Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tài liệu Hóa trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa tại bệnh viện ung bướu TPHCM 2001-2002 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.63 KB, 11 trang )

HÓA TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN TIẾN XA
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TPHCM 2001 - 2002
Vũ Văn Vũ*, Đặng Thanh Hồng*, Nguyễn Thò Minh Khang*, Trần Quang Thuận*,
Nguyễn Mạnh Quốc*, Trần Thò Ngọc Mai*, Nguyễn Tuấn Khôi*, Lê Thò Nhiều*,
Võ Thò Ngọc Điệp*, Nguyễn Thò Bích Thủy*
TÓM TẮT
Trình bày kỹ thuật và đánh giá kết quả hóa trò 134 trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ
(UTPKTBN) giai đoạn tiến xa tại BVUB TPHCM 2001 – 2002. Bệnh nhân có các đặc điểm nam chiếm đa
số (64%), tuổi trung bình 59,3. Carcinôm tuyến chiếm tỉ lệ 80%, giai đoạn lâm sàng gồm IIIB và IV với tỉ
lệ đồng đều. Hóa trò bước một được thực hiện với các phối hợp kinh điển chiếm tỉ lệ cao (gần 80%), 42,5%
bệnh nhân hóa trò bước hai, số chu kỳ hóa trò trung bình là 5,6.
Kết quả ghi nhận tỉ lệ đáp ứng chủ quan 68,6%, tỉ lệ đáp ứng khách quan toàn bộ là 29,8% với tỉ lệ
đáp ứng một phần 28,3%, tỉ lệ không thay đổi 58,9% và tiến triển bệnh 11,2%. Trung vò thời gian sống
còn bệnh nhân hóa trò là 9,3 tháng so với nhóm không hóa trò là 4,7 tháng. 23,5% bệnh nhân hóa trò sống
qua một năm so với 4,5% của nhóm không hóa trò. Độc tính nghiêm trọng chủ yếu của hóa trò là giảm
bạch cầu hạt grad 3/4 ghi nhận trong 4,5% số chu kỳ, có 4,4% bệnh nhân tử vong liên quan đến hóa trò..
Một số yếu tố được xác lập có tương quan với thời gian sống còn bao gồm: có hóa trò, đáp ứng với hóa trò
bước một, số chu kỳ hóa trò, tuổi, chỉ số hoạt động cơ thể, CEA/máu, các triệu chứng tiên lượng nặng. Hóa
trò cần được cân nhắc áp dụng cho bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn tiến xa vì có ích lợi làm thuyên giảm
triệu chứng và cải thiện thời gian sống còn.
SUMMARY
CHEMOTHERAPY FOR ADVANCED NON-SMALL-CELL LUNG CANCER IN HO CHI
MINH CITY ONCOLOGY HOSPITAL 2001 – 2002
Vu Van Vu, Dang Thanh Hong, Nguyen Thi Minh Khang, Tran Quang Thuan, Nguyen Manh Quoc,
Tran Thi Ngoc Mai, Nguyen Tuan Khoi, Le Thi Nhieu, Vo Thi Ngoc Diep, Nguyen Thi Bich Thuy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 146 – 156
Review of technique and results of chemotherapy for 134 patients of NSCLC in HCMC Oncology
Hospital 2001 – 2002. Patients’ characteristics are: predominant male (64%), average age 59.3, majority
of adenocarcinoma 80%, equal distribution of clinical stages of IIB and IV. First line chemotherapies were
given with the old drug combinations in approximately 80% of cases. There were 42.5% patients treated
by second line chemotherapy. The mean number of chemotherapy cycles was 5.6. Results noted a 68.6%


of subjective response rate. The objective response rate is 29.8% with almost partial response in 28.3%, no
change of disease seen in 58.9% patients and 11.2% of patients whose diseases progressed on
chemotherapy. The median survival is 9.3 months in chemotherapy group versus 4,7 months in non-
chemotherapy one. One-year overall survival rate is 23.5% in chemotherapy group versus 4.5% in non-
chemotherapy one. The most serious toxicity is grad 3/4 neutropenia observed in 4,5% of treatment
cycles. 4.4% chemotherapy patients died of treatment-relating complication.
* Khoa Nội I, Bệnh viện Ung bướu TPHCM
146
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005

There were some established factors have associations with survival including: chemotherapy,
responsibility to first line chemotherapy, number of treatment cycles, age, performance status, serum
CEA, poor prognostic factors.
Chemotherapy should be considered in advanced NSCLC patients due to its benefits in palliation of
disease-relating symptoms and prolongement of survival.
Ung thư phổi nguyên phát (UTPNP) là một trong
những ung thư hàng đầu về xuất độ và tử suất trên
phạm vi toàn cầu
(3,4)
. Tại Việt nam cũng như tại nhiều
nước đang phát triển khác, ung thư phổi nguyên phát
(UTPNP) là loại bệnh lý ác tính có tầm quan trọng
đặc biệt vì xuất độ cao và có chiều hướng ngày càng
gia tăng liên quan đến sự tiêu thụ thuốc lá.
Các kết quả ghi nhận ung thư quần thể bước đầu
ở nước ta cho thấy UTPNP có xuất độ cao ở cả hai
giới. Tại Hà nội trong khoảng 1991-1995, UTPNP
được ghi nhận là loại ung thư thường gặp nhất ở giới
nam chiếm tỉ lệ 21,9% tổng số ung thư các loại và

xuất độ chuẩn theo tuổi là 34,9/100.000. Ở nữ giới Hà
nội được ghi nhận cùng khoảng thời gian trên,
UTPNP thường gặp hàng thứ ba chiếm 7,1% tổng số
ung thư các loại và xuất độ chuẩn theo tuổi là
7,1/100.000
(1)
. Các kết quả bước đầu của ghi nhận
ung thư quần thể tại Thành phố Hồ Chí Minh cho
thấy UTPNP thường gặp hàng thứ hai ở nam (sau
ung thư gan; 16,5% tổng số ung thư các loại, xuất độ
chuẩn theo tuổi 23,7/100.000) và hàng thư sáu ở nữ
(5,4% % tổng số ung thư các loại, xuất độ chuẩn theo
tuổi là 5,6/100.000)
(3)
. Như vậy ước tính mỗi năm có
khoảng 9.000 ca UTPNP mới xuất hiện trên phạm vi
cả nước, đây thật sự là gánh nặng cho ngành y tế và
cho cả xã hội.
UTPNP là loại bệnh ác tính mà kết quả điều trò
hiện còn rất thấp. Phần lớn UTPNP (80%) là loại
không tế bào nhỏ (UTPKTBN) tuy có mức độ ác tính
thấp hơn loại tế bào nhỏ nhưng bệnh nhân thường
được chẩn đoán vào giai đoạn trễ (giai đoạn III - IV)
do vò trí kín đáo về mặt giải phẫu học và diễn tiến âm
thầm. Phương pháp điều trò chủ yếu hiện nay là phẫu
thuật, xạ trò và hóa liệu pháp. Tính chung trên toàn
thế giới, hơn 70% ung thư phổi không tế bào nhỏ
(UTPKTBN) được chẩn đoán ở giai đoạn trễ không
còn khả năng phẫu thuật, việc điều trò ở giai đoạn này
chủ yếu nhằm vào xoa dòu làm nhẹ triệu chứng cũng

như kéo dài thời gian sống còn cho người bệnh. Hóa
liệu pháp là vấn đề đã và đang được đẩy mạnh nghiên
cứu để tăng hiệu quả điều trò xoa dòu cũng như tăng
thời gian sống còn cho bệnh nhân UTPKTBN giai
đoạn tiến xa
(5)
. Điều này đặc biệt quan trọng đối với
các nước đang phát triển có nền kinh tế còn nhiều
khó khăn như nước ta hiện nay.
Bệnh viện Ung Bướu TPHCM tiếp nhận số lượng
lớn bệnh nhân ung thư phổi nói chung và UTPKTBN
nói riêng. Trung bình mỗi năm có khoảng 400 bệnh
nhân UTPNP đến khám và điều trò tại Bệnh viện với
hơn 80% là loại UTPKTBN
(5)
. Hóa liệu pháp được áp
dụng trong điều trò triệu chứng các trường hợp
UTPKTBN giai đoạn tiến xa từ năm 1990. Chúng tôi
nghiên cứu các trường hợp bệnh nhân UTPKTBN giai
đoạn tiến xa được điều trò bằng hóa liệu pháp tại
Bệnh viện Ung Bướu TPHCM với mong muốn rút ra
được một số nhận đònh về vấn đề mới mẻ và còn
nhiều bàn luận này.
ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Các trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán
UTPKTBN giai đoạn tiến xa điều trò tại Khoa Nội I
Bệnh viện Ung Bướu TPHCM từ 30/6/2001 đến
30/6/2002.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Có xác đònh giải phẫu bệnh lý hoặc tế bào học

Tuổi: mọi tuổi, cả hai giới
Không có những rối loạn chức năng nặng kèm
theo
Có chỉ số hoạt động cơ thể theo Karnofski từ 60
trở lên
Có tổn thương đo được (tối thiểu theo hai chiều
không gian)
Có điều kiện theo dõi được tình trạng bệnh và
147
sống còn cho đến ngày kết thúc ghi nhận
(30/7/2003).
Bệnh nhân chưa từng được điều trò đặc hiệu bằng
các phương pháp tại chỗ như phẫu thuật hoặc xạ trò
trước đó ngoại trừ phẫu thuật mổ đặt ống dẫn lưu
màng phổi...
Bệnh nhân được điều trò bằng hóa liệu pháp hoặc
chăm sóc điều trò nội khoa triệu chứng theo chỉ đònh
lâm sàng
Tiêu chuẩn loại trừ
Các trường hợp tiến triển, tái phát hoặc di căn
sau điều trò tại chỗ tại vùng
Có những rối loạn chức năng nặng kèm theo
Không theo dõi đánh giá được
Phương pháp nghiên cứu chung: tiền cứu mở,
quan sát.
KẾT QUẢ
Chúng tôi thu thập được tổng cộng 267 trường
hợp UTPKTBN giai đoạn tiến xa được điều trò và theo
dõi tại Khoa Nội 1 Bệnh viện Ung Bướu TPHCM từ
30/6/2001 đến 30/6/2002.

Đặc điểm chung của nhóm khảo sát
Giới tính của nhóm bệnh nhân khảo sát đa số là
nam (64%), tuổi trung bình 59,3. Hơn phân nửa bệnh
nhân có chỉ số hoạt động cơ thể thấp <80 theo KPS).
Về giai đoạn bệnh lý, giai đoạn IV (có di căn xa) và
giai đoạn IIIB phân bố đồng đều (gần 50% trường
hợp), chỉ có 8 trường hợp ở giai đoạn IIIA. Dạng mô
học chiếm ưu thế là carcinôm tuyến (79,4%),
carcinôm tế bào vảy chỉ chiếm 13,5%.
Tuy thiết kế nghiên cứu không phải là phân bố
ngẫu nhiên mà chỉ là quan sát mở ghi nhận theo tình
huống chỉ đònh lâm sàng nhưng số trường hợp có can
thiệp hóa liệu pháp và không hóa liệu pháp được ghi
nhận đồng đều (49,8 và 50,2%). Có 24,3% bệnh nhân
được can thiệp dẫn lưu và xơ hoá màng phổi do có
tràn dòch màng phổi ác tính kèm theo.
Khảo sát sự phân bố một số đặc điểm dân số học
và lâm sàng theo hai nhóm có hoặc không có can
thiệp hóa liệu pháp ghi nhận các đặc điểm được phân
bố khá đồng đều theo giới, tuổi, nơi cư trú, giai đoạn
lâm sàng, dạng giải phẫu bệnh, dấu hiệu tiên lượng
nặng, tổn thương di căn xa và ngay cả biện pháp dẫn
lưu xơ hóa màng phổi để xử lý tràn dòch màng phổi.
Tuy nhiên, nhóm hóa liệu pháp có chỉ số hoạt động
cơ thể tốt hơn (69% có chỉ số KPS 90 – 100 so với
39%, p<0,001)(Bảng 3.11).
Bảng 1. Phân bố đặc điểm dân số học và lâm sàng
theo hai nhóm có hoặc không hóa liệu pháp
Đặc điểm Nhóm có hóa
liệu pháp

(134 bệnh
nhân)
Nhóm không
hóa liệu
pháp (131
bệnh nhân)
Giới: nam
nữ
Tuổi trung bình
Nơi cư trú: thành thò
thôn quê
Giai đoạn lâm sàng: IIIA
giai đoạn IIIB
giai đoạn IV
Giải phẫu bệnh:
carcinôm tuyến
carcinôm tế bào vảy
carcinôm kém biệt hóa
không đònh loại
Chỉ số hoạt động cơ thể
90 – 100
70 – 80
50 – 60
Triệu chứng tiên lượng nặng
không có
sụt cân >10%
sốt
bạch cầu hạt >10.000
cả ba
Tổn thương di căn: không

phổi
xương
não
gan
thượng thận
hạch lymphô
vò trí khác
nhiều vò trí
Dẫn lưu, xơ hóa màng phổi
84
50
56,51
80
54
7
64
63

107
17
7
3

69
57
8

115
8
1

6
4
7
26
7
10
4

9
3
8
33
83
48
62,05
82
51
1
72
60

105
19
7
2

39
73
21


105
13
1
10
4
74
23
5
5
5
1
10
5
5
32
Kỹ thuật hóa liệu pháp
Trong tổng số 134 trường hợp bệnh nhân
UTPKTBN được hóa liệu pháp, phân nửa trường hợp
148
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005

bệnh nhân (50,7%) chỉ được hóa liệu pháp bước một
với một phác đồ. Số bệnh nhân được thay đổi thuốc
chuyển sang hóa liệu pháp bước hai (phác đồ thứ hai)
chiếm 42,5% do không đáp ứng, do bệnh tiếp tục tiến
triển hoặc do độc tính của thuốc. Tương tự, tỉ lệ bệnh
nhân chuyển sang hóa liệu pháp liệu bước ba và bốn
là 5,2% và 1,5%.
Tổng số chu kỳ hóa liệu pháp cũng thay đổi trong

khoảng từ 1 đến 14 với số chu kỳ trung bình là 5,6.
Phần nhiều bệnh nhân được điều trò từ 4 – 6 chu kỳ.
Có 32,1% bệnh nhân được điều trò hơn 6 chu kỳ và
11,2% hơn 8 chu kỳ. Số chu kỳ điều trò thay đổi tuỳ
thuộc vào tình trạng đáp ứng, độc tính của thuốc và
tình trạng dung nạp của bệnh nhân.
Về phương diện sử dụng hóa liệu pháp liệu đơn
chất hay phối hợp, chúng tôi ghi nhận đại đa số
(96,3%) bệnh nhân được dùng hóa liệu pháp phối hợp
trong lần đầu tiên (bước một) và chỉ có 3,7% bệnh
nhân được dùng hóa liệu pháp đơn chất. Tuy nhiên tỉ
lệ bệnh nhân được dùng hóa liệu pháp đơn chất có
khuynh hướng tăng dần trong các bước hóa liệu pháp
liệu tiếp theo (13,3% ở bước ba và 28,6% ở bước bốn)
Ghi nhận về các phối hợp thuốc sử dụng, phối
hợp cisplatin (hoặc carboplatin) và etoposide được
dùng nhiều nhất như là phối hợp đầu tay (bước một)
với tỉ lệ 66,4%. Có 23,1% bệnh nhân được sử dụng
các phối hợp “thuốc mới” (paclitaxel hoặc
gemcitabine) trong hóa liệu pháp bước một. Các phối
hợp khác như CAP (Cyclophosphamide, Adriamycine,
Cisplatin), MIC (Mitomycin C, Ifosfamide, Cisplatin)
hay các phối hợp khác có Ifosfamide thường được
dùng bước hai sau phối hợp platin/etoposide ở bước
một (Bảng 2).
Bảng 2. Các thuốc và phối hợp thuốc sử dụng
Phối hợp thuốc
Bước một
Số ca (%)
Bước hai

Số ca (%)
Bước ba
Số ca (%)
Cisplatin/Etoposide
Carboplatin/Etoposide
CAP
MIC
Paclitaxel/Carboplatin
Gemcitabine/Cisplatin
Phối hợp có IFM
59 (44)
30 (22,4)
8 (6)

16 (11,9)
15 (11,2)
1 (0,7)
4 (7)
2 (3,5)
16 (28)
1 (1,7)
13 (22,8)
4 (7)
8 (14)



2



2
Phối hợp thuốc
Bước một
Số ca (%)
Bước hai
Số ca (%)
Bước ba
Số ca (%)
Khác 5 (3,7) 9 (15,8) 3
Tổng cộng 134 (100) 57 (100) 7
(Ghi chú: CAP: Cyclophosphamide, Adriamycine,
Cisplatin – MIC: Mitomycin C, Ifosfamide, Cisplatin –
IFM: Ifosfamide)
Độc tính của thuốc dùng trong hóa
liệu pháp
Kết quả ghi nhận về độc tính và các tác dụng phụ
nghiêm trọng của hóa liệu pháp được trình bày trong
bảng 3 theo số chu kỳ có độc tính trên tổng số 769
chu kỳ điều trò.
Bảng 3. Độc tính grad 3 và 4 của hóa liệu pháp
Độc tính Số chu kỳ Tỉ lệ %
Huyết học
Giảm bạch cầu hạt
Giảm tiểu cầu
Thiếu máu
Ngoài huyết học
Nôn ói nặng
Viêm thần kinh ngoại biên

Tim mạch


35
12
16

62
6

3

4,5
1,5
2

8
4,5 (/134 bệnh nhân
hoá liệu pháp)
2,2 (/134 bệnh nhân
hoá liệu pháp)
Tỉ lệ giảm bạch cầu hạt grad 3 và 4 là 4,5% số chu
kỳ điều trò nhưng trong đó chỉ có 1/3 trường hợp (13
trường hợp) phải nằm viện vì sốt giảm bạch cầu. Độc
tính ngoài hệ tạo huyết gặp chủ yếu là tình trạng nôn
ói nặng xảy ra trong khoảng 8% số chu kỳ hóa liệu
pháp. Viêm thần kinh ngoại biên gặp ở 4,5% bệnh
nhân sau một số chu kỳ hóa liệu pháp có thuốc thuộc
nhóm platin.
Độc tính của thuốc dùng trong hóa liệu pháp có
ảnh hưởng đến việc điều trò và là một trong những lý
do ngưng hóa liệu pháp. Có 7,4% bệnh nhân phải

ngưng hóa liệu pháp bước một vì độc tính và tác dụng
phụ của thuốc. Tỉ lệ này lần lượt là 2,2% đối với hóa
liệu pháp bước hai và 11% đối với hóa liệu pháp bước
ba. Ngoài ra có 6 trường hợp tử vong do độc tính của
hóa liệu pháp (4,4% số bệnh nhân hóa liệu pháp) bao
gồm 5 trường hợp giảm bạch cầu hạt và một biến
chứng tim mạch.
149
Thời gian sống còn
Kết quả hóa liệu pháp
Thời gian sống còn toàn bộ của hai nhóm bệnh
nhân có và không có hóa liệu pháp được trình bày
trong bảng 5 và biểu đồ 1 dưới đây.
Các tỉ lệ đáp ứng
Các tỉ lệ đáp ứng của 134 bệnh nhân hóa liệu
pháp được ghi nhận trong bảng 4. Tỉ lệ đáp ứng chủ
quan là 68,6%. Các tỉ lệ đáp ứng khách quan gồm:
1,5% đáp ứng hoàn toàn, 28,3% đáp ứng một phần,
58,9% bệnh không thay đổi (ổn đònh) và có 11,2%
bệnh tiến triển.
Bảng 5. Thời gian sống còn toàn bộ hai nhóm bệnh
nhân (tháng)
Chỉ số Chung
hai nhóm
Hóa liệu
pháp
Không hóa
liệu pháp
Trung bình
Độ lệch chuẩn

Khoảng
Trung vò
Tỉ lệ % sống trên 1 năm
7,03
4,78
1 – 24
6
13,9
9,33
4,67
1 – 24
10
23,1
4,71
3,65
1 – 17
4
4,5
Thời gian đáp ứng trung bình 5,1 tháng (độ lệch
chuẩn 2,9 tháng).
Ghi nhận các tỉ lệ đáp ứng theo hai nhóm bệnh
nhân dùng các phối hợp “thuốc cũ” và “thuốc mới”,
các tỉ lệ đáp ứng cao hơn ở nhóm “thuốc mới” nhưng
không đủ ý nghóa thống kê.
Trung vò thời gian sống còn toàn bộ của cả nhóm
bệnh nhân là 6 tháng. Nhóm bệnh nhân có hóa liệu
pháp có trung vò thời gian sống còn toàn bộ dài hơn
nhóm không can thiệp đáng kể (9,3 tháng so với 4,7
tháng, p < 0,05). Tỉ lệ bệnh nhân sống qua một năm
của nhóm hóa liệu pháp là 23,1% so với 4,5% của

nhóm không can thiệp.
Bảng 4. Các tỉ lệ đáp ứng
Loại đáp ứng Số ca Tỉ lệ %
Đáp ứng chủ quan
Đáp ứng khách quan
đáp ứng hoàn toàn
đáp ứng một phần
không thay đổi
bệnh tiến triển
Thời gian đáp ứng (tháng)
trung bình
lệch chuẩn
92

2
38
79
15

5,1
2,9
68,6

1,5
28,3
58,9
11,2




Survival Functions
3020100
Cum Survival
1.2
1.0
.8
.6
.4
.2
0.0
-.2
Tỉ lệ sống còn
Có hóa liệu pháp

CDHOATRI
co
khong
Không hóa liệu pháp
thang
tháng


Biểu đồ 1. Thời gian sống còn toàn bộ của hai nhóm bệnh nhân

150

×