là sự kết hợp giữa
việc phá huỷ những vùng rừng rộng nơi đất thấp để canh tác nông nghiệp, gây sự xáo trộn
cho việc nhập nội các loài (các loài chuột Polynesi, lợn nhà, chó nhà), săn bắn và ăn thịt.
Cũng tương tự như vậy, việc định cư của con người ở New Zealand 1000 năm trước công
nguyên, việc nhập nội các loài chó nhà và chuột Polynesi, kết hợp với việc đốt rừng trên
diện tích lớn và săn bắn tập trung vào các loài chim lớn, đã dẫn đến sự tuyệt chủng của 13
loài chim Moa (loài chim lớn không biết bay) và 16 loài chim bản địa khác trước khi người
châu Âu đặt chân tới .
Loài người được cho rằng là nguyên nhân gây ra những sự tuyệt chủng khác do việc định
cư ở Madagascar 500 năm trước công nguyên và đảo Chatham 1000 năm trước công
nguyên. Sự định cư sớm của con người ở các đảo ngoài đại dương cũng đưa đến sự tuyệt
chủng của 1/4 số loài chim đã tồn tại từ vài triệu năm trước đây .
Cuộc chiến giữa các loài bản địa và nhập nội
Vào thế kỷ 15 và 16, việc phổ cập toàn cầu văn hoá châu Âu cùng với các giống vật nuôi,
cây trồng, cỏ dại, các dịch bệnh đã làm gia tăng việc huỷ diệt các loài động, thực vật trên
các đảo và gây thêm sự đe doạ đối với các loài trên lục địa . Những thế kỷ sau đó, sự tăng
trưởng của du lịch và thương mại xuyên đại dương đã dẫn đến việc lan truyền một số
lượng lớn các loài đến các vùng mới trên trái đất và việc định cư của con người tại các đảo
vốn không có người ở.
Từ năm 1840 đến 1880, hơn 60 loài thực vật đã được đưa vào Australia . Từ 1800 đến
1980, số lượng các loài côn trùng nhập nội và Mỹ tăng từ 36 lên tới 1200 loài .
Nhiều sự định cư của người châu Âu đã có tác động quan trọng đối với các loài động, thực
vật bản địa .Ở Hawaii, các nhà thám hiểm châu Âu đặt chân đến đã mang theo các loài
mèo, hai loài chuột mới, cú lợn, cầy ấn Độ nhỏ, và một số dịch bệnh của chim. Hai thế kỷ
tiếp theo, sự phá huỷ nơi cư trú, dịch bệnh và việc săn bắn đã gây ra sự biến mất của 17
loài chim bản địa, làm suy giảm 31% tính đa dạng của khu hệ chim bản địa được xác định
vào năm 400 trước công nguyên; nhiều loài giờ đang đứng ven bờ của sự tuyệt chủng.
Những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến các đảo Mascarene không có người ở
(Mauritius, Reunion và Rodrigues) vào đầu những năm 1500 đã đưa đến những đảo này
lợn và khỉ. Vào giữa những năm 1600, người Hà Lan định cư trên các đảo, và trong 300

năm tiếp theo, 20 loài chim, gồm cả chim Dodo, và 8 loài bò sát đã biến mất. Tính nhạy
cảm của các loài bản địa trên đảo được minh hoạ bởi sự huỷ diệt của chim hồng tước
Stephen Island không biết bay, loài này đã bị con mèo duy nhất của người trông hải đăng ở
một hòn đảo nhỏ ngoài khơi New Zealand săn đuổi đến tuyệt chủng
Các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp
Sự suy giảm đa dạng sinh học hiện nay có cả các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp. Các
nguyên nhân trực tiếp bao gồm sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự xâm lấn của các sinh vật
nhập nội, sự khai thác quá mức các nguồn tài nguyên sống, sự ô nhiễm, sự biến đổi khí hậu
toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp.
Nhưng đây không phải là bản chất của vấn đề. Kiệt quệ sự sống là một kết quả không thể
tránh khỏi của các cách mà loài người đã và đang lạm dụng môi trường trong quá trình gia
tăng sự thống trị của mình.
Khi con người nhận thức được sự phá huỷ của mình và sự phát triển không bền vững đang
ngày càng tác động đến cuộc sống và tương lai của con người, thì việc nghiên cứu các
hướng giải quyết sẽ phải tập trung vào chính loài người . Bản chất của sự khủng hoảng đa
dạng sinh học là không nằm ngoài các khu rừng hay các thảo nguyên, mà gắn liền với cách
mà chúng ta sống. Đó là sự gia tăng dân số loài người, là cách mà loài người ngày càng mở
rộng nơi cư trú sinh thái của mình và sử dụng ngày càng nhiều năng suất sinh học của trái
đất, là sự tiêu thụ không hợp lý và quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên tục giảm
số lượng các sản phẩm thương mại có nguồn gốc từ nông nghiệp và ngư nghiệp, các hệ
thống kinh tế thiếu sự định giá thích hợp cho môi trường, các cấu trúc xã hội không hợp lý,
và những yếu kém trong hệ thống pháp lý và nhà nước. Đa dạng sinh học là một nguồn tài
nguyên quan trọng cho phát triển bền vững, việc tìm kiếm những phương thức sống bền
vững là rất cần thiết nếu muốn đa dạng sinh học được bảo tồn.
Các nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học
Loài có thể bị tiêu diệt do một loạt các ảnh hưởng và tác động của con người . Có thể chia
thành 2 loại chính: trực tiếp (săn bắn, hái lượm, thuần hoá) và gián tiếp (phá huỷ và biến
đổi nơi cư trú).
Săn bắn quá mức là một trong những nguyên nhân trực tiếp rõ ràng nhất gây nên sự tuyệt
chủng của nhiều loài động vật, và ảnh hưởng đến một số loài thú lớn, nổi tiếng. Tuy nhiên,

trong toàn bộ sự suy giảm đa dạng sinh học, chắc chắn nguyên nhân này không quan trọng
bằng các nguyên nhân gián tiếp như phá huỷ và biến đổi nơi cư trú. Săn bắn chỉ ảnh hưởng
chọn lọc đối với các loài đã hoặc đang là những nguồn tài nguyên có thể thu hoạch được,
điều này rất quan trọng đối với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Đa dạng di truyền, biểu hiện bởi sự khác biệt về gen di truyền giữa các quần thể riêng biệt
của một loài hoang dã, có thể bị giảm sút do việc loài cùng chịu tác động của những nhân
tố giống nhau . Đa dạng di truyền, biểu hiện qua các quần thể vật nuôi, cây trồng, có thể bị
giảm sút do việc tạo ra một số lượng lớn; với mức độ đồng nhất cao .
Hầu như bất kỳ dạng hoạt động nào của con người cũng gây biến đổi môi trường tự nhiên.
Sự biến đổi này sẽ tác động đến sự phong phú tương đối của loài và trong nhiều trường
hợp đặc biệt sẽ dẫn đến sự tuyệt diệt. Kết quả này cũng có thể do nơi cư trú trở nên không
thích hợp đối với loài (ví dụ, chặt sạch cây rừng hoặc ô nhiễm nước sông), hoặc do nơi cư
trú bị phá vỡ. Ngoài ra còn có ảnh hưởng của sự chia cắt các quần thể loài liền kề trước
đây thành các quần thể con nhỏ hơn. Nếu những quần thể này đủ nhỏ, cùng với sự thay đổi
các tiến trình, sẽ đưa đến việc gia tăng xác suất tuyệt diệt trong một thời gian tương đối
ngắn.
Một số nguyên nhân chính
Sự suy giảm đa dạng sinh học là một vấn đề đang được các nhà khoa học và các nhà hoạch
định chính sách rất quan tâm. Các loài đang bị tuyệt chủng với tốc độ nhanh nhất được biết
đến trong lịch sử địa chất và phần lớn những tuyệt chủng này là do các hoạt động của con
người .
Mất và phá huỷ nơi cư trú: thường là kết quả trực tiếp do các hoạt động của con người và
sự tăng trưởng dân số, là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm loài, quần thể và hệ sinh
thái
Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái: chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một
loài có thể dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học. Ví dụ, nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở
miền nam California dẫn đến viêck giảm sút các quần thể chim hót trong vùng. Khi quần
thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần thể con mồi của chúng, gấu trúc Mỹ, sẽ tăng lên. Do
gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó sói ít hơn thì số lượng gấu trúc ăn trứng
chim lại nhiều lên, kết quả là số lượng chim hót sẽ ít đi .

Sự nhập nội các loài ngoại lai: có thể phá vỡ toàn bộ hệ sinh thái và ảnh hưởng đến các
quần thể động vật hoặc thực vật bản địa . Những kẻ xâm chiếm này có thể ảnh hưởng bất
lợi cho các loài bản địa do quá trình sử dụng các loài bản địa làm thức ăn, làm nhiễm độc
chúng, cạnh tranh với chúng hoặc giao phối với chúng.
Khai thác quá mức (săn bắn quá mức, đánh cá quá mức, hoặc thu hoạch quá mức) một
loài hoặc một quần thể có thể dẫn tới sự suy giảm của loài hoặc quần thể đó.
Gia tăng dân số: Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng
dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều nhiều đòi hỏi ngày càng nhiều
không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải
trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động.
Ô nhiễm do con người gây ra có thể ảnh hưởng đến mọi cấp độ của đa dạng sinh học.
Biến đổi khí hậu toàn cầu có thể làm thay đổi các điều kiện môi trường. Các loài và các
quần thể có thể bị suy giảm nều chúng không thể thích nghi được với những điều kiện mới
hoặc sự di cư.

×