Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Kế toán bán hàng & xác định kết quả bán hàng ở C.ty TNHH Quảng cáo & Phát triển thương hiệu Mê Linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.66 KB, 94 trang )

Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
2.1.1 Quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm của Công ty Cổ Phần Kiểm toán và Tư
vấn A&C ......................................................................................................................................... 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIÊU
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay trong xu thế hội nhập quốc tế, sự phát triển của mỗi quốc gia đều gắn
liền và quan hệ chặt chẽ với cộng đồng quốc tế và khu vực. Mỗi thay đổi về kinh tế,
chính trị đều ảnh hưởng đến các quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều lợi
ích dài hạn, nhưng trước mắt đặt ra không ít thách thức đối với nền kinh tế quốc gia.
Việt Nam đã gia nhập AFTA và đang trong lộ trình cắt giảm thuế quan. Việt Nam cũng
chính thức trở thành thành viên thứ 21 của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương (APEC). Trong khuôn khổ APEC, Việt Nam đã đưa ra kế hoạch hành
động quốc gia mang tính tự do hoá thương mại và đầu tư vào năm 2020. Hiệp định
thương mại Việt - Mỹ cũng đã được ký kết và có hiệu lực từ năm 2001. Việt Nam đang
tích cực đàm phán và chuẩn bị các điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO).
Thị trường kiểm toán cũng không nằm ngoài xu thế đó.Vì vậy, để chuẩn bị cho
nền kinh tế hội nhập và phát triển các Công ty kiểm toán phải không ngừng nâng cao
chất lượng dịch vụ cung cấp cho các khách hàng. Bất kỳ một cuộc kiểm toán nào cũng


được thực hiện theo trình tự thống nhất trong đó kế hoạch kiểm toán là bước đầu tiên
của quy trình kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán đúng đắn là cơ sở để kiểm toán viên thu
thập bằng chứng có giá trị góp phần đưa ra các nhận xét chính xác về thực trạng hoạt
động của đơn vị được kiểm toán, giữ vững và nâng cao uy tín và hình ảnh của Công ty
kiểm toán đối với khách hàng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và hoàn thiện Giai đoạn Lập
kế hoạch trong kiểm toán báo cáo tài chính là một vấn đề cần được quan tâm hiện nay
của các Bộ, ban, ngành, các tổ chức cũng như các Công ty kiểm toán. Đó chính là lý do
em chọn đề tài “Lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính
tại Công ty Cổ Phần Kiểm toán và Tư vấn A&C” làm đề tài cho Báo cáo chuyên đề
thực tập của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý thuyết kiểm toán đặc biệt là giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính nhằm vận dụng vào
phân tích thực tiễn công tác kiểm toán của Công ty, từ đó rút ra được một số ý kiến
nhận xét, đánh giá nhằm hoàn thiện quy trình lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán
báo cáo tài chính do Công ty A&C thực hiện.
3. Nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề thực tập được chia thành 3 phần:
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
Phần 1: Cơ sở lý luận về lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán báo
cáo tài chính.
Phần 2: Thực trạng công tác lập kế hoạch kiểm toán BCTC tại Công ty Cổ phần
Kiểm toán và Tư vấn (A&C).
Phần 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán BCTC tại Công ty Cổ phần Kiểm toán và Tư vấn (A&C).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn và thời gian nên Chuyên đề thực tập chỉ đi sâu nghiên cứu việc lập
kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính đối với kiểm toán độc

lập mà chưa đi sâu nghiên cứu được việc vận dụng công việc này đối với các lĩnh vực
kiểm toán khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với kiến thức được học ở nhà trường và tự tích lũy, em đã thực hiện Chuyên đề
thực tập tốt nghiệp của mình bằng lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết hợp với
các phương pháp của toán học, của nghiệp vụ kế toán và phương pháp kiểm toán.
Chuyên đề thực tập sẽ được trình bày theo phương pháp kết hợp giữa tổng hợp và phân
tích, giữa diễn giải và quy nập cũng như sự kết hợp giữa phương pháp trình bày bằng
văn nói với sơ đồ và bảng biểu.
6. Những đóng góp
Qua Chuyên đề thực tập này, em đã cố gắng tìm hiểu về lí luận chung của giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính, mô tả và phân tích quá
trình thực hiện tại Công ty Cổ Phần Kiểm toán và Tư vấn A&C. Tuy nhiên do thời gian
nghiên cứu hạn hẹp, trình độ và những kinh nghiệm thực tế chưa được tích lũy nhiều
nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được các thầy cô giáo
trong Khoa Kế toán- Kiểm toán và các cô chú, anh chị trong Công ty Cổ Phần Kiểm
toán và Tư vấn A&C đóng góp ý kiến để chuyên đề thực tập của em được hoàn thiện
hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Th.s Bùi Thị Minh Hải và Giám
đốc chi nhánh Công ty Cổ Phần Kiểm toán và Tư vấn A&C tại Hà Nội – Bà Nguyễn
Thị Hồng Thanh cùng toàn thể các anh chị kiểm toán viên, các nhân viên phòng hành
chính trong Công ty đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong giai đoạn thực tập tốt
nghiệp vừa qua.
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2006
Sinh viên thực hiện
Vũ Quỳnh Hương
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
4
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
PHẦN 1

  
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG QUY
TRÌNH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Tổng quan về kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm, các đặc điểm chung và mục tiêu của kiểm toán tài chính
Kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán và nằm trong hệ
thống kiểm toán nói chung. Kiểm toán tài chính được định nghĩa như sau:
“ Kiểm toán báo cáo tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán nhằm
xác minh và bày tỏ ý kiến về các Bảng khai tài chính do các kiểm toán viên chuyên
nghiệp tiến hành theo luật định.”
Kiểm toán tài chính chứa đựng đầy đủ “sắc thái kiểm toán” ngay từ khi ra đời
cũng như trong quá trình phát triển. Đặc trưng cơ bản của kiểm toán tài chính bắt nguồn
từ chính đối tượng kiểm toán tài chính và từ quan hệ chủ thể - khách thể kiểm toán. Mối
quan hệ giữa kiểm toán tài chính với toàn bộ hệ thống kiểm toán là mối quan hệ giữa
cái riêng và cái chung: cái riêng nằm trong cái chung song cái chung không bao trùm
toàn bộ cái riêng. Do vậy, kiểm toán tài chính đã có đặc điểm riêng ngay trong đặc điểm
chung của kiểm toán như mục tiêu, chức năng, đối tượng, phương pháp đến tổ chức
kiểm toán.
Về chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, kiểm toán tài chính hướng tới công khai
tài chính giữa các bên có lợi ích khác nhau và từ đó thu thập bằng chứng đầy đủ và tin
cậy được quán triệt trong một quá trình thực hiện chức năng chung của kiểm toán.
Đối tượng của kiểm toán tài chính là Bảng khai tài chính. Đây là đối tượng trực
tiếp và thường xuyên của kiểm toán tài chính. Bộ phận quan trọng của những Bảng khai
này là Báo cáo tài chính. Theo định nghĩa trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200
– Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán Báo cáo tài chính : “ Báo cáo tài
chính là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc
được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị” (Điểm
04). Ngoài ra, bảng khai tài chính còn bao gồm những bảng kê khai tài sản cá nhân,
bảng kê khai tài sản đặc biệt, các bảng kê khai theo yêu cầu của chủ đầu tư, các bảng
quyết toán công trình, bảng quyết toán ngân sách,…

Chủ thể của kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính là kiểm toán nhà nước,
kiểm toán độc lập hay kiểm toán nội bộ. Kiểm toán viên của từng đơn vị kiểm toán phải
có đầy đủ năng lực chuyên môn và tư cách đạo đức nghề nghiệp để thực hiện hoạt động
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
5
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
xác minh và bày tỏ ý kiến về tính trung thực, hợp lý của các thông tin trình bày trên các
bảng khai tài chính xét trên các khía cạnh trọng yếu và sự tuân thủ các quy tắc chuẩn
mực trong việc lập Báo cáo tài chính nhằm đạt được mục tiêu kiểm toán. Vì thế kiểm
toán viên phải là người thẳng thắn, có lương tâm nghề nghiệp, phải là người công minh,
chính trực và không được phép để cho sự định kiến thiên lệch làm lấn át tính khách
quan, chính trực.
Theo văn bản chuẩn mực kiểm toán 1 (SAS 1 (AU 110)) tuyên bố: “ Mục tiêu
của cuộc kiểm tra bình thường các báo cáo tài chính của kiểm toán viên độc lập và sự
trình bày một nhận xét về mức trung thực mà các báo cáo tài chính phản ánh tình hình
tài chính, các kết quả hoạt động và sự lưu chuyển dòng tiền mặt theo các nguyên tắc kế
toán đã được thừa nhận”. Còn chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200, Khoản 11 đã chỉ
rõ: "Mục tiêu của kiểm toán tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán
đưa ra ý kiến xác nhận rằng Báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và
chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có
phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không?”. Mục tiêu của
kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót
nhằm khắc phục và nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị. (Khoản 3, 16).
Mục tiêu của kiểm toán tài chính gồm có 2 loại mục tiêu: mục tiêu chung và mục
tiêu đặc thù. Các mục tiêu kiểm toán chung lại được chia thành hai loại cụ thể là sự hợp
lý chung và các mục tiêu khác.
Mục tiêu hợp lý chung bao hàm việc xem xét, đánh giá tổng thể số tiền ghi trên
các khoản mục trên cơ sở cam kết chung về trách nhiệm của nhà quản lý và thông tin
thu được qua khảo sát thực tế ở khách thể kiểm toán trong quan hệ với việc lựa chọn
các mục tiêu chung khác.

1.1.2 Phương pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Do đặc điểm của đối tượng kiểm toán, kiểm toán tài chính thường sử dụng tổng
hợp các phương pháp kiểm toán cơ bản, nhằm tìm hiểu và đánh giá tình hình hoạt động
cùng hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ, trong đó phân thành hai loại là phương pháp
kiểm toán chứng từ (cân đối, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu lôgic) và phương pháp kiểm
toán ngoài chứng từ (điều tra, kiểm kê, thực nghiệm).
Xét theo chức năng chung của kiểm toán, kiểm toán tài chính hướng tới việc bày
tỏ các ý kiến trên cơ sở các bằng chứng kiểm toán, để có được các bằng chứng này,
kiểm toán tài chính cần triển khai các phương pháp cơ bản trong từng tình huống cụ thể,
được gọi là phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán.
Ngoài ra, khi xét về đối tượng cụ thể của kiểm toán tài chính là các Báo cáo kế
toán và các bảng tổng hợp tài chính khác, vừa chứa đựng những mối quan hệ kinh tế
tổng quát, vừa phản ánh cụ thể các khoản mục, kiểm toán tài chính phải hình thành
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
6
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
những trắc nghiệm với việc sử dụng liên hoàn các phương pháp cơ bản để đưa ra ý kiến
đúng đắn về các bảng tổng hợp này.
1.1.3 Trình tự kiểm toán tài chính
Do đặc điểm về đối tượng, về quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán nên
trình tự kiểm toán có những đặc điểm riêng, tuy nhiên theo nguyên lý chung thì kiểm
toán tài chính cũng phải trải qua 3 bước cơ bản:
- Giai đoạn 1: Lập kế hoạch, thiết kế phương pháp kiểm toán.
- Giai đoạn 2: Thực hiện kiểm toán.
- Giai đoạn 3: Kết thúc kiểm toán, hoàn tất và công bố báo cáo
Giai đoạn 1- Lập kế hoạch, thiết kế phương pháp kiểm toán: Từ thư mời kiểm
toán, kiểm toán viên tìm hiểu khách hàng với mục đích hình thành hợp đồng hoặc kế
hoạch chung cho cuộc kiểm toán. Tiếp đó, kiểm toán viên cần thu thập các thông tin về
khách hàng, tìm hiểu và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể kiểm toán để
xây dựng kế hoạch cụ thể và chương trình kiểm toán cho từng phần hành, đồng thời

chuẩn bị các phương tiện cùng lực lượng giúp việc cho việc triển khai kế hoạch và
chương trình kiểm toán đã xây dựng.
Giai đoạn 2- Thực hiện công việc kiểm toán: Đây là quá trình sử dụng các trắc
nghiệm vào việc xác minh các thông tin hình thành và phản ánh trên Bảng Khai tài
chính. Trình tự kết hợp giữa các trắc nghiệm này trước hết tuỳ thuộc vào kết quả đánh
giá hệ thống kiểm soát nội bộ ở bước 1. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá
là không có hiệu lực thì các trắc nghiệm vững chãi sẽ được thực hiện với một số lượng
lớn. Ngược lại, nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá là có hiệu lực thì trước hết
trắc nghiệm đạt yêu cầu sẽ được sử dụng để xác định khả năng sai phạm và tiếp đó các
trắc nghiệm vững chãi được áp dụng để xác minh những sai sót có thể có. Nếu trắc
nghiệm đạt yêu cầu lại cho kết quả là hệ thống kiểm soát nội bộ không có hiệu lực thì
trắc nghiệm vững chãi sẽ lại thực hiện với số lượng lớn.
Giai đoạn 3- Hoàn tất công việc kiểm toán: Kết quả các trắc nghiệm trên phải
được xem xét trong quan hệ hợp lý chung và kiểm nghiệm trong quan hệ với sự việc bất
thường, những nghiệp vụ phát sinh sau ngày lập bảng khai tài chính. Chỉ trên cơ sở đó
mới đưa được kết luận cuối cùng và lập báo cáo kiểm toán.
1.2 Lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính
1.2.1 Vai trò và trình tự lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán BCTC
Vai trò của lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán BCTC
Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, kiểm toán viên cần nhận biết được cơ sở
pháp lý cụ thể. Đối với kiểm toán độc lập, việc thực hiện kiểm toán dựa trên cơ sở tự
nguyện, xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp cần có BCTC được kiểm toán. Mục tiêu
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
7
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
cụ thể của kiểm toán sẽ được xác định theo thỏa thuận giữa đơn vị (khách thể) với công
ty kiểm toán độc lập. Đối với KTNN, khi tiến hành kiểm toán là kế hoạch kiểm toán
hàng năm do KTNN xây dựng và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Quyết định
kiểm toán doanh nghiệp nhà nước là do Tổng kiểm toán ký, là điều kiện tiên quyết để
bắt đầu 1 cuộc kiểm toán. Quyết định kiểm toán mang tính chất bắt buộc đối với tổ

chức và đơn vị kinh tế nhà nước được lựa chọn kiểm toán, thể hiện quyền của người sở
hữu (Nhà nước) đối với các đối tượng được giao quyền quản lý hoặc sử dụng tài sản,
nguồn vốn từ ngân sách cấp.
Chính vì thế, lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên nằm trong quy trình
kiểm toán BCTC mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm
tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như các điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán.
Chuẩn mực kiểm toán đầu tiên về thực hành đã được thừa nhận đòi hỏi quá trình lập kế
hoạch phải đầy đủ “Công tác kiểm toán phải được lập kế hoạch đầy đủ và các trợ lý,
nếu có phải được giám sát đúng đắn” (Chuẩn mực kiểm toán thứ tư trong 10 Chuẩn
mực Kiểm toán được thừa nhận rộng rãi – GAAS).
Có ba lý do chính khiến kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán một cách
đúng đắn: thứ nhất, để giúp cho kiểm toán viên có thể thu được những bằng chứng có
giá trị và đầy đủ các tình huống; thứ hai, để giúp giữ các chi phí kiểm toán ở mức hợp
lý; thứ ba và để tránh những bất đồng với khách hàng. Thu được bằng chứng có giá trị
và đầy đủ là điều quan trọng nếu công ty kiểm toán muốn giảm thiểu tối đa trách nhiệm
pháp lý và giữ vững tiếng tốt trong cộng đồng nghề nghiệp. Giữ chi phí ở mức hợp lý
giúp cho công ty đủ sức cạnh tranh và do đó giữ được khách hàng nếu công ty đã có
danh tiếng vì thực hiện công việc có chất lượng. Tránh những bất đồng với khách hàng
có tầm quan trọng đối với việc duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng và tạo điều kiện
thực hiện cuộc kiểm toán có chất lượng và chi phí hợp lý.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 – Lập kế hoạch kiểm toán đã quy định
cụ thể về công tác lập kế hoạch kiểm toán như sau:
“ Kế hoạch kiểm toán phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm
toán phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng
yếu của cuộc kiểm toán ; phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; đảm bảo
cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn. Kế hoạch kiểm toán trợ giúp kiểm toán
viên phân công công việc cho trợ lý kiểm toán và phối hợp với kiểm toán viên và
chuyên gia khác về công việc kiểm toán.” (điều 08)
“Kiểm toán viên và công ty kiểm toán có trách nhiệm lập kế hoạch kiểm toán.
Để lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên có quyền thảo luận với kiểm toán nội bộ,

Giám đốc và các nhân viên của đơn vị được kiểm toán về những vấn đề liên quan đến
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
8
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
kế hoạch kiểm toán và thủ tục kiểm toán nhằm nâng cao hiệu quả công việc kiểm toán
và phối hợp công việc với các nhân viên của đơn vị được kiểm toán”. (điều 11)
Lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc kiểm
toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm
toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy định thành
chuẩn mực và đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân theo đầy đủ
nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và chất lượng. Vì lập kế hoạch
kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán , do đó lập kế hoạch kiểm toán
đóng vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc
kiểm toán.
Do đó, ý nghĩa vai trò lập kế hoạch kiểm toán thể hiện qua việc lập kế hoạch
kiểm toán một cách đúng đắn, điều đó sẽ giúp cho kiểm toán viên có thể: thứ nhất, thu
thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra các ý kiến
chính xác về các Báo cáo tài chính, từ đó giúp cho kiểm toán viên hạn chế những sai
sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững được uy
tín nghề nghiệp đối với khách hàng; thứ hai, phối hợp hiệu quả với nhau các bước công
việc cũng như sử dụng hiệu quả các tài liệu với các bộ phận có liên quan như kiểm toán
nội bộ, các chuyên gia bên ngoài…đồng thời qua đó, kiểm toán viên có thể tiến hành
cuộc kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với các chi phí ở mức hợp lý, tăng cường
sức mạnh cạnh tranh cho công ty kiểm toán và giữ uy tín với khách hàng trong mối
quan hệ làm ăn lâu dài; thứ ba, kiểm toán viên có thể kiểm soát và đánh giá chất lượng
công việc kiểm toán đã và đang thực hiện góp phần nâng cao chất lượng công việc kiểm
toán đã và đang thực hiện, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của cuộc kiểm
toán, từ đó thắt chặt hơn mối quan hệ giữa công ty kiểm toán và khách hàng.
Kế hoạch kiểm toán thấu đáo giúp cho kiểm toán viên chú ý đúng mức vào các
điểm “nút” quan trọng của kiểm toán. Những phần có thể có rủi ro, những vấn đề cần

được nhận dạng và nhữg công việc phải được hoàn tất chóng vánh. Kế hoạch kiểm toán
thích hợp là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xảy ra những bất đồng đối với khách
hàng. Trên cơ sở kế hoạch đã lập, kiểm toán viên thống nhất với các khách hàng về nội
dung công việc sẽ thực hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng như là trách nhiệm của
mỗi bên…Điều này tránh hiểu lầm đáng tiếc của mỗi bên.
Trình tự lập kế hoạch trong kiểm toán Báo cáo tài chính
Chuẩn mực kiểm toán đòi hỏi kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán để trợ
giúp cho cuộc kiểm toán tiến hành có hiệu quả và đúng hạn. Kế hoạch kiểm toán phải
dựa trên cơ sở những hiểu biết về đặc điểm hoạt động kinh doanh của khách hàng và
được xây dựng tuỳ thuộc theo quy mô, độ phức tạp của công việc kiểm toán, kinh
nghiệm của kiểm toán viên…
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
9
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
Theo đoạn 2, VSA 300 – lập kế hoạch kiểm toán: “Kiểm toán viên và công ty
kiểm toán phải lập kế hoạch kiểm toán để đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một
cách có hiệu quả.”
Do đó, lập kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách khoa học và thống nhất
theo chuẩn mực chung được thừa nhận rộng rãi, quá trình này bao gồm 3 bộ phận:
 Lập kế hoạch chiến lược.
 Lập kế hoạch tổng thể.
 Thiết kế chương trình kiểm toán.
Lập kế hoạch chiến lược là bước đầu tiên mà kiểm toán viên và công ty kiểm
toán cần thực hiện trong các cuộc kiểm toán. Với chiến lược được vạch ra cho mỗi cuộc
kiểm toán, kiểm toán viên sẽ lập kế hoạch tổng thể. Kế hoạch tổng thể là cơ sở để lập
chương trình kiểm toán.
Kế hoạch tổng thể được lập cho mọi cuộc kiểm toán cụ thể trong đó mô tả phạm
vi dự kiến và cách thức tiến hành công việc kiểm toán.
Chương trình kiểm toán xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục
kiểm toán cần thiết để thực hiện kế hoạch tổng thể.

Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300 – Lập kế hoạch kiểm toán thì nội
dung và trình tự các bước công việc trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán có thể được
trình bày khái quát qua sơ đồ sau: (trang sau)
Bước đầu tiên trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán là lập kế hoạch chiến lược.
1.2.2 Lập kế hoạch chiến lược
1.2.2.1 Vai trò của lập kế hoạch chiến lược trong quy trình lập kế hoạch kiểm
toán
Kế hoạch kiểm toán chính là công cụ giúp kiểm toán xác định nội dung công
việc cần thực hiện, tổ chức phối hợp công việc, thực hiện và giám sát hoạt động của
đoàn kiểm toán. Kế hoạch là 1 tài liệu tổng hợp về mục tiêu cụ thể của cuộc kiểm toán,
tính chất và các đặc trưng cơ bản của đơn vị được kiểm toán và các giải pháp kiểm toán
cơ bản.
Lập kế hoạch chiến lược là bước đầu tiên mà kiểm toán viên và công ty kiểm
toán cần thực hiện trong các cuộc kiểm toán. Kế hoạch chiến lược bao gồm: “…những
định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và phương pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm
toán do cấp chỉ đạo vạch ra dựa trên hiểu biết về tình hình kinh doanh hoạt động và
môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.” (Đoạn 04, VSA 300).
Cũng theo VSA 300 (đoạn 13): “kế hoạch chiến lược phải được lập cho các
cuộc kiểm toán lớn về quy mô, tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán báo cáo
tài chính của nhiều năm.” Khi cuộc kiểm toán có đặc điểm trên, đơn vị kiểm toán bắt
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
10
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
buộc phải lập kế hoạch chiến lược, còn trong những cuộc kiểm toán khác thì không nhất
thiết phải lập kế hoạch này.
Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ khái quát nội dung và trình tự các bước công việc trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Lập kế hoạch chiến lược đóng vai trò cơ bản trong quy trình lập kế hoạch kiểm
toán như sau:
Thứ nhất, có được sự hiểu biết một cách tổng quát về đơn vị được kiểm toán, là cơ

sở để ra quyết định kiểm toán, từ đó trưởng nhóm kiểm toán có kế hoạch cụ thể thực
hiện cuộc kiểm toán, việc phân bổ tổ, nhóm kiểm toán một cách rõ ràng, thuận tiện cho
việc kiểm toán cũng như chỉ đạo kiểm toán của trưởng nhóm;
 Thứ hai, quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán sẽ được tiến hành đúng dự kiến
theo một trật tự và phạm vi được xác định, tiết kiệm thời gian;
Thứ ba, có phương pháp, kỹ thuật kiểm toán phù hợp với từng loại công việc đã
được dự tính từ trước;
Cuối cùng, xác định thời gian và số lượng kiểm toán viên cần thiết cho toàn bộ
cuộc kiểm toán.
Như vậy, vai trò của lập kế hoạch chiến lược là vạch ra mục tiêu, định hướng cơ
bản, nội dung trọng tâm, phương pháp tiếp cận và tiến trình của cuộc kiểm toán.
1.2.2.2 Nội dung lập kế hoạch chiến lược
Kế hoạch chiến lược được lập cho các cuộc kiểm toán lớn về qui mô, tính chất
phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán báo cáo tài chính nhiều năm. Kế hoạch chiến
lược do người phụ trách cuộc kiểm toán lập và được Giám đốc (hoặc người đứng đầu)
đơn vị phê duyệt. Nhóm kiểm toán phải tuân thủ các quy định của công ty và phương
hướng mà Giám đốc đã duyệt trong kế hoạch chiến lược. Trong quá trình lập kế hoạch
kiểm toán tổng thể và thực hiện kiểm toán nếu phát hiện những vấn đề khác biệt với
nhận định ban đầu của Ban giám đốc thì phải báo cáo kịp thời cho Ban Giám đốc để có
những điều chỉnh phù hợp.
Nội dung và các bước công việc chủ yếu của công việc lập kế hoạch chiến lược
được quy định cụ thể trong VSA 300 như sau:
Bước 1: Xem xét tình hình kinh doanh của khách hàng (tổng hợp thông tin về
lĩnh vực hoạt động, loại hình doanh nghiệp, hình thức sở hữu, công nghệ sản xuất, tổ
chức bộ máy quản lý và thực tiễn hoạt động của đơn vị) đặc biệt lưu ý đến những nội
dung chủ yếu như: Động lực cạnh tranh, phân tích thái cực kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như các yếu tố về sản phẩm, thị trường tiêu thụ, giá cả và các hoạt động hỗ
trợ sau bán hàng...
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
11

Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
12
Lập kế hoạch
chiến lược
Tìm hiểu tình hình kinh
doanh của khách hàng
Dự kiến nhóm trưởng và
thời gian thực hiện
Xác định nhu cầu về các
chuyên gia
Xác định những vấn đề
liên quan đến BCTC
Xác định vùng rủi ro và
ảnh hưởng đến BCTC
Đánh giá hệ thống KSNB
Xác định mục tiêu và
phương pháp kiểm toán
Duyệt và thông báo kế
hoạch chiến lược
Lập kế hoạch
tổng thể
Thu thập thông tin về hoạt
động của khách hàng
Tổng hợp kế hoạch tổng
thể
Các vấn đề khác
Thu thập hiểu biết hệ
thống kế toán và hệ thống
kiểm soát nội bộ

Đánh giá rủi ro và xác
định mức độ trọng yếu
Xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của thủ
tục kiểm toán
Phối hợp, chỉ đạo, giám
sát, kiểm tra
Lập chương
trình kiểm toán
Xác định tài liệu yêu cầu
khách hàng chuẩn bị
Các vấn đề khác
Xác định các mục tiêu
kiểm toán đặc thù
Thiết kế các thủ tục phân
tích
Thiết kế các thủ tục kiểm
toán chi tiết
Xác định các thủ tục kiểm
toán bổ sung
Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ khái quát nội dung và trình tự các bước công việc
trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
Bước 2: Xác định những vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính như chế
độ kế toán, chuẩn mực kế toán áp dụng, yêu cầu về lập báo cáo tài chính và quyền hạn
của công ty.
Bước 3: Xác định vùng rủi ro chủ yếu của doanh nghiệp và ảnh hưởng của nó tới
báo cáo tài chính (đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát).
Bước 4: Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ.
Bước 5: Xác định các mục tiêu kiểm toán trọng tâm và phương pháp tiếp cận

kiểm toán.
Bước 6: Xác định nhu cầu về sự hợp tác của các chuyên gia: Chuyên gia tư vấn
pháp luật, kiểm toán viên nội bộ, kiểm toán viên khác và các chuyên gia khác như kỹ sư
xây dựng, kỹ sư nông nghiệp...
Bước 7: Dự kiến nhóm trưởng và thời gian thực hiện.
Bước 8: Giám đốc duyệt và thông báo kế hoạch chiến lược cho nhóm kiểm toán.
Căn cứ kế hoạch chiến lược đã được phê duyệt, trưởng nhóm kiểm toán lập kế hoạch
kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán.
1.2.3 Lập kế hoạch tổng thể
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 quy định: “Kế hoạch kiểm toán phải
được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của
cuộc kiểm toán, đảm bảo phát hiện những vấn đề tiềm ẩn và cuộc kiểm toán được hoàn
thành đúng hạn”.
Do đó, kế hoạch kiểm toán tổng thể “là việc cụ thể hoá kế hoạch chiến lược và
phương pháp tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các thủ tục
kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể là để có thể thực hiện
công việc kiểm toán một cách có hiệu quả và theo đúng thời gian dự kiến”.(Đoạn 05,
VSA 300).
Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán, trong đó mô
tả phạm vi dự kiến và cách thức tiến hành công việc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán
tổng thể phải đầy đủ, chi tiết làm cơ sở để lập chương trình kiểm toán. Hình thức và nội
dung của kế hoạch kiểm toán tổng thể thay đổi tuỳ theo qui mô của khách hàng, tính
chất phức tạp của công việc kiểm toán, phương pháp và kỹ thuật kiểm toán đặc thù do
kiểm toán viên sử dụng.
Do đó, việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể thường được triển khai qua các
bước chi tiết sau.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
13
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
Sơ đồ 1.2 : Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán

1.2.3.1 Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Chuẩn bị kiểm toán là bước công việc đầu tiên của một quy trình kiểm toán
nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như các điều kiện cơ bản khác để tiến hành một
cuộc kiểm toán.
Chính vì lý do này bước chuẩn bị là hết sức quan trọng và là bước quyết định
hiệu quả, hiệu năng và chất lượng của một cuộc kiểm toán. Quá trình chuẩn bị kế hoạch
bao gồm việc quyết định có nên chấp nhận hoặc tiếp tục thực hiện kiểm toán cho khách
hàng hay không, việc đánh giá các lý do của khách hàng đối với cuộc kiểm toán, việc
lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán và việc ký kết một thư hợp đồng.
1.2.3.1.1 Tiếp nhận khách hàng
Trong một lĩnh vực phải chịu nhiều cạnh tranh như kiểm toán, việc có và giữ
được một khách hàng tuy có thể khó khăn, thế nhưng kiểm toán viên vẫn cần thận trọng
khi quyết định tiếp nhận khách hàng. Bởi lẽ, rủi ro có thể phải nhận trách nhiệm pháp lý
của kiểm toán viên rất cao, do đó nếu nhận kiểm toán cho những khách hàng thiếu trung
thực, hoặc thường tranh luận về phạm vi kiểm toán và giá phí hoặc nếu vi phạm đạo
đức nghề nghiệp, kiểm toán viên có thể sẽ gặp phải những bất lợi nghiêm trọng trong
tương lai…Chính vì thế, đoạn 12 VSA 220 – Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
14
Chuẩn bị kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin pháp lý của khách hàng và thực hiện thủ tục phân tích
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Tìm hiểu hệ thống KSNB và đánh giá rủi ro kiểm soát
Lập KHKT toàn diện và soạn thảo chương trình kiểm toán
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
– nêu rõ:“…Trong quá trình duy trì khách hàng hiện có và đánh giá khách hàng tiềm
năng, Công ty kiểm toán phải cân nhắc đến tính độc lập, năng lực phục vụ khách hàng
của Công ty kiểm toán và tính chính trực của Ban quản lý khách hàng”.
Vì thế nên khi được mời kiểm toán, Công ty kiểm toán phải phân công cho

những kiểm toán viên nhiều kinh nghiệm để thẩm định về khả năng đảm nhận công
việc cũng như dự kiến về thời gian và phí kiểm toán.
 Đối với khách hàng mới
Trước hết, kiểm toán viên cần tìm hiểu lý do mời kiểm toán của khách hàng, thu
thập thông tin về các khía cạnh như lĩnh vực kinh doanh, thu thập thông tin về các khía
cạnh như lĩnh vực kinh doanh, tình trạng tài chính. Kiểm toán viên phải tăng cường
lượng thông tin thu thập khi mà báo cáo tài chính của khách hàng sẽ được sử dụng rộng
rãi, nhất là đối với các công ty cổ phần có niêm yết trên thị trường, những Công ty có
nhiều công nợ…kiểm toán viên cũng cần thu thập thông tin từ các ngân hàng dữ liệu, từ
báo chí, sách báo chuyên ngành…
Trong trường hợp đã có kiểm toán viên tiền nhiệm, kiểm toán viên phải tiếp xúc
với họ và do nguyên tắc bảo mật nên họ chỉ có thể trả lời các câu hỏi của kiểm toán
viên kế nhiệm nếu có được sự đồng ý chính thức của đơn vị. Việc tiếp xúc này rất hữu
ích vì giúp kiểm toán viên đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán. Kiểm toán viên cần
thu thập những thông tin bao gồm: những thông tin về tính chính trực của các nhà quản
lý đơn vị, các bất đồng giữa hai bên (nếu có), lý do khiến họ không tiếp tục cộng tác với
nhau…Kiểm toán viên sẽ phải rất thận trọng trong các trường hợp sau:
- Khách hàng không đồng ý cho tiếp xúc với kiểm toán viên tiền nhiệm.
- Trước đây giữa đôi bên đã xảy ra những bất đồng nghiêm trọng, nên các câu
trả lời của kiểm toán viên tiền nhiệm bị giới hạn và họ không thể cung cấp
được những thông tin cần thiết.
- Qua ý kiến của người tiền nhiệm, kiểm toán viên kế nhiệm đã phát hiện ra
được một số vấn đề bất thường và trọng yếu.
Với các thông tin thu thập được, kiểm toán viên nghiên cứu và phân tích sơ bộ
về tình hình tài chính của đơn vị, đánh giá và ước lượng sơ bộ về mức trọng yếu và rủi
ro tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh của khách hàng để quyết định xem có nhận lời
kiểm toán hay không? Nếu tiếp nhận, kiểm toán viên cần khẳng định được rằng sẽ
không vi phạm luật pháp và đạo đức nghề nghiệp. Kiểm toán viên sẽ không nhận lời khi
tính độc lập không được bảo đảm hoặc xét thấy không đủ năng lực phục vụ khách
hàng…

 Đối với khách hàng thường xuyên
Hàng năm, kiểm toán viên phải cập nhật các thông tin về khách hàng và đánh giá
xem liệu có rủi ro nào khiến kiểm toán viên phải ngừng cung cấp các dịch vụ kiểm toán
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
15
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
cho họ hay không? Kiểm toán viên có thể ngừng cung cấp dịch vụ kiểm toán cho khách
hàng trong trường hợp hai bên có những mâu thuẫn về các vấn đề như: phạm vi thích
hợp của cuộc kiểm toán, loại báo cáo kiểm toán phải công bố, tiền thù lao hoặc giữa hai
bên có những vụ kiện tụng hoặc trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng Ban Giám
đốc khách hàng thiếu liêm chính… Từ những thông tin thu được, kiểm toán viên có thể
cân nhắc đánh giá khả năng chấp nhận hay tiếp tục kiểm toán cho khách hàng.
1.2.3.1.2 Phân công kiểm toán viên
Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán thích hợp cho cuộc kiểm toán không chỉ
hướng tới hiệu quả của cuộc kiểm toán mà còn tuân thủ các Chuẩn mực Kiểm toán
chung được thừa nhận (GAAS). Chuẩn mực Kiểm toán đầu tiên nêu rõ “quá trình kiểm
toán phải được thực hiện bởi một hoặc nhiều người đã được đào tạo đầy đủ thành thạo
như một kiểm toán viên”.
1
Do đó, khi phân công kiểm toán viên, Công ty kiểm toán cần tuân thủ yêu cầu
trên. Ngoài ra, đối với các khách hàng lâu năm, Công ty kiểm toán nên hạn chế việc
thường xuyên thay đổi kiểm toán viên, nhằm giúp cho họ nắm vững được những nét
đặc thù trong kinh doanh, duy trì được mối liên hệ mật thiết giữa hai bên…Mặt khác,
Công ty kiểm toán phải có chính sách luân chuyển kiểm toán viên để tránh việc quá
quen thuộc với khách hàng, dễ dẫn đến sức ỳ về tâm lý và kiểm tra theo lối mòn, hoặc
mất đi tính khách quan, độc lập…
1.2.3.1.3 Thỏa thuận sơ bộ với khách hàng
Khi thấy rằng có thể nhận lời mời kiểm toán, kiểm toán viên sẽ trao đối và thỏa
thuận sơ bộ với khách hàng về một số vấn đề, chẳng hạn như:
- Mục đích và phạm vi kiểm toán: ví dụ như kiểm toán để xin vay tiền ngân

hàng, để cổ phần hóa…Các dịch vụ khác mà kiểm toán viên có thể phục vụ
khách hàng, như góp ý để cải tiến kiểm soát nội bộ, tư vấn quản lý…
- Việc cung cấp tài liệu kế toán và các phương tiện cần thiết cho cuộc kiểm
toán của khách hàng.
- Vấn đề sử dụng nhân viên của khách hàng để tiết kiệm thời gian và phí kiểm
toán.
- Vấn đề kiểm tra số dư đầu kỳ đối với các khách hàng mới.
- Phí kiểm toán…
Trong quá trình này, kiểm toán viên cần chú ý trình bày rõ về những nét đặc thù
của kiểm toán Báo cáo tài chính để tạo sự thống nhất về nhận thức giữa đôi bên. Điều
này có ý nghĩa quan trọng ở Việt Nam, bởi lẽ nhiều nhà quản lý còn chưa hiểu biết về
hoạt động này, và do còn có những vấn đề pháp lý của hoạt động kiểm toán độc lập ở
1
Đoạn 6 ISA 220
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
16
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
Việt Nam cũng chưa được minh định rõ ràng. Trên cơ sở những thỏa thuận, hai bên sẽ
xúc tiến việc ký hợp đồng kiểm toán.
1.2.3.1.4 Hợp đồng kiểm toán
Tại đoạn 04 của VSA số 210 - Hợp đồng kiểm toán: “Hợp đồng kiểm toán là sự
thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên tham gia ký kết (công ty kiểm toán, khách hàng)
về các điều khoản và điều kiện thực hiện kiểm toán của khách hàng và Công ty kiểm
toán, trong đó xác định mục tiêu, phạm vi kiểm toán, quyền và trách nhiệm của mỗi bên,
hình thức báo cáo kiểm toán, thời gian thực hiện và các điều khoản về phí, về xử lý khi
tranh chấp hợp đồng. Hợp đồng kiểm toán phải được lập và ký chính thức trước khi
tiến hành công việc kiểm toán nhằm bảo vệ quyền lợi của Công ty khách hàng và của
Công ty kiểm toán.

Thêm vào đó Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 210 cũng quy định việc ký kết

hợp đồng kiểm toán phải tuân thủ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (ban hành ngày
25/09/1989) và Nghị định số 17/HĐBT (nay là Chính phủ) ban hành ngày 16/01/1990
quy định chi tiết về việc thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế.
Đoạn 6 VSA 210 quy định hợp đồng kiểm toán phải có các điều khoản chung
của hợp đồng kinh tế theo quy định hiện hành, có thể thay đổi phù hợp với sự thỏa
thuận của các bên, nhưng phải bao gồm các yếu tố chủ yếu sau đây:
- Số hiệu văn bản, ngày, tháng, năm ký hợp đồng;
- Tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của các bên;
- Nội dung dịch vụ;
- Chất lượng hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc…
Ngoài những yếu tố chủ yếu nói trên, hợp đồng kiểm toán còn có các nội dung
sau:
- Mục đích và phạm vi kiểm toán.
- Trách nhiệm Ban Giám đốc Công ty khách hàng và KTV.
- Hình thức thông báo kết quả kiểm toán.
- Thời gian tiến hành cuộc kiểm toán.
- Căn cứ tính giá phí cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán.
Trong hợp đồng, kiểm toán viên cần nêu rõ loại báo cáo kiểm toán được phát
hành sẽ tùy vào mức độ trung thực và hợp lý, phù hợp với các chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành. Đồng thời, cần khẳng định với đơn vị là kiểm toán viên không có trách
nhiệm phát hiện mọi sai sót , vì rằng “Giám đốc (hoặc người đứng đầu đơn vị chịu
trách nhiệm trực tiếp trong việc ngăn chặn, phát hiện và xử lý các gian lận và sai sót
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
17
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
trong đơn vị thông qua việc xây dựng và duy trì thực hiện thường xuyên hệ thống kế
toán và hệ thống kiểm soát nội bộ thích hợp” ( VSA 240 – Gian lận và sai sót).
Sau khi hai bên ký kết và đã hoàn tất mọi thủ tục pháp lý cần thiết, Công ty kiểm
toán sẽ chính thức trở thành kiểm toán viên của đơn vị. (Phụ lục minh họa biểu mẫu
của một hợp đồng kiểm toán.)

1.2.3.2 Thu thập thông tin cơ sở
Mỗi ngành nghề kinh doanh đều có những đặc điểm riêng biệt, chính đặc điểm
đó ảnh hưởng đến các nguyên tắc kế toỏn đặc thự. Hơn nữa, việc hiểu thấu đáo về hoạt
động kinh doanh của khách hàng cũng như ngành nghề mà khách hàng đang hoạt động
đó giúp cho kiểm toán viên phân biệt được các sự kiện, nghiệp vụ, thực tiễn và xét đoán
chính xác các thông tin tài chính.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 310 - Hiểu biết về tình hình kinh doanh đó
hướng dẫn: “ Để thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải có hiểu
biết cần thiết, đầy đủ về tình hình kinh doanh nhằm đánh giá và phân tích được các sự
kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của đơn vị được kiểm toán mà theo kiểm toán
viên thì có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của kiểm toán
viên hoặc đến báo cáo kiểm toán”
2
.
Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế ISA 310 – Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của
đơn vị hướng dẫn: “Để thực hiện công tác kiểm toán tài chính, chuyên gia kiểm toán
phải có hiểu biết đầy đủ về hoạt động kinh doanh của đơn vị để xác định và hiểu biết
các sự kiện, nghiệp vụ và thông lệ của đơn vị, mà theo đánh giá của chuyên gia kiểm
toán, có thể có một tác động quan trọng đến Báo cáo tài chính, đến việc kiểm tra của
chuyên gia kiểm toán hoặc đến báo cáo kiểm toán”.
3
Điều này rất cần thiết khi kiểm toán viên thực hiện kiểm toán với tính thận trọng
nghề nghiệp đúng mức. Mỗi ngành nghề sản xuất kinh doanh có những hệ thống kế
toán riêng và áp dụng các nguyên tắc kế toán đặc thù . Thêm vào dó, tầm quan trọng
của nguyên tắc kế toán cũng thay đổi theo ngành nghề kinh doanh của khách hàng.
Những hiểu biết về ngành nghề kinh doanh bao gồm: “những hiểu biết chung về
kinh tế và đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh có tác động đến đơn vị được kiểm toán;
những hiểu biết về đặc điểm của khách hàng như: lĩnh vực hoạt động , kết quả tài
chính và nghĩa vụ cung cấp thông tin kể cả những thay đổi từ lần kiểm toán trước; hiểu
biết về năng lực của Ban Giám Đốc”

4
. Cụ thể như:
- Hiểu biết chung về nền kinh tế: thực trạng nền kinh tế, các tỷ lệ lãi suất và
khả năng tài chính của nền kinh tế, mức độ lạm phát và giá trị đơn vị tiền
tệ...
2
Đoạn 2 VSA 310
3
Đoạn 2 ISA 310
4
Đoạn 22 VSA 300
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
18
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
- Môi trường và lĩnh vực hoạt động của đơn vị được kiểm toán: thị trường và
cạnh tranh, đặc điểm hoạt động kinh doanh, các thay đổi trong công nghệ sản
xuất kinh doanh, rủi ro kinh doanh, chuẩn mực kế toán và các vấn đề có liên
quan...
- Các nhân tố bên trong của đơn vị được kiểm toán: các đặc điểm quan trọng
về sở hữu và quản lý, tình hình kinh doanh của đơn vị, khả năng tài chính...
Muốn thực hiện đúng đắn công việc của mình, kiểm toán viên còn phải hiểu cả
những khía cạnh đặc thù của một tổ chức cụ thể để hiểu rõ cơ cấu tổ chức của đơn vị
đó, dây chuyền và các dịch vụ sản xuất, cơ cấu vốn, chức năng và vị trí của kiểm toán
nội bộ…để hiểu rõ các sự kiện, các nghiệp vụ và các hoạt động có thể tác động đến báo
cáo tài chính và để thực hiện so sánh khách hàng này với các đơn vị khác trong ngành
nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đó.
Sự hiểu biết về ngành kinh doanh của khách hàng có thể thu thập theo nhiều
cách khác nhau. Đó là qua những cuộc tranh luận đối với kiểm toán viên có trách nhiệm
với hợp đồng trong những năm trước và kiểm toán viên hiện nay trong các hợp đồng
tương tự, cũng như qua các buổi hội nghị với nhân viên của khách hàng, trao đổi trực

tiếp với Ban Giám đốc công ty khách hàng. Kiểm toán viên có thể có những kiến thức
đó qua nghiên cứu sách báo, tạp chí chuyên ngành và ở Việt Nam kiểm toán viên có thể
lấy các thông tin từ Niêm giám thống kê do Tổng cục thống kê phát hành hằng năm.
Kiến thức đáng kể cũng có thể thu thập theo cách tham gia một cách tích cực vào các
Hiệp hội Kế toán, Kiểm toán và các chương trình huấn luyện.
Những hiểu biết về đặc thù kinh doanh của khách hàng không chỉ hữu ích trong
quá trình xây dựng kế hoạch kiểm toán mà còn giúp cho kiểm toán viên nhanh chóng
xác định được các “khu vực” trọng tâm cần đặc biệt lưu ý khi kiểm toán, đánh giá tính
hợp lý của dự toán kế toán và các giải trình của các nhà quản lý cũng như xét đoán về
sự thích hợp của chế độ kế toán và sự thể hiện của chế độ này.
1.2.3.2.1 Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung
Các hồ sơ năm trước thường chứa đựng rất nhiều thông tin khách hàng, về công
việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức, điều lệ Công ty, chính sách tài chính, kế toán... Ngoài
ra đa phần các Công ty kiểm toán đều duy trì hồ sơ kiểm toán thường xuyên đối với
mỗi khách hàng. Qua đó kiểm toán viên sẽ tìm thấy những thông tin hữu ích về công
việc kinh doanh của khách hàng
Việc cập nhật và xem xét các sổ sách của Công ty là rất cần thiết nhằm xác
định các quyết định của nhà quản lý có phù hợp với luật pháp của nhà nước, với các
chính sách hiện hành của Công ty hay không mà còn giúp kiểm toán viên hiểu được bản
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
19
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
chất của các số liệu cũng như sự biến động của chúng trên các Báo cáo tài chính được
kiểm toán.
1.2.3.2.2 Tham quan nhà xưởng
Việc tham quan nhà xưởng, quan sát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của
khách hàng sẽ cung cấp cho kiểm toán viên những điều mắt thấy tai nghe về quy trình
sản xuất kinh doanh của khách hàng và qua đó đã cho kiểm toán viên một cái nhìn tổng
thể về công việc kinh doanh của khách hàng. Cách nhìn thực tế về các phương tiện vật
chất giúp cho việc hiểu được công tác bảo vệ tài sản và tạo điều kiện cho việc thuyết

minh số liệu kế toán, phát hiện những vấn đề cần quan tâm như sản xuất trì trệ, sản phẩm
ứ đọng, máy móc lạc hậu hay không được phát huy hết công suất... Ngoài ra, kiểm toán
viên cũng có được nhận định ban đầu về phong cách quản lý của Ban Giám đốc, tính hệ
thống trong việc tổ chức, sắp đặt công việc...
1.2.3.2.3 Nhận diện các bên liên quan
Tại đoạn 05 của VSA 550 - Các bên liên quan: “Các bên được được coi là liên
quan nếu một bên có khả năng kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể đối với bên kia
trong việc ra quyết định tài chính và hoạt động”.
Theo nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận bản chất mối quan hệ giữa các bên
hữu quan phải được tiết lộ trên sổ sách, báo cáo và qua mô tả các nghiệp vụ kinh tế, gồm
cả số tiền; và số tiền nợ hoặc bị nợ của các bên đối tác có liên quan. Do vậy, các bên hữu
quan và các nghiệp vụ giữa các bên hữu quan có ảnh hưởng lớn đến Báo cáo tài chính và
sự nhận định của người sử dụng Báo cáo tài chính. Do vậy, kiểm toán viên phải xác định
các bên hữu quan và nhận định sơ bộ về mối quan hệ này ngay trong giai đoạn lập kế
hoạch thông qua phỏng vấn Ban Giám đốc, xem sổ theo dõi cổ đông, sổ theo dõi khách
hàng... từ đó bước đầu dự đoán các vấn đề có thể phát sinh giữa các bên hữu quan để có
thể hoạch định một kế hoạch kiểm toán phù hợp.
1.2.3.2.4 Dự đoán nhu cầu chuyên gia bên ngoài
Thuật ngữ “ chuyên gia” chỉ một người hoặc một văn phòng có năng lực, hiểu
biết trong một lĩnh vực riêng ngoài lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Nếu Công ty kiểm
toán cho rằng không ai trong nhóm kiểm toán có chuyên môn hay có khả năng về lĩnh
vực nào đó để thực hiện những thủ tục kiểm toán cần thiết nhất định thì công ty kiểm
toán có thể quyết định sử dụng chuyên gia bên ngoài.
Tại đoạn 08, 09 và 11 của VSA số 620 - Sử dụng tư liệu của một chuyên gia
hướng dẫn khi sử dụng chuyên gia thì KTV và Công ty Kiểm toán phải xác định năng
lực chuyên môn, tính khách quan của chuyên gia này...thu thập đầy đủ bằng chứng
kiểm toán thích hợp nhằm chứng minh rằng công việc của chuyên gia có thể đáp ứng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
20
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44

được mục đích của cuộc kiểm toán. Lập kế hoạch đúng đắn là điều cần thiết để đảm
bảo rằng chuyên gia đã có sẵn khi cần và chuyên gia bắt buộc phải có năng lực và độc
lập với Công ty khách hàng.
1.2.3.3 Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Nếu các thông tin cơ sở được thu thập ở trên giúp cho KTV hiểu được về các
hoạt động kinh doanh của khách hàng, thì việc thu thập các thông tin về nghĩa vụ pháp
lý của khách hàng giúp cho KTV nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lý có ảnh
hưởng đến các mặt hoạt động kinh doanh này. Có 3 loại thông tin có liên quan đến trách
nhiệm pháp lý của đơn vị được kiểm toán:
- Các thông tin về sự hiện diện hợp pháp và các quy định cho hoạt động kinh
doanh của đơn vị được kiểm toán (các thông tin về tính hợp pháp về hoạt
động của đơn vị).
- Các quy định về điều lệ quy chế hoạt động của đơn vị không được trái với
các văn bản pháp luật hiện hành.
- Các tuyên bố liên quan đến sát nhập các đơn vị thành viên của đơn vị được
kiểm toán.
Thông thường các văn bản trên được thu thập trong quá trình tiếp xúc với Ban
Giám đốc Công ty khách hàng cụ thể bao gồm các loại sau:
- Giấy phép thành lập và điều lệ của Công ty.
- Biên bản các cuộc họp cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc.
- Các Báo cáo tài chính, BCKT, các biên bản thanh tra hay kiểm tra của năm
hiện hành hay trong vài năm trước.
- Các hợp đồng và cam kết quan trọng.
1.2.3.4 Thực hiện các thủ tục phân tích
Tại đoạn 04 của VSA số 520 - Quy trình phân tích: “ Thủ tục phân tích là việc
phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra xu hướng biến
động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc
có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến”.
Tại đoạn 09 của VSA số 520 - Quy trình phân tích: “ KTV phải áp dụng quy
trình phân tích trong quá trình lập KHKT để tìm hiểu tình hình kinh doanh của đơn vị

và xác định những vùng có thể có rủi ro”.
Tại đoạn 08 của ISA 520 - Các thủ tục phân tích, quy định: “Chuyên gia kiểm
toán phải áp dụng các thủ tục phân tích khi tiến hành lập KHKT để hiểu rõ hơn hoạt
động của đơn vị và xác định những lĩnh vực có nhiều rủi ro tiềm tàng”.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
21
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
Các thủ tục phân tích được KTV sử dụng gồm hai loại cơ bản:
CPhân tích ngang (phân tích xu hướng): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các trị
số của cùng một chỉ tiêu trên BCTC. Các chỉ tiêu phân tích ngang được sử dụng bao gồm:
so sánh số liệu kỳ này với số liệu kỳ trước hoặc giữa các kỳ với nhau, so sánh số liệu thực tế
với số liệu dự toán hoặc số liệu ước tính của KTV, so sánh dữ kiện của Công ty khách hàng
với dữ liệu chung của ngành.
v Phân tích dọc (phân tích tỷ suất tài chính): là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh
các tỷ lệ tương quan của các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau trên BCTC. Các tỷ suất
tài chính thường được sử dụng trong phân tích dọc là: tỷ suất về khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn (tỷ số thanh toán hiện hành, tỷ số thanh toán nhanh, tỷ số thanh toán bằng tiền
mặt), tỷ suất về khả năng sinh lời...
1.2.3.5 Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán
1.2.3.5.1 Đánh giá trọng yếu
Tại đoạn 02 và 03 của ISA số 320 - Trọng yếu trong kiểm toán: “Khi tiến hành
một cuộc kiểm toán, chuyên gia kiểm toán phải cân nhắc tới tính trọng yếu của một
thông tin và mối quan hệ của nó tới rủi ro kiểm toán... Thông tin là trọng yếu nếu việc
bỏ sót hoặc sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người
sử dụng BCTC”.

Tại đoạn 04 của VSA số 320 - Tính trọng yếu trong kiểm toán, xác định: “Trọng
yếu là thuật ngữ thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong
BCTC. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu tính thông tin đó hoặc

thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng
BCTC”.
KTV cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC và phân bổ mức đánh giá đó cho
từng khoản mục trên BCTC.
• Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn bộ BCTC
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin rằng ở mức
đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người
sử dụng thông tin tài chính. Nói cách khác đó chính là những sai sót có thể chấp nhận
được đối với toàn bộ BCTC.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp KTV thu thập bằng chứng kiểm
toán thích hợp. Cụ thể là nếu các KTV ước lượng mức trọng yếu càng thấp, nghĩa là độ
chính xác của số liệu trên Báo cáo tài chính càng cao, thì số lượng bằng chứng thu thập
càng nhiều và ngược lại. Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu không cố định mà có thể
thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu KTV thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
22
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
cao hay quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng ban đầu
về tính trọng yếu bị thay đổi. Khi xây dựng ước lượng ban đầu về tính trọng yếu KTV
cần lưu ý những yếu tố ảnh hưởng sau:
c Tính trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một đối tượng tuyệt đối, gắn liền
với quy mô của Công ty khách hàng. Một sai phạm với quy mô nhất định có thể là trọng yếu
đối với một Công ty nhỏ nhưng lại không trọng yếu đối với một Công ty lớn. Do vậy, việc
xác định và chỉ dẫn một mức giá trị cụ thể bằng tiền cho sự ước lượng ban đầu về tính trọng
yếu áp dụng cho tất cả các khách hàng là điều không thể làm được.
y Yếu tố định lượng của tính trọng yếu: quy mô sai phạm là một yếu tố quan trọng để
xem xét liệu các sai phạm có trọng yếu hay không. Tuy nhiên, trọng yếu mang tính chất
tương đối nên việc có được các cơ sở quyết định xem một quy mô của một sai phạm nào có
là trọng yếu hay không là một điều cần thiết.
l Yếu tố định tính của trọng yếu: trong thực tế để xác định một sai phạm là trọng yếu

hay không, KTV phải xem xét, đánh giá cả về mặt quy mô (số lượng) và bản chất (chất
lượng) của sai sót đó. Một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô của nó
là bao nhiêu.
Những yếu tố liên quan đến bản chất của sai phạm cần phải được xem xét khi
tiến hành ước lượng ban đầu về tính trọng yếu:
- Các gian lận thường được xem là quan trọng hơn các sai sót với cùng một quy
mô tiền tệ bởi các gian lận thường làm người ta nghĩ tới tính trung thực và độ tin cậy
của Ban Giám đốc hay những người có liên quan.
- Các sai sót với quy mô nhỏ nhưng lặp đi lặp lại hoặc gây tác động dây chuyền
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thông tin trên BCTC thì luôn được xem là sai phạm
trọng yếu vì đây là sai phạm có tính hệ thống.
- Các sai phạm làm ảnh hưởng đến thu nhập thì luôn là sai phạm trọng yếu.
Chẳng hạn như: một sai phạm khiến một khoản lỗ được báo cáo thành một khoản lãi thì
luôn được coi là sai phạm trọng yếu bất kể quy mô của sai phạm này là bao nhiêu.
Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục trên Báo cáo tài
chính
Sau khi KTV có được ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn bộ BCTC,
KTV cần phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính. Đó
cũng chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục.
Mục đích của việc phân bổ này là giúp KTV xác định được số lượng bằng chứng
kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất có
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
23
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
thể mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên Báo cáo tài chính không vượt qua mức
ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.
Do hầu hết các thủ tục kiểm toán đều tập trung vào các tài khoản trên Bảng cân
đối kế toán nên KTV thường phân bổ mức ước lượng cho các tài khoản trên Bảng cân
đối kế toán thay vì các tài khoản trên Báo cáo kết quả kinh doanh. Việc phân bổ được
thực hiện theo cả hai chiều hướng mà các sai phạm có thể diễn ra: đó là tình trạng khai

khống (số liệu trên sổ sách lớn hơn thực tế) và khai thiếu (số liệu trên sổ sách nhỏ hơn
trên thực tế).
Cơ sở để tiến hành phân bổ là: bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát đánh giá sơ bộ đối với các khoản mục, kinh nghiệm của KTV và chí
phí kiểm toán đối với từng khoản mục.
Trong thực tế, rất khó dự đoán về khả năng xảy ra sai sót cũng như chi phí kiểm
toán cho từng khoản mục nên công việc này mang tính chủ quan và đòi hỏi sự xét đoán
nghề nghiệp của KTV. Do vậy, Công ty kiểm toán thường phân công các KTV có trình
độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm để thực hiện công việc này.
1.2.3.5.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán
Tại đoạn 03 của ISA 400 - Đánh giá rủi ro và KSNB nêu rằng: “Rủi ro kiểm toán
là rủi ro mà chuyên gia kiểm toán đưa ra một ý kiến không đúng cho những sai sót trọng
yếu trong BCTC. Rủi ro này được chia thành ba mức: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát
và rủi ro phát hiện”

Tại đoạn 07 của VSA số 400 - Đánh giá rủi ro và KSNB: “Rủi ro kiểm toán là
rủi ro do Công ty kiểm toán và KTV đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi BCTC
đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ
phận: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”.
Rủi ro kiểm toán mong muốn (DAR – Desired Audit Risk)
Rủi ro kiểm toán mong muốn là rủi ro được xác định một cách chủ quan. Đó là mức độ
mà KTV sẵn sàng chấp nhận là Báo cáo tài chính có thể có sai sót trọng yếu sau khi
cuộc kiểm toán hoàn thành và đã đi đến ý kiến chấp nhận toàn phần. Khi KTV quyết
định một tỷ lệ rủi ro thấp hơn có, điều này có nghĩa là KTV muốn được chắc chắn hơn
là BCTC không bị sai phạm trọng yếu. Mức rủi ro này được xác định phụ thuộc vào hai
yếu tố sau:
- Mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào Báo cáo tài chính
của doanh nghiệp: khi những người sử dụng bên ngoài đặt nhiều niềm tin vào BCTC thì
KTV cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm
toán thu thập và tăng độ chính xác trong kết luận đưa ra của mình.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
24
Vũ Quỳnh Hương Kiểm toán 44
- Khả năng khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi BCKT công bố: Trong
trường hợp KTV tin rằng khả năng khách hàng gặp khó khăn về tài chính là cao cần
quyết định rủi ro kiểm toán giảm xuống để bảo vệ chất lượng của cuộc kiểm toán. KTV
có thể dựa vào các cơ sở sau đây để phán đoán sự kiện này: khả năng hoán chuyển thành
tiền mặt, các khoản lãi (lỗ) trong các năm trước, các biện pháp nhằm gia tăng quá trình tài
trợ, bản chất công việc kinh doanh của khách hàng.
Căn cứ vào các yếu tố trên KTV sẽ xác định một mức rủi ro kiểm toán mong
muốn cho toàn bộ các BCTC được kiểm toán. Rủi ro kiểm toán mong muốn và bằng
chứng kiểm toán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
Đánh giá rủi ro tiềm tàng (IR - Inherent Risk)
Tại đoạn 4 của ISA 400 - Đánh giá rủi ro và KSNB, định nghĩa: “Rủi ro tiềm
tàng là khả năng số dư của một tài khoản trong BCTC có chứa đựng những sai sót trọng
yếu khi tính riêng biệt hoặc tính gộp với các sai sót trong các tài khoản khác, dù có hay
không có KSNB”.

Tại đoạn 04 của VSA số 400 - Đánh giá rủi ro và KSNB: “Rủi ro tiềm tàng là
rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC chứa
đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ
thống KSNB”.
Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
trong môi trường kinh doanh cũng như trong bản chất số dư các tài khoản hoặc các loại
nghiệp vụ kinh tế.
Do vậy, khi đánh giá rủi ro cố hữu KTV phải dựa vào các yếu tố ảnh hưởng
sau: bản chất kinh doanh của khách hàng, đặc điểm hoạt động của đơn vị, tính chính
trực của Ban Giám đốc, kết quả các lần kiểm toán trước, hợp đồng kiểm toán lần đầu và
hợp đồng kiểm toán dài hạn, các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên, các ước tính
kế toán, quy mô của các số dư tài khoản, các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt

động kinh doanh của khách hàng.
KTV cần cân nhắc lần lượt các yếu tố trên và quyết định mức rủi ro tiềm tàng
thích hợp đối với từng khoản mục trên Báo cáo tài chính. Rủi ro tiềm tàng có quan hệ tỷ
lệ thuận với bằng chứng kiểm toán.
Đánh giá rủi ro kiểm soát (CR - Control Risk)
Tại đoạn 5 của ISA 400 - Đánh giá rủi ro và KSNB, nêu rõ: “Rủi ro kiểm soát
là rủi ro trong đó một sai sót trọng yếu trong một tài khoản trong BCTC, riêng biệt hay
gộp với các sai sót trong những tài khoản khác, đã không được hệ thống kế toán và hệ
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
25

×