Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Tài liệu Tại sao chỉ có chữ Việt đổi ra Latinh docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.82 KB, 6 trang )

TIẾNG VIỆT MẾN YÊU
親愛越南語

Đỗ Thông Minh

TẠI SAO CHỈ CÓ CHỮ VIỆT ĐỔI RA LA TINH?

Trong các ngôn ngữ thuộc hệ chữ Hán như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Mãn
Châu và Việt Nam, chỉ có Việt Nam đổi ra dùng mẫu tự La Tinh. Tiếng nói các nước trên đều
có thể ghi bằng La Tinh, có phần còn dễ hơn tiếng Việt, nhưng mỗi quốc gia có hoàn cảnh riêng
nên không thay đổi được.
Việt Nam do bị Pháp đô hộ hoàn toàn, nên năm 1911 (1918) nhà cầm quyền Pháp ra
nghị định dùng chữ Quốc Ngữ và khoảng năm 1945 nhà cầm quyền cả hai miền Nam và Bắc
chính thức áp du.ng. Nhưng cũng do yếu tố quan trọng là tiếng Việt có tới khoảng 15.000 âm,
nên ít bị đồng âm dị nghĩạ Về các chữ Hán đồng âm và dị nghĩa, nhiều nhất là âm "kỳ" có 22,
chữ "hoàng" có 17, chữ "hoa" có 10, chữ "kiều" có 7, chữ "minh" có 5... còn đa số 1 âm chỉ có
1 hay 2 chữ Hán, nhưng 1 chữ Hán thường có nhiều nghĩa.
Nhật Bản do chỉ có 120 âm, nên đồng âm dị nghĩa rất nhiều, như âm "kò" có khoảng
hơn 400 chữ Hán, "yoshi" hay "shò" mỗi âm có khoảng 300 chữ Hán, nên nếu viết bằng La
Tinh thì không rõ nghĩa. Đôi khi người Nhật nói rằng họ ganh với người Việt vì tiếng Việt
chuyển sang La Tinh được, trong khi tiếng Nhật thì không. Việc đổi sang La Tinh có lợi lớn,
nhưng cũng có hại là hầu hết người Việt ngày nay không đọc được văn kiện của người xưa.
Trung Hoa với tiếng Bắc Kinh, Phổ Thông hay Quan Thoại có 1.300 âm, còn Quảng
Đông, Phúc Kiến cũng 5.000 đến 7.000 âm. Nhưng nếu viết La Tinh theo tiếng Bắc Kinh hay
Quan Thoại thì các vùng khác không hiểu được. Vì Trung Hoa rộng lớn, có 8 tiếng nói chính và
hằng trăm tiếng nói của người thiểu số. Chỉ viết bằng chữ Hán thì cả nước mới có thể đọc và
hiểu được, do đó, chữ Hán là văn tự duy nhất có thể dùng để thống nhất cách viết, còn vùng
nào cũng vẫn cứ đọc theo tiếng vùng đó.
1 一 2 二 3 三
Quan Thoại: di (yi) ớ (èr) san (san)
Quảng Đông: dách dì xám


Việt Nam:_ nhất nhị tam
Về tình trạng chữ Hán tại một số nước khác. Triều Tiên chủ trương bỏ bớt chữ Hán, chuyển
sang Hangul (nghĩa là vĩ đại, trước có khi gọi là Ganmon hay Onmon = Ngạn Văn) do họ tự
đặt ra, đây là loại văn tự ký âm tương tự như La Tinh vậỵ Ở trung học, Nam Hàn chỉ học 1.300
chữ Hán và Bắc Hàn chỉ học 500 chữ Hán (thường để viết tên người cho khỏi bị lẫn lộn vì
trùng âm và các từ truyền thống quen thuộc...), nên thế hệ ngày nay không còn đọc được văn
kiện cổ của tiền nhân. Vì vậy, ở Nam Hàn đang có chương trình cổ động học chữ Hán. Ở
Singapore (Tân Gia Ba), sau thời gian dài chạy theo tiếng Anh thực dụng, các thế hệ Hoa Kiều
trẻ không đọc được sách Hoa nên cũng đang đẩy mạnh việc học chữ Hán

Cây Văn Tự diễn tả sự biến chuyển về văn tự Việt
9 YẾU TỐ KẾT TINH THÀNH TIẾNG VIỆT

Huyền diệu thay, có 9 yếu tố đã kết tinh thành Tiếng Việt theo thế 3 chân vạc, mỗi chân
vạc là 1 trụ, mỗi trụ là 1 kiềng 3 chân.

3 trụ đó là tiếng nói, giọng nói và chữ viết.

- Trụ thứ 1, tiếng nói: Tiếng Nôm (người), Hán-Việt (nhân), Ngoại Lai (“va-li” từ
tiếng Pháp, “phim” từ tiếng Anh, “Nha Trang” tứ tiếng Chàm, “Cái Răng” từ Chân Lạp)...
- Trụ thứ 2, giọng nói: Bắc (mẹ) – Trung (mệ) - Nam (má).
- Trụ thứ 3, chữ viết: Hán – Nôm - La Tinh (a, b, c).

Vạc hay kiềng đều có 3 chân, ở đây mình có đủ cả vạc và kiềng. Với sổ điểm hay chân ít
nhất nhưng tao nên 1 mặt phẳng, dễ dàng tạo thế vững vàng nhất. Thế chân vạc là 3
trụ, mà mỗi trụ là 1 kiềng.

Đây là 1 biểu đồ ngôn ngữ thật cân xứng, thật đẹp của tiếng nước mình.



TIẾNG VIỆT CÓ GÌ LẠ?

1- Chữ Quốc Ngữ gốc La Tinh...

Văn tự hay ký tự ngày nay của người Việt gọi là Quốc Ngữ, là tiếng Việt viết bằng chữ La
Tinh. Quốc Ngữ là một cái tên có lẽ đã được dùng để nhấn mạnh đến tính quốc gia dân
tộc khi mới được công nhận và cho dễ được chấp nhận, chứ thực ra thì chữ Hán và chữ
Nôm còn ở với dân tộc ta lâu đời hơn và đáng gọi là Quốc Ngữ hơn. Những năm 50, học
sinh tiểu học thường ê a: "Chữ Quốc Ngữ, tiếng nước ta, con cái nhà, đều phải
học"... Chính phủ còn phát hành cả tem khuyến học chữ Quốc Ngữ. Người Việt học chữ
Quốc ngữ chỉ độ 6 tháng hay 1 năm là đọc được báo, trong khi người Nhật phải học chữ
Hán ít nhất khoảng 5, 6 năm mới đọc được.

Còn chữ mà chúng ta thường gọi là La Tinh như a, b, c, ... i, ... y, z đôi khi bao gồm cả
1, 2, 3... thực ra, trong số này có cả "y dài" tức "y Greek (Hy Lạp)", chứ chữ La Tinh
chỉ có "i ngắn" mà thôi. Thêm nữa, ai cũng biết số La Mã là I, II, III, IV... nên 1, 2, 3
thực ra là số Ả Rập, riêng số 0 là phát minh "vĩ đại" của Ấn Độ.

Chữ Quốc Ngữ giản dị bội phần so với chữ Hán và Nôm, nên giúp mau chóng giải quyết
nạn mù chữ. Nhưng dân tộc Việt đã hơn 2.000 năm gắn liền với chữ Hán và 7, 8 thế kỷ
với chữ Nôm. Các văn hiến cổ đều viết bằng hai thứ chữ này, nên khi đổi sang La Tinh,
chúng ta có cái lợi rất lớn, nhưng cũng không thể tránh cái hại là bị đoạn lìa với văn hóa
quá khứ.

Trước năm 75, dù có đến cả triệu người Hoa ở Việt Nam, người Việt hầu như không ai học
tiếng Hoa, người Hoa muốn giao thiệp với người Việt thì phải học tiếng Việt, ít nhất là học
nóị Nhưng từ khoảng năm 1985, người Việt bắt đầu học tiếng Hoa và Nhật vì đầu tư của
các nước này tăng mạnh (chiếm 70%) và nếu biết một trong hai thứ tiếng trên đi làm sẽ
có mức lương cao gấp bội. Từ đó đến nay, ước lượng có khoảng 300.000 người học tiếng
Hoa và 250.000 người học tiếng Nhật.


Lại đúng vào thời đại điện toán, việc đánh máy chữ Hán và ngay cả chữ Nôm trở thành
dễ dàng. Đây chính là cơ may thật hãn hữu, có thể giúp phục hồi văn hóa dân tộc Việt.

2- Tiếng Việt đơn âm

Tiếng Việt cũng như tiếng Hoa thuộc loại đơn âm tiết, nghĩa là mỗi chữ đọc lên chỉ có một
âm, trong khi tiếng Nhật thuộc loại đa âm tiết. Nhưng có nghịch lý là nhiều ký tự như l,
n, m, x, y... lại đa âm tiết.

Tiếng Việt ít ký tự nhất, chỉ có 1 ký tự như "a" (tiếng kêu tỏ vẻ vui mừng hay ngạc nhiên;
chạy theo như "a dua"; cái "a"), "á" (tiếng la), "à" (tiếng gật gù tán đồng), ơ (tiếng thảng
thốt)... Tiếng Việt nhiều ký tự nhất là chữ "nghiêng" có đến 7 ký tự, đặc biệt chữ này là
chữ duy nhất có 7 ký tự và chỉ ở dạng không dấu, không đi với dấu thinh nào.

3- Kép đôi và kép ba các nguyên âm và phụ âm
Tiếng Việt có tổng cộng 29 ký tự, chưa kể f, j, w, z.

12 nguyên âm: a, ă, â, e, i, ừ, o, ộ ơ, u, ư, y
17 phụ âm: b, c, d, đ, g, h, k. l, m, n, p. q, r, s, t, v, x

Tiếng Việt được xếp vào loại âm đóng vì đa số tận cùng bằng phụ âm, trong khi
tiếng Nhật được xếp vào loại âm mở vì đa số tận cùng bằng nguyên âm. Nếu tiếng Nhật
thường đơn giản chỉ ghép 1 hay 2 phụ âm với 1 nguyên âm thì tiếng Việt có thể kép đôi,
kép ba cả nguyên âm và phụ âm.

Nguyên âm đôi như: keo, hòa...
Nguyên âm ba như: người, quyên...
Phụ âm đôi như: nho, pha...
Phụ âm ba như: nghe, nghinh...


Từ có phụ âm đôi ở cả đầu và cuối cũng rất nhiều như: ngang, thang, thanh...

4- Sự phong phú về phát âm

Tiếng Việt được kể là rất phong phú về nguyên âm, có tới 12 nguyên âm, trong khi tiếng
Nhật chỉ có 5 nguyên âm. Lại có nhiều kép đôi, kép ba cả nguyên âm và phụ âm cộng
thêm 6 dấu thinh tức dấu giọng nên số âm vị biến hóa thành khoảng 15.000 âm. Trong
khi đó, tiếng Nhật hầu như không có dấu thinh nên tổng cộng chỉ có khoảng 120 âm,
tiếng Bắc Kinh tức Quan Thoại hay Phổ Thông có khoảng 1.300 âm, tiếng Quảng Đông
hay Phúc Kiến có từ 5.000 đến 7.000 âm.


Ngoài sự lên xuống của dấu sắc và huyền, đặc biệt tiếng Việt có dấu hỏi và ngã phát âm
uốn éo như sóng lượn, nên tiếng Việt rất giàu nhạc tính.

Khi dạy phát âm tiếng Việt cho các học viên Nhật, tôi thường vung tay và yêu cầu họ
vung theo 6 dấu thinh. Nên nếu tiếng Việt mà có tới 8 dấu thinh như một âm giai bát âm
của nhạc thì có lẽ chúng tôi sẽ thành nhạc trưởng hết lúc nào không biết.

Khi giảng dạy tiếng Việt, nhất là về phát âm cho người ngoại quốc ở Việt Nam và Nhật
Bản... chúng tôi thấy hầu hết các giảng viên đều dùng hai đồ biểu trên, nhưng ở Hoa Kỳ

×