Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Những tác động ảnh hưởng tới đa dạng sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.9 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC

TIỂU LUẬN
“Những tác động ảnh hưởng tới đa dạng sinh học”

G/V hướng dẫn

:

Nhóm SV thực hiện:

PGS.TS Phan Hữu Tơn
Nhóm 2:
Vũ Thị Hà - Nguyễn Thị Hoài
Nguyễn Thị Kim Hoa – Phạm Thị Hồng
Lưu Thảo Linh – Nguyễn Thị Thùy Linh
Hàn Thị Phúc – Đinh Thị Thanh Tâm
Bùi Thị Thanh – Nguyễn Thị Hồng Thương
Lưu Thị Trang – Lê Thị Xuân

Lớp :

CNSH K53


MỞ ĐẦU
Thế giới chúng ta đang sống rất phong phú và đa dạng về các loài sinh vật.
Sự đa dạng sinh học trên thế giới có chịu nhiều tác động ảnh hưởng tới nó. Vậy có
những tác động nào ảnh hưởng tới sự đa dạng sinh học?Với mục đích làm sáng tỏ
vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài “Những tác động ảnh hưởng tới đa dạng sinh


học”.


NỘI DUNG
I – Hiện trạng mất mát đa dạng sinh học và sự tuyệt chủng
1. Sự tuyệt chủng
Tuyệt chủng là một trạng thái bảo tồn của sinh vật được quy định trong Sách
đỏ IUCN. Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng khi có những bằng chứng
chắc chắn rằng cá thể cuối cùng đã chết.
Hầu hết động vật từng sống trên Trái Đất ngày nay đã bị tuyệt chủng. Chúng
ta chỉ biết chúng qua mẫu hoá thạch xương hoặc vỏ của chúng. Nếu chúng vừa
tuyệt chủng thì ta có thể biết qua các bức tranh cũ. Những lồi tuyệt chủng phổ
biến là voi ma mút, khủng long, mèo răng kiếm
Khi quần thể của lồi có số lượng cá thể dưới mức báo động, nhiều khả năng
loài sẽ bị tuyệt chủng. Đối với một số quần thể trong tự nhiên, một vài cá thể vẫn
cịn có thể sống sót dai dẳng vài năm, vài chục năm, có thể vẫn sinh sản nhưng số
phận cuối cùng vẫn là sự tuyệt chủng (nếu khơng có sự can thiệp của cơng nghệ
sinh học). Để bảo tồn một lồi nào đó trước hết phải tìm được nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến sự tuyệt chủng, phải xác định được con người đã làm gì ảnh hưởng
đến sự ổn định quần thể của loài và làm cho loài bị tuyệt chủng.
Động vật trở nên tuyệt chủng bằng 3 cách:
-

Tuyệt chủng giả tạo: Một số loài vật tiến hố sang các lồi khác và thực sự

khơng tuyệt chủng hồn tồn. Ví dụ qua dịng thời gian, nhiều loài ngựa và loài
người dần thay đổi bằng cách biến thành các lồi khác. Các lồi cũ khơng đổi mà
chỉ chết đi.



-

Do môi trường sống: Cách thứ 2 là động vật tuyệt chủng là 1 loài đơn độc bị

biến mất do mơi trường sống thay đổi. Ví dụ nhiều lồi có chế độ ăn quá đặc biệt
có thể dễ tuyệt chủng hơn so với các lồi ăn tạp. Ví dụ như gấu trúc chỉ ăn măng
non thì dễ tuyệt chủng hơn chuột có thể ăn bất cứ thứ gì.
Cách sống đặc biệt cũng có thể gây nên sự tuyệt chủng. Voi mamút và lồi
tê giác lơng mịn sống trong mơi trường thời tiết lạnh của thời kỳ Băng hà. Khi
băng tan dần, khí hậu ấm hơn, và chúng chết dần.
- Tuyệt chủng hàng loạt: Con đường tuyệt chủng thứ ba là sự tuyệt chủng
hàng loạt khi có hàng trăm lồi tuyệt chủng ở khắp mọi nơi. Đã có sự tuyệt chủng
hàng loạt trong quá khứ cách đây khoảng 600 triệu năm. Các nhà khoa học đang
tìm nguyên nhân, nhưng vào 2 giả thiết chính là do mưa sao chổi và tuyệt chủng
gần giống theo kiểu của khủng long.
2.Hiện trạng mất mát đa dạng sinh học và sự tuyệt chủng.
a. Trên thế giới.
Cuộc khủng hoảng các loài động, thực vật hoang dã cịn tồi tệ hơn cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu hiện nay. Đó là cảnh báo của
Phó Giám đốc chương trình về các lồi vật của Nhóm bảo tồn đa dạng sinh học
thuộc Liên đồn quốc tế bảo tồn thiên nhiên (IUCN) G.Cri-xtốp-phơ Vi khi ông ví
von đây là thời điểm để thừa nhận rằng thiên nhiên là "công ty" lớn nhất thế giới
đang đem lại lợi nhuận 100% cho con người. Vậy mà thiên nhiên đang bị tàn phá
nặng nề, để lại những hậu quả nghiêm trọng cho mơi trường. Ơng kêu gọi các
chính phủ nỗ lực trong việc cứu lấy thiên nhiên như họ đã làm đối với các lĩnh vực
kinh tế và tài chính.


Theo một nghiên cứu mới đây về đa dạng sinh học quốc tế, các nhà khoa
học cảnh báo, hơn một phần ba lồi động vật trên thế giới có nguy cơ tuyệt chủng.

Ngoài 47.677 loài nằm trong danh sách Đỏ, một đánh giá có thẩm quyền nhất của
các nước về các lồi vật trên Trái đất có nguy cơ tuyệt chủng và được đưa ra dựa
trên nghiên cứu của hàng nghìn nhà khoa học, hiện nay 17.291 lồi đang bị đe dọa,
trong đó 21% là động vật có vú, 30% động vật lưỡng cư, 70% thực vật và 35% lồi
khơng xương sống. Các lồi động vật lưỡng cư là nhóm sinh vật bị ảnh hưởng
nghiêm trọng nhất trên Trái đất với 1.895 trong số 6.285 loài nằm trong danh sách
bị đe dọa. Trong số này, 39 loài tuyệt chủng, 484 lồi có nguy cơ tuyệt chủng cao,
754 lồi bị đe dọa và 657 lồi khơng được bảo vệ. Các nhà khoa học cảnh báo, thế
giới không những lo ngại số lồi vật có nguy cơ tuyệt chủng cao mà cịn bị đe dọa
phá vỡ hoàn toàn hệ sinh thái. Những con số trên báo động nguy cơ các loài sinh
vật biến mất vĩnh viễn mặc dù các nhà lãnh đạo trên thế giới đều cam kết sẽ hành
động để đảo ngược xu hướng đó.
Theo LHQ, khi các hệ sinh thái tự nhiên như rừng và đầm lầy biến mất, con
người cũng khơng cịn được hưởng những “dịch vụ miễn phí” như nước và khơng
khí được lọc sạch; được bảo vệ trước những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt; được
cung cấp vật liệu xây nhà và sưởi ấm…
Trước tỉ lệ biến mất quá nhanh của các loài, một số nhà sinh vật học tuyên
bố con người đang ở giữa đợt đại tuyệt chủng thứ sáu của Trái đất.“Chúng ta đang
đối mặt với một cuộc khủng hoảng tuyệt chủng”, Jane Smart - giám đốc nhóm bảo
tồn đa dạng sinh học thuộc Liên minh quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (IUCN) - nói.
“Sự mất mát hệ sinh thái đa dạng đang là mối đe dọa nghiêm trọng đối với nhân
loại hôm nay và mai sau”.
Hiện nay trên trái đất có khoảng 30 – 40 triệu loài thực vật và động vật, song
mới chỉ kiểm kê được 1,7 triệu loài. Tỷ lệ diệt vong gây ra do con người lớn gấp


1.000 lần so với tỷ lệ diệt vong tự nhiên, con người đã làm tuyệt chủng khoảng 120
lồi có vú, 187 lồi chim, 13 lồi bị sát, 8 lồi lưỡng cư và khoảng 30 ngàn lồi cá.
Những mơi trường có số loài phong phú nhất thường được quan tâm khai thác
nhiều nhất mà thường là môi trường đời sống hoang dại bị phá huỷ nhiều nhất như

rừng nhiệt đới, những bãi ám tiêu san hô và những nơi bằng phẳng cách độ sâu
khoảng 0 - 2000m trong biển.
Qua 4 thế kỷ gần đây, trên tồn cầu có tồn bộ hơn 700 loài bị tuyệt chủng
được biết đến, bao gồm một trăm loại động vật có vú 160 loại chim.Số lượng sự
tuyệt chủng loài đã được ghi nhận những thế kỷ vừa qua là nhỏ hơn rất nhiều so
với sự dự đoán cho những thập kỷ sắp tới . Sự khác biệt này, một phần là do sự gia
tăng tốc độ mất nơi cư trú trong những thập kỷ gần đây, một phần cũng do những
khó khăn của việc ghi nhận sự tuyệt chủng. Phần lớn các loài vẫn chưa được miêu
tả, và nhiều lồi có thể đã biến mất trước khi chúng được các nhà khoa học biết
đến. Hơn thế nữa, các lồi nói chung thường khơng được cơng bố bị tuyệt chủng
cho đến sau khi chúng được nhìn thấy lần cuối cùng - do đó những tính tốn đối
với sự tuyệt chủng là chỉ có mức độ. Cuối cùng, một số loài mà quần thể của chúng
bị giảm sút do việc mất nơi cư trú dưới ngưỡng cần thiết để suy trì sự sống sót lâu
dài có thể vẫn tồn tại trong vài thập kỷ mà khơng có hy vọng phục hồi khi quần thể
của chúng bị suy thoái, chúng được gọi là "living dead".
Mất đi môi trường sống ảnh hưởng đến 40% động vật có vú. Giám đốc
IUCN, bà G.Xmát cảnh báo, hiện có những bằng chứng khoa học về một cuộc
khủng hoảng tuyệt chủng nghiêm trọng.
Sự mất đa dạng sinh học xảy ra nghiêm trọng nhất ở khu vực Trung và Nam
Mỹ; Đông, Tây và Trung Phi, nhất là ở Ma-đa-ga-xca; Nam và Đông-Nam Á. Mất
đa dạng sinh học là một trong những cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất thế giới
khi số các loài sinh vật giảm xuống mức thấp. Các nước châu Phi cảnh báo rằng,


hệ sinh thái của châu lục này dễ tổn thương nhất thế giới trước những biến động
của thời tiết. Nạn đói, khan hiếm nước, tình trạng sa mạc hóa, năng suất nông
nghiệp giảm khiến chất lượng cuộc sống con người ở châu Phi xuống thấp. Châu
Phi chiếm khoảng một phần năm diện tích đất tồn cầu và có khoảng một phần
năm các lồi cây, động vật có vú và chim trên thế giới, chiếm một phần sáu loài
lưỡng cư và bị sát. Khoảng một phần năm số lồi chim ở miền nam châu Phi đã di

cư theo mùa ở châu Phi và một phần mười di cư giữa châu Phi và các châu lục
khác trên thế giới.
Sự tuyệt chủng, đặc biệt các quần thể riêng biệt, là quá nhiều . Năm 1990,
rái cá đã biến mất ở Hà Lan, và đến 1991 nước Anh đã cơng bố lồi dơi tai chuột bị
tuyệt chủng. Tại đơng Thái Bình Dương, nhiệt độ nước biển nâng cao trong những
năm 1980 đã dẫn đến sự tuyệt chủng của một lồi san hơ thuỷ tức. Trong thập kỷ
qua, ít nhất 34 lồi thực vật và động vật có xương sống hoặc các quần thể độc lập
của chúng đã bị tuyệt chủng ở Mỹ trong khi đang chờ sự bảo vệ của chính phủ.
Trên tồn thế giới, trên 700 sự tuyệt chủng động vật có xương sống, khơng xương
sống và thực vật có mạch đã được ghi nhận từ năm 1600. Cịn bao nhiêu lồi đã bị
tuyệt chủng nữa bị bỏ qua ?
Việc mất nơi cư trú khơng chỉ làm gia tăng sự tuyệt chủng lồi, mà còn cho
thấy sự suy giảm đa dạng sinh học nơi đó. Ở nhiều nước, chỉ cịn tương đối ít các
thảm thực vật tự nhiên chưa bị bàn tay con người đặt tới . Tại Bangladesh, chỉ có
6% thảm thực vật nguyên thuỷ còn tồn tại . Các cánh rừng xung quang Địa Trung
Hải đã từng có diện tích gấp 10 lần diện tích hiện nay, và ở Hà Lan, Anh chỉ cịn ít
hơn 4% vùng đầm lầy đất thấp là chưa bị phá huỷ.
Suy giảm loài và hệ sinh thái đều đe doạ nghiêm trọng đến đa dạng di
truyền. Trên tồn thế giới, có khoảng 492 quần thể các loài cây khác biệt về di
truyền (bao gồm cả những lồi trọn vẹn) đang bị đe doạ. Ở đơng bắc Mỹ, 159 quần


thể cá đại dương di cư khác biệt về di truyền đang ở các mức đe doạ tuyệt chủng
cao hoặc vừa phải, nếu khơng muốn nói chúng đã rơi vào lãng quên.Theo dự báo,
nếu tỉ lệ thất thoát đa dạng sinh học vẫn tiếp diễn như hiện nay thì đến năm 2020
trên tồn trái đất sẽ có khoảng 1,3 tỉ ha đất mất hoàn toàn các cấp độ đa dạng sinh
học nguyên thủy. Điều này dẫn đến sự mất mát trầm trọng các nguồn tài nguyên
thiết yếu cùng với sự kiệt quệ về di truyền.
Suy giảm đa dạng di truyền có thể đẩy nơng nghiệp vào tình trạng nguy
hiểm. Rất khó có thể nói bao nhiêu cơ sở di truyền đã bị suy giảm, nhưng từ những

năm 1950, việc phổ cập các giống ngơ, lúa mì, lúa gạo và các giống cây trồng khác
trong "cách mạng xanh" hiện đại đã thực sự gây sức ép đối với các giống cây trồng
bản địa . Các giống hiện đại được chấp nhận trên 40% các đồng lúa châu á trong 15
năm mà chúng được đưa ra, và ở Philippin, Indonesia và một số nước khác, hơn
80% người nông dân hiện nay đã trồng các giống mới . Tại Indonesia, 1500 giống
lúa gạo địa phương đã bị tuyệt chủng từ 15 năm trước. Một điều tra hiện nay ở các
vùng của Kenya về giống cà phê hoang dã đã cho thấy rằng các cây cà phê ở hai
vùng đã biến mất, ba vùng đang bị đe doạ nghiêm trọng, và sáu vùng khác có thể
bị đe doạ. Chỉ có hai vùng là được an toàn.
Ảnh hưởng của suy giảm đa dạng di truyền như vậy thường được ghi nhận
ngay lập tức. Năm 1991, sự giống nhau về di truyền của các cây cam Braxin đã
gây ra sự bùng nổ tồi tệ nhất của bệnh thối mục thân cây đã được ghi nhận ở nước
này . Năm 1970, các nông dân Mỹ đã mất khoảng 1 tỷ đô la cho một dịch bệnh lan
truyền ở các giống ngô nhạy cảm và đồng nhất về di truyền. Cũng tương tự như
vậy, sự khan hiếm khoai tây Irish năm 1846, sự mất mùa của lúa mì Sô viết trên
một vùng rộng lớn năm 1972, và sự bùng nổ bệnh thối mục cây cam ở Florida năm
1984, tất cả đều xuất phát từ việc suy giảm đa dạng di truyền. Tại một số nước như
Bangladesh khoảng 62% các giống lúa gạo có nguồn gốc từ một giống cây mẹ duy


nhất, Indonesia (74%), và Sri Lanka (75%), những sự bùng nổ bệnh dịch như vật
có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào .
Ngân hàng gen là giải pháp có thể làm chậm quá trình suy giảm di truyền,
nhưng việc khơi phục theo định kỳ hạt giống có chi phí cao và nguy cơ hỏng hóc
thiết bị có thể khiến ngân hàng trở nên kém an toàn hơn. Năm 1980, các chuyên
gia đã ước tính rằng ở các nước phát triển khoảng 1/2 đến 2/3 các hạt giống được
thu thập trong các thập kỷ trước đã bị mất đi . Năm 1991, đại diện của 13 ngân
hàng gen quốc gia ở châu Mỹ La tinh đã thống kê được khoảng 5 đến 100% hạt
giống ngô đã thu thập từ 1940 đến 1980 đã khơng cịn giá trị.
b. Ở tại Việt Nam.

Đa dạng sinh học không được phân bổ đồng đều trên bề mặt trái đất mà chỉ
có những cái nơi của đa dạng sinh học. Việt Nam rất tự hào nằm trong cái nơi ấy.
Những bí ẩn của thiên nhiên vẫn đang tiếp tục được phát hiện.
Hơn một thập kỉ qua, khu vực Tiểu vùng sông Mekong đã phát hiện được
hơn 1.000 loài. Điều đáng lo ngại là đa dạng sinh học đang đứng trước nhiều nguy
cơ. Trên thế giới mỗi ngày có khoảng 150 lồi biến mất.
Ở Việt Nam, hơn 50 năm qua, độ che phủ rừng đã giảm 30% và rừng tự
nhiên ở tình trạng ngun sinh cịn dưới 10%. Điều này đi đôi với việc mất đi các
lồi và tính đa dạng của nó. Việt Nam đang sở hữu danh sách rất dài các lồi nguy
cấp có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng như: hổ, bò tót, trâu rừng, voi, sao la, đặc
biệt là tê giác một sừng hiện nay chỉ còn vài cá thể.
Từ kết quả trên, cho thấy các lồi ngày càng có nguy cơ tuyệt chủng cao.
Khi các loài tuyệt chủng, số lượng các lồi trên trái đất ngày càng giảm thì làm cho
mất mát đa dạng sinh học càng lớn.


II – Nguyên nhân của sự tuyệt chủng.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng của một loài hay nhiều
loài (sự tuyệt chủng hàng loạt) như: sự biến đổi địa chất như hoạt động của núi lửa,
tạo núi, băng hà… dẫn đến khí hậu thay đổi sâu sắc khiến cho các lồi sinh vật
khơng thể tiếp tục tồn tại được. Tuy nhiên lồi sinh vật khơng chỉ bị tuyệt chủng vì
ngun nhân trên. Thuyết tiến hóa đã chứng minh rằng do cạnh tranh nên loài
chiến thắng đã đẩy loài chiến bại đến sự tuyệt chủng bằng việc trấn áp, xua đuổi và
ăn thịt. Kể từ khi loài người xuất hiện, tốc độ và mức độ tuyệt chủng của các loài
sinh vật cũng tăng lên rất nhiều so với trước đây. Bỏ qua nguyên nhân khách quan
dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài sinh vật, chúng ta sẽ tìm hiểu về những nguyên
nhân chủ quan do con người tác động dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài sinh vật.
1- Sự khai thác quá mức và sử dụng không bền vững các tài nguyên sinh học.
Nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái
lượng thực phẩm và khai thác các nguồn tài ngun thiên nhiên khác.

Khi dân số lồi người vẫn cịn ít và phương pháp thu hái cịn thơ sơ con
người đã khai thác một cách bền vững mà không làm cho các loài sinh vật bị tuyệt
chủng.
Tuy nhiên khi dân số loài người tăng lên, nhu cầu sử dụng cũng tăng theo và
con người đã sử dụng các phương tiện phục vụ cho việc khai thác hữu hiệu hơn.
Súng được thay cho giáo mác và cung tên khi săn bắn; Tàu đánh cá gắn máy thay
cho tàu thuyền đánh bắt cá bằng gỗ thô sơ trướ đây; Cưa máy, cưa điện được sử
dụng thay thế cho những chiếc rìu đốn gỗ. Phương tiện càng hiện đại, năng suất
khai thác càng cao dẫn đến sự khai thác quá mức đã làm cho các loài bị khai thác
suy giảm và tuyệt chủng càng nhanh hơn. Việc khai thác quá mức của con người
ước tính đã gây nguy cơ tuyệt chủng cho 1/3 số lồi động vật có xương sống.


Trong những năm gần đây, khi thị trường thương mại được mở rộng việc
khai thác quá mức đã tăng lên. Điều này đã gây ra hiểm hoa tuyệt chủng không nhỏ
cho các loài sinh vật trong tự nhiên. VD: mốt sử dụng áo long thú ở nhiều quốc
gia, nhiều nhà hàng đặc sản thịt rừng được mở, thú chơi cây cảnh, phong lan cũng
gây hiểm họa không nhỏ đối với các loài này trong tự nhiên.
2- Mất và phá hủy nơi cư trú.
Đây là nguyên nhân quan trọng bậc nhất, có thể chia thành hai nhóm chính
đó là mất và phá hủy nơi cư trú bởi các hoạt động cụ thể của con người và mất và
phá hủy nơi cư trú bởi các vận động của tự nhiên:
-

Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các hoạt động của con người: Do việc khai

thác quá mức dẫn đến phá hủy nơi cư trú của các lồi sinh vật. Đó chính là tác
động của việc thay đổi mục đích sử dụng tài nguyên sinh học như: sự phát triển
nông nghiệp, đô thị, sự du canh du cư đốt nương làm rẫy dẫn đến cháy rừng, khai
thác rừng bừa bãi, sản xuất cơng nghiệp thải lượng CO2 và các khí khác vào khí

quyển, đốt các nhiên liệu có nhng gốc cacbon như dầu, than, gas khí đốt…dẫn
đến sự hủy hoại và thay đổi các điều kiện sinh thái – nơi cư trú của các loài sinh
vật kéo theo sự tuyệt chủng hoặc suy giam về số lượng về số lượng và chất lượng
các quần thể sinh vật, kéo theo sự tan rã của cấu trúc quần xã và hệ sinh thái. Việc
cải tạo các hệ sinh thái cho các mục đích kinh doanh có tình chun hóa cao hay
việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, các loại hóa chất cơng
nghiệp đều góp phần hủy diệt mơi trường sống dẫn đến sự tiêu diệt các lồi cơn
trùng và vi sinh vật bản địa.
- Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các vận động của tự nhiên: Việc phát sinh mới
hay hoạt động trở lại của các núi lửa, sóng thần, động đất, sạt lở đất, sa mạc hóa,
cháy rừng… cũng là nguyên nhân quan trọng làm mất hoạc hủy hoại nơi cư trú và
góp phần làm giảm sự đa dạng sinh học.


3.Ơ nhiễm và suy thối mơi trường.
Cho dù nơi sinh sống không bị ảnh hưởng một cách trực tiếp bởi sự phá hủy
hay chia cắt thì các quần xã và các loài sinh vật cũng bị đe dọa bởi các hoạt động
của con người. Dạng phá hủy môi trường nguy hiểm nhất chính là ơ nhiễm. Ơ
nhiễm mơi trường cũng kéo theo sự suy thối mơi trường.
Có thể kể đến một số nguyên nhân dẫn đến sự ô nhiễm môi trường:
- Ô nhiễm do thuốc trừ sâu.
- Ô nhiễm nước.
- Ơ nhiễm khơng khí và mưa acid.
- Sự sản sinh ozon, các kin loại độc hại và lắng động khí nitro.
Suy thối mơi trường là sự làm thay đổi chất lượng và số lượng của thành
phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên
nhiên. Trong đó, thành phần mơi trường được hiểu là các yếu tố tạo thành mơi
trường: khơng khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lịng đất, núi, rừng, sơng, hồ
biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên
nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái

vật chất khác.
Sự ơ nhiễm mơi trường dẫn đến suy thối mơi trường. Mơi trường bị suy
thối sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực tới các loài sinh vật sống tại đó. Ở mức độ
ban đầu là sự suy giảm về số lượng của lồi, sau đó chính là sự biến mất hồn tồn
của lồi tại nơi đó. Đối với các loài sinh vật chỉ sống được tại một số nơi nhất đinh
thì đó chính là con đường của sự tuyệt chủng.


III – Đa dạng sinh học trong phát triển nông nghiệp.
1. Thế nào là đa dạng sinh học nông nghiệp.
Việt Nam, nơi từng được bao phủ bởi những khu rừng kín ngun sinh giàu
có với một thế giới động thực vật hoang dã phong phú, hàng trăm con sông, suối từ
các đỉnh núi đổ xuống nuôi dưỡng đồng bằng, những vùng đất ngập nước với đủ
loại thực vật và động vật thuỷ sinh, biển xanh trong suốt với những rạm san hô bên
bờ biển cát trắng, thỉnh thoảng tô điểm thêm bằng những khu rừng ngập mặn rậm
rạp, là một trong những nước khơng những có đa dạng sinh học cao trên thế giới
mà còn là nơi sinh sống của cộng đồng 54 dân tộc khác nhau với nền văn hóa đa
dạng giàu bản sắc. Tuy nhiên, các nguồn tài ngun q giá đó đã và đang bị mất
dần với tốc độ nhanh chóng.
Hầu hết đất đai tại Việt Nam đã bị biến đổi rất nhiều do các hoạt động phát
triển công, nông nghiệp, hạ tầng cơ sở và đô thị hố, chỉ cịn lại một diện tích
tương đối ít ỏi dành cho các khu sinh thái tự nhiên với những thay đổi rõ rệt về đa
dạng sinh học tự nhiên. Một phần đáng kể đa dạng sinh học đang tồn tại ở Việt
Nam nằm trên đất nông nghiệp. Như vậy, ở đây người nông dân Việt Nam hiện
cũng đồng thời là người góp phần quan trọng trong việc chăm lo đa dạng sinh học
đang tồn tại của Việt Nam mà tiểu luận này gọi là “Đa dạng sinh học nông
nghiệp”. Đa dạng sinh học nông nghiệp tại Việt Nam sẽ là trọng tâm của tài liệu
này. Do đất đai được sử dụng chủ yếu cho các mục đích nơng nghiệp nên các lồi
sinh vật sống trên đó cũng có tương tác với các hệ thống nông nghiệp theo một
phương thức nào đó. Ngay cả những lồi mà sinh cảnh ban đầu của chúng là thế

giới tự nhiên thì dường như cũng đã có những tương tác với hệ thống nông nghiệp
ở một vài mặt nhất định. Hơn nữa, hầu hết đa dạng sinh học dường như đang tồn
tại chủ yếu trên những hệ thống nông nghiệp được cấu tạo gồm khơng chỉ những
cánh đồng mà có xen kẽ những khoảnh đất của hệ sinh thái tự nhiên còn lại, hệ


sinh thái mà đã từng một thời bao trùm cả khu vực. Phương thức mà

các nông

dân quản lý hệ thống nơng nghiệp của họ có thể có tác động mạnh mẽ tới mức độ
đa dạng sinh học tổng thể tại Việt Nam. Điều không may là các nông dân thường
không nghĩ tới hoặc chỉ nghĩ rất ít về những yêu cầu cho một hệ sinh thái tự nhiên
lành mạnh, đa dạng và làm sao để hệ thống nơng nghiệp có thể hỗ trợ cho đa dạng
sinh học ở mức độ cao. Số lượng và chất lượng đa dạng sinh học nông nghiệp ở
Việt Nam chắc chắn là đang suy giảm do hậu quả của việc quản lý khơng tính đến
bảo tồn đa dạng sinh học.
Bài tiểu luận này dự định cung cấp cho người đọc một cách nhìn khái quát
về đa dạng sinh học trong khu vực nông nghiệp ở Việt Nam dưới góc độ những
sinh cảnh đặc biệt tại mỗi vùng trong nước và những vai trò quan trọng của những
sinh cảnh này.
Do vậy, trọng tâm của bài tiểu luận này là nhằm vào đa dạng sinh học trong
các hệ sinh thái nông nghiệp chứ không phải trong hệ sinh thái tự nhiên nói chung.
Tương tự, một phần đất rừng bị xâm lấn bởi đất nông nghiệp xen kẽ tạo thành một
“hệ nông-lâm” sẽ chỉ được mô tả một cách ngắn gọn để đảm bảo tập trung sự chú ý
của người đọc vào sự quan trọng của đa dạng sinh học đang bị đe dọa trên các
vùng đất chuyên nông nghiệp của Việt Nam.Cuối cùng, thảo luận về sự đa dạng
hố phương thức canh tác cũng sẽ khơng được đề cập đến.
Do khơng cịn tính đa dạng về gen của các loài cây trồng, mặc dù đây là vấn đề
cũng quan trọng và


đáng báo động như đã được nhắc đến trên nhiều

diễn đàn và các tài liệu khác .
2. Tầm quan trọng của đa dạng sinh học đối với nông nghiệp
Đa dạng sinh học là sự phong phú các sinh vật và các phức hợp sinh thái mà
sinh vật đó là một thành phần, bao gồm sự đa dạng trong nội bộ các loài (đa dạng


gen), đa dạng các loài ,và các hệ sinh thái. Đa dạng sinh học là nền tảng của nông
nghiệp, là nguồn gốc và sự phong phú của mọi giống cây trồng và vật nuôi .Đa
dạng sinh học nông nghiệp (ĐDSHNN)là bộ phận của đa dạng sinh học, bao gồm
tất cả các thành phần của đa dạng sinh học-ở cấp gen, cấp loài và cấp hệ sinh thái–
liên quan đến thực phẩm và nông nghiệp và các hệ sinh thái nông nghiệp, bao gồm
các lồi cây trồng và vật ni, và nhiều giống thuộc các lồi đó và cịn bao gồm
các thành phần khác hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp. ĐDSHNN cịn là kết quả của
q trình chọn lọc tự nhiên và nhân tạo.
Vì sao đa dạng sinh học lại quan trọng đối với nông nghiệp và kinh kế
nông nghiệp tại Việt Nam?
Khơng thể có câu trả lời đơn giản cho câu hỏi có vẻ đơn giản này vì nơng
nghiệp là cơ sở của hàng loạt những mối quan hệ phức tạp trong hệ sinh thái tự
nhiên ,hệ thống cây trồng và xã hội. Một câu trả lời đơn giản không thể bao quát
hết chiều sâu và độ phức tạp của vấn đề. Việt Nam là một nước nằm trong vùng
khí hậu nhiệt đới gió mùa, có điều kiện địa lý, địa hình đặc biệt tạo nên khu hệ
động thực vật, vi sinh vật rất phong phú và đa dạng, là một trong 16 nước có sự đa
dạng sinh học cao nhất thế giới. Khu vực nông nghiệp ở Việt Nam được hình thành
từ nhiều hệ sinh thái đa dạng khác nhau, điều này góp phần hình thành nên nguồn
tài nguyên thiên nhiên giàu có của đất nước.
Đa dạng sinh học trong những hệ sinh thái này cung cấp cho con người
những điều kiện cần thiết để sống như cung cấp cơ sở để sản xuất lương thực c

ũng như hàng loạt những sản phẩm phi lương thực khác như các nguyên vật liệu
dùng cho cuộc sống hàng ngày, thuốc chữa bệnh, tạo nguồn thu nhập và hỗ trợ cho
hệ thống văn hoá, xã hội.


Đa dạng sinh học là cơ sở trợ giúp cho việc sản xuất lương thực thông qua
các hiện tượng như sự thụ phấn, kiểm sốt sinh học các lồi dịch hại ,bệnh, và làm
đất mầu mỡ do chu trình các chất dinh dưỡng .
Tất cả đều có những chức năng quan trọng trong các hệ thống nông nghiệp.
Sự đa dạng của những loài thực vật, động vật, những loài vi sinh vật cần thiết để
duy trì năng suất và tính bền vững của mùa màng, gia súc và việc nuôi trồng thuỷ
sản, cho tới ngày nay, vẫn cịn ít được biết đến. Càng ngày con người càng hiểu và
tin rằng tương lai của vấn đề an ninh lương thực phụ thuộc vào việc khai thác và
duy trì đa dạng sinh học nông nghiệp và rất nhiều chức năng khác của nó nằm
trong vùng đất nơng nghiệp. Ngày càng có nhiều hệ sinh thái tự nhiên tại Việt Nam
như rừng nguyên sinh, rừng ngập mặn và đất ngập nước bị chuyển đổi thành đất
nông nghiệp để cung cấp lương thực, thuỷ sản và các sản phẩm, dịch vụ khác cho
một số lượng người tiêu dùng ngày càng tăng trong các thành phố cũng như để
xuất khẩu. Do tốc độ suy giảm ngày càng tăng của các khu vực đa dạng sinh học tự
nhiên để dành đất cho nông nghiệp và các khu cơng nghiệp mới nên loại đất này
ngày càng có vai trị quan trọng trong việc cung cấp mơi trường sống cho đa dạng
sinh học của quốc gia. Điều này cũng có nghĩa rằng những người nơng dân đang
quản lý đất nơng nghiệp sẽ có vai trị ngày càng lớn trong việc bảo tồn và quản lý
môi trường sống trong các trang trại, nơi mà đa dạng sinh học ở mức độ cao đang
tồn tại. Mở rộng và thâm canh nông nghiệp đã làm biến đổi đất nông nghiệp thành
những cánh đồng thâm canh được xen kẽ bởi những khoảnh rừng, vườn cây, dịng
sơng, suối, kênh và những vùng đất phi nông nghiệp khác. Trong khi những vùng
đất này

là rất quan trọng vì chúng cung cấp mơi trường sống cho nhiều lồi sinh


vật, thì bản chất của sự chia cắt này cũng đã gây thiệt hại cho nhiều loại động và
thực vật. Trong một thế giới cạnh tranh cao nhưng ngày nay, tính hiệu quả của chi
phí trong cách hoạt động nông nghiệp làm mối quan tâm của những người nông


dân tại Việt Nam. Tuy nhiên, điều quan trọng làm mọi yếu tố đều phải được phản
ánh trong việc đánh giá hiệu quả chi phí của một q trình sản xuất.
Sự mất mát đa dạng sinh học là một yếu tố quan trọng trong số các yếu tố
cần xem xét. Đa dạng sinh học tại Việt Nam có một giá trị kinh tế to lớn. Cần phải
đánh giá đầy đủ và tích hợp chúng vào trong q trình quy hoạch nông nghiệp.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy trong đời sống các dân tộc bản địa của Việt Nam,
đặc biệt là ở Tây Nguyên, hiện nay nguồn thứ căn khai thác từ thiên nhiên vẫn giữ
vị trí quan trọng. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Vương Xuân Tính, (2003)
tại 3 điểm nghiên cứu Làng Le, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon tum của dân tộc Rơmăm,
buôn ChàmB, huyện Krông Bông của dân tộc Êđê và thôn 6A, huyện ĐăcR lấp,
tỉnh Đắc Lắc của dân tộc Hmông cho thấy cư dân của 3 nơi này chủ yếu là cư dân
nương rẫy nên nguồn thức ăn họ sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào đất rừng, vào
nguồn thức ăn từ thiên nhiên là chính. Tổng số có 146 lồi thực vật được người
Êđê dùng làm thức ăn, trong số đó có tới 42 loài dùng làm thuốc chữa các bệnh
như bệnh đường ruột, đau răng, hậu sản... Nguồn thức ăn này gồm 4 thứ các loại
rau, nấm, quả và củ rừng. Về rau rừng có khoảng từ 30 đến 50 lồi rau rừng (nhiều
nhất là lá bép, đọt mây, măng các loại) được bà con ở các điểm nghiên cứu biết
khai thác, nấm có 10-14 lồi chủ yếu vào mùa mưa, Quả rừng được lấy rải rác
quanh năm nhưng nhiều nhất vào các tháng 4,5,6 dương lịch. Củ rừng là loại thực
vật quan trọng để cứu đói cho cộng đồng những khi giáp hạt. Khi hết lương thực
đồng bào thường kiếm củ rừng thay ngũ cốc.
Thực vậy, mọi cộng đồng dân cư nông thôn trên đất nước Việt Nam đều
sử dụng hệ sinh thái tự nhiên nhưng nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho
tiêu dùng của họ và bổ sung nguồn thu nhập từ các hoạt động nông nghiệp. Khác

với nhiều nước phương Tây, sự mất mát về đa dạng sinh học không chỉ là tổn thất
về những giá trị thẩm mỹ và xã hội mà thường rất khó đánh giá được. Mất mát về
đa dạng sinh học tại Việt Nam có liên quan trực tiếp tới những mất mát hoặc sự


giảm bớt tính phong phú của các loại thực phẩm có nguồn gốc hoang dã mà chúng
là một phần quan trọng trong các bữa ăn của dân chúng và cuộc sống hàng ngày
của họ [Konijnendịjk,2005]. Mất mát về đa dạng sinh học cũng có thể có tác động
đến hiệu quả chi phí của sản xuất do ảnh hưởng suy giảm sự thụ phấn, mất các lồi
cơn trùng có ích, mất độ mầu mỡ cho đất đai, và mất những loài sinh vật khác có
tác dụng nâng cao năng suất nơng nghiệp.
Do vậy, việc hiểu biết về cách thức duy trì đa dạng sinh học cao trong khu
vực nông nghiệp là rất cần thiết. Điều quan trọng là phải có ý thức sâu sắc về
những hậu quả do suy giảm đa dạng sinh học tại các khu vực trang trại. Chất lượng
của đa dạng sinh học thường rất khó đo lường và luôn là chủ đề tranh luận của các
nhà nghiên cứu.
Những chỉ số nào nên được dùng để đánh giá về mức độ đa dạng sinh học
tại một khu vực? Và chúng có thể định lượng như thế nào?
Việc điều tra các lồi cũng là chưa đủ vì sự tương tác cũng như các chức
năng và mối quan hệ giữa các lồi cũng quan trọng khơng kém. Các lồi khác nhau
có những vai trị khác nhau trong việc duy trì những hệ sinh thái đa dạng. Các yếu
tố vật lý của khu vực nơng nghiệp như diện tích các thửa ruộng, mức độ chia cắt,
các vùng đệm thiên nhiên và sự tồn tại của các “hành lang” đều có những tác động
lên đa dạng sinh học nông nghiệp. Để dễ dàng cho việc thảo luận, những chức
năng khác nhau của đa dạng
chia ra thành 7 nhóm sau:
●Tạo thu nhập
●Cung cấp thực phẩm
●Cung cấp nguyên vật liệu
●Cung cấp dược liệu


sinh học trong nơng nghiệp tại Việt Nam có thể


●Các giá trị văn hoá / xã hội
●Giá trị thẩm mỹ
●Các lồi thiên địch
Các nhóm này được đưa ra dựa trên các lợi ích đối với cuộc sống của nhân
dân tại các vùng nơng thơn. Bảy nhóm chức năng này thể hiện việc các gia đình
nơng dân sử dụng đa dạng sinh học như thế nào. Chúng bao gồm các chức năng
liên quan tới sản xuất nơng nghiệp trong đó có chăn ni, trồng trọt và khai thác sử
dụng những loài động, thực vật bản địa. Chúng bao gồm các chức năng của các
loài sinh vật và các cơ cấu hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp như thụ phấn cho cây,
cải tạo đất, các loài săn mồi và các lồi ký sinh thiên địch. Nó cũng bao gồm các
giá trị thẩm mỹ và văn hoá. Sự đa dạng sinh học như vậy có thể tìm thấy ở khắp
nơi trong các vùng đất nông nghiệp trên và xung quanh cánh đồng, quanh nhà,
vườn tược. Đa dạng sinh học nông nghiệp thay đổi mạnh từ mùa này sang mùa
khác và theo chu kỳ gieo trồng. Thời gian khó khăn và áp lực nhất đối với đa dạng
sinh học là vào mùa khơ hạn khi chỉ có ít cây cối để tạo nền tảng cho chuỗi thức
ăn. Điều này được đặc biệt nhấn mạnh ở những vùng nóng và khơ tại các tỉnh
duyên hải miền trung của đất nước. Mùa khô cũng là mùa mà dân chúng cịn ít
nguồn dự trữ nhất và phải bổ sung bữa ăn của mình bằng những thực phẩm kiếm
được từ tự nhiên trên đất nông nghiệp. Do số lượng tương đối và sự đa dạng của
các loài vật vào thời điểm này là khá thấp nên việc hoạch định kém hay khai thác
quá mức sẽ có thể có tác động xấu đến đa dạng sinh học. Các chương tiếp theo sẽ
mô tả các vùng sinh thái nơng nghiệp có đa dạng sinh học quan trọng và việc sử
dụng cũng như tầm quan trọng của chúng sẽ được đánh giá dựa trên 7 nhóm chức
năng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.
3. Các mối đe dọa và quan tâm dài hạn



Phát triển nông nghiệp tại Việt Nam hiện đang theo hướng dồn điền đổi thửa
để có những cánh đồng ngày càng tập trung với chỉ ít giống mới năng suất cao và
sử dụng ngày càng nhiều hơn các chất hoá học.
Cả hai điều này đều dẫn tới những tác động có hại đối với đa dạng sinh học
do khó tái tạo lại quần thể các tập đoàn sinh vật trên cánh đồng sau một mùa khô,
do khoảng cách từ các khu dự trữ đa dạng sinh học cao như các con mương trên
các cánh đồng đến giữa cánh đồng sẽ xa hơn.
Trên thực tế, những khu vực đa dạng sinh học cao này sẽ bị loại bỏ đi để lấy
đất làm cho cánh đồng rộng hơn, giảm bớt diện tích đất dành cho những khu vực
không canh tác này.
Một hậu quả khác của cánh đồng rộng hơn là đa dạng thực vật trong một
diện tích cụ thể sẽ giảm đi do cánh đồng rộng hơn chỉ được trồng một giống cây
trong khi nhiều cánh đồng nhỏ có thể được trồng nhiều giống cây hơn.
Việc kiểm sốt chặt chẽ các lồi dịch hại cả bằng hoá chất và cơ học cũng
giúp cho nơng dân giữ cho đất trồng trọt khơng cịn cỏ dại và sâu bệnh, nhưng
cũng làm giảm đáng kể đa dạng sinh học. Các hố chất nơng nghiệp thường có tác
hại lớn đối với sinh thái và đa dạng sinh học trong khu vực nơng nghiệp, trên chính
các cánh đồng đó.
Xói mịn và rửa trơi dinh dưỡng của các khu vực trơ trọi thiếu thảm thực vật
trong đầu mùa mưa cũng là mối đe doạ lớn đến đa dạng sinh học vùng này.
Có thể nhận thấy sự gia tăng đôi chút của đàn gia súc trong những năm gần đây ở
vùng trung du miền núi Bắc Bộ và vùng Bắc Trung Bộ. Nếu điều này trở thành
trào lưu, nó sẽ có tác động lâu dài tới đa dạng sinh học, do gia súc có xu hướng
được chăn thả quá mức tại những cánh đồng trong mùa khô. Điều này có hại cho
đa dạng sinh học do khả năng của cánh đồng để thực hiện chức năng là môi trường


sống cuối cùng của đa dạng sinh học trong mùa khô sẽ bị giảm mạnh và thành
phần của đa dạng sinh học sẽ bị thay đổi.

IV – Sự du nhập của các loài ngoại lai và sự lây lan dịch bệnh.
A - Sự du nhập của các loài ngoại lai.
1- Định nghĩa.
Cùng với q trình tồn cầu hóa, các hoạt động thương mại, giao thơng và
vận chuyển hàng hóa xun biên giới đã mang lại nhiều lợi ích cho nhiều người.
Tuy nhiên điều này cũng làm cho sự phát tán của các loài sinh vật lạ và những tác
động tiêu cực của chúng trở nên dễ dàng hơn đây cũng là điều mà các nhà sinh học
và sinh thái học trên thế giới đang quan tâm
Ta biết:
-Sinh vật lạ xâm lấn là một loài, phân loài hặc một taxon (bậc phân loại)
thấp hơn , xuất hiện bên ngoài vùng phân bố tự nhiên lâu đời của chúng, đã thích
nghi hoặc phát triển mạnh trong một hệ sinh thái hoặc môi trường sống tự nhiên
hoặc nửa tự nhiên mới và là nguyên nhân gây ra sự thay đổi và đe doạ đa dạng
sinh học bản địa.
-Sinh vật ngoại lai là những lồi khơng có nguồn gốc bản địa
Vậy du nhập của các loài ngoại lai là sự xâm lấn của các lồi khơng phải là
lồi bản địa tới một mơi trường hồn tồn mới có thể thích hợp hoặc khơng thích
hợp với mơi trường cũ.Nó trở thành lồi gây hại khi thiếu vắng các đối thủ cạnh
tranh và thiên địch như ở quê nhà cùng với điều kiện sống thuận lợi, các lồi này
có điều kiện sinh sơi nảy nở rất nhanh và đến một lúc nào đó phá vỡ cân bằng sinh
thái bản địa và vượt khỏi tầm kiểm soát của con người.
2 - Các con đường du nhập của các loài ngoại lai


a- Con đường không chủ định
Sự vận chuyển các container: việc sử dụng các container trong vận chuyển
hàng hóa đã tạo điều kiện cho sự xâm nhập của các sinh vật ngoại lai. Chuột và các
lồi cơn trùng cư trú bất hợp pháp trên máy bay, tàu thủy; các vector truyền bệnh,
các động vật kí sinh được vận chuyển cùng với các động vật chủ của chúng. Rõ
ràng là các cảng biển là con đường xâm nhập của nhiều sinh vật lạ, nhưng với việc

vận chuyển bằng container thì các loài ngoại lai được vận chuyển tới các vùng đất
trên thế giới các container là mơi trường trú ngụ lí tưởng cho các sinh vật ngoại lai.
Chúng có thể ở trong đó vài tuần để rồi sau đó được vận chuyển đi. Các thanh tra
của hải quan cũng rất khó để phát hiện chúng. Các container chở vỏ xe của Nhật đã
mang các loài muỗi của Châu Á đến khắp nước Mỹ, Nam Phi, Úc và một số nước
phía Nam Châu Âu
Nước dằn tàu: Nhiều tàu chở hàng được cân bằng nhờ vào việc bơm nước
biển hay nước ngọt vào các thùng nước dùng để dằn tàu. Nước được vận chuyển
như thế bao gồm cả các loài động thực vật sẽ được vận chuyển từ nơi này đến nơi
khác. Các túi đất để dằn tàu thường mang theo các hạt cỏ và ấu trùng sống trong
đất. C ác túi nước để dằn tàu đổ ra ở cảng thường đem theo rêu tảo, động vật
không xương sống và các loại ca nhỏ. Đây rõ àng ladf con đường xâm nhập chính
của các loài sinh vật thủy sinh. Khoảng 1/3 các loài vi sinh vật ở hồ Lớn(Great
Lakes) được du nhập theo con đường này.
Năm 1990, tổng thống Mỹ, Bush đã kí đạo luật yêu cầu các nhân viên bảo vệ
vùng biển Mỹ phải triển khai mạnh mẽ các tiêu chuẩn lien quan tới kiểm tra nước
dằn tàu.
Vận chuyển bằng máy bay: Vận chuyển bằng hang khơng là hình thức xâm
nhập mới của các loài ngoại lai. Các loài muỗi Châu Phi đã xâm nhập vào nước


Anh thong qua các khoang khách hang. Các loài rắn đã mang theo hang hóa từ đảo
Guam đến Hawaii.
Bên cạnh đó nhiều lồi cịn du nhập nhờ gió, nhờ mang bán vào các cây
trồng vật nuôi nhập nội,….
b- Con đường có chủ định
Chế độ thuộc địa của các nước Châu Âu: Những người Châu Âu khi đến
những vùng thuộc địa mới mang theo hang trăm giống chim, thú của Châu Âu để
làm cho phong cảnh ở đây trở nên than quen với họ cũng như tạo ra thú vui săn
bắn.

Nông, lâm nghiệp: Một số cây trồng đã ra ngoài tự nhiên và trở thành vật hại,
thường xảy ra là các hạt cỏ vơ tình bị thu hoạch cùng các hạt ngủ cốc được đem
bán và gieo trên địa bàn mới. Hoạt động nông, lâm nghiệp đã gây ra sự lây lan của
nhiều loại sâu hại va dịch bệnh. Khoảng 20 lồi cỏ dại được tìm thấy ở khắp mọi
nơi và khoảng 40% các laoij bệnh chính trên khắp thế giới. Chuột và chim sẻ là
sinh vật đồng hành ở các trang trại trên khắp thế giới.
Nuôi trồng thủy sản: Đã gây ra sự lay lan của rất nhiều loại cá, ví dụ như cá
rơ phi đã lan rộng ở hầu hết các nước nhietj đới và á nhiệt đới. Các trang trại nuôi
tôm hiện nay đang làm lay lan các virus ra khắp thế giới, các virus này có ảnh
hưởng tới các đàn cá tự nhiên. Các trại cá hồi cũng đã du nhập các mầm bệnh và
các gen lạ.
3- Ảnh hưởng của sự nhập các loài ngoại lai
a- Mặt lợi


Trong thời gian qua việc trao đổi, di nhập một số cây trồng vật nuôi đã mang
lại hiệu quả kinh tế cao, một số nơi giống mới nhập ngoại chiếm 70%-80% và cho
năng suất cao
Ví dụ như:
-Trong cơng tác trồng rừng ở Việt Nam, chúng ta đã sử dụng thành cơng khá
nhiều lồi cây nhập nội như phi lao trên vùng cát trên biển, Keo,Bạch Đàn cho
vùng đồi thấp và rừng công nghiệp.Trong khi giống thuần ở một số vùng của nước
ta có những thời điểm bị bệnh chết hàng loạt
- Trong trồng trọt các giống mới như lúa, ngô, cà phê, cao su, nhiều loài cây
ăn quả khác… được nhập nội cho năng suất cao nên được gây trồng rộng rãi.
Sự du nhập các lồi ngoại lai cịn tạo điều kiện cho các gen mới được phát
tán trong quần thể từ đó góp phần tạo ra các lồi có tính thích nghi cao với mơi
trường vừa sinh sản nhanh.
b- Mặt tiêu cực
Bên cạnh một số mặt tích cực thì điều mà chúng ta quan tâm đó là hậu quả

của sụ du nhập loài ngoại lai theo các nhà khoa học thì các lồi sinh vật ngoại lai
xâm hại được coi là một trong những mối đe doạ nguy hiểm nhất cho mất mát đa
dạng sinh học , không những chỉ làm suy giảm đa dạng sinh học, mà còn ảnh
hưởng đến nhiều khía cạnh khác về sức khoẻ, kinh tế, xã hội của con người.
Tác động mà các loài sinh vật xâm hại gây ra đối với môi trường sống rất đa
dạng nhưng có thể gộp chung thành 4 nhóm:
 Cạnh tranh với các lồi bản địa về thức ăn, nơi sống.v.
 Ăn thịt các loài khác
 Phá huỷ hoặc làm thối hố mơi trường sống


 Truyền bệnh và kí sinh trùng
Và một khó khăn cho chúng ta là các loài ngoại lai thường trải qua một giai
đoạn “ủ bệnh”. Vì vậy gây khó khăn cho chúng ta khi nhập nội một lồi nào đó nếu
chúng biểu hiện ngay thì khắc phục hậu quả dễ dàng hơn từ đó địi hỏi chúng ta
phải nghiên cứu tất cả các trường hợp trước khi nhập nội không để xẩy ra trường
hợp đang tiếc như:
- Ốc bưu vàng : Gây hại lúa
- Lục Bình (Eichhornia crassipes (C. Mart.) Solms .Sơng ngịi, kênh rạch bị lộc
bình bao phủ làm tắc nghẽn giao thông thuỷ. Xác bã, lá cây phân huỷ làm ô
nhiễm nguồn nước uống, giảm sản lượng cá. Các hồ thuỷ lợi và thuỷ điện có lục
bình bao phủ làm giảm năng lượng thuỷ điện, giảm tốc độ dịng chảy, năng suất
tưới tiêu và tăng kinh phí bảo trì.
- Cây Mai dương (Mimosa pigra. Hiện nay Mai dương đang trở thành một lồi cỏ
dại, xâm chiếm đất nơng nghiệp, lấp đầy các kênh mương, hồ ao, hồ chứa nước ở
các nước thuộc Châu úc, Châu Phi và Châu á.
- Cây bông ổi (Lantana camara L.) Cây rất dễ bắt lửa, cả khi thân còn xanh. Sau
khi bị cháy, Bông ổi lại tái sinh mạnh hơn cả trước khi cháy và ức chế các loài cây
bản địa khác (Ramakrishnan,1991).
- Ốc sên

- Chuột hải ly,
- Rùa tai đỏ,
- Bọ ăn lá dừa,
- Sâu róm thơng


×