Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

ON TAP THO HIEN DAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.63 KB, 39 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>ĐỒNG CHÍ I. Tác giả: (1926 – 2007) - Tên thật Trần Đình Đắc, bút danh: Chính Hữu - Là nhà thơ – chiến sĩ trong suốt thời gian chống Pháp – Mĩ - Sáng tác chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến. Đặc biệt là tình cảm đồng chí, đồng đội, sự gắn bó của tiền tuyến với hậu phương - Phong cách thơ: Bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng, hàm súc II. Tác phẩm a. Hoàn cảnh sáng tác - Sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả vừa cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947, thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Được in trong tác phẩm “Đầu súng trăng treo” -> Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946 – 1954, nó đã làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu b. Nội dung chính: - Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của những người lính cách mạng Nghệ thuật: Chi tiết hình ảnh, ngôn ngữ, cô đọng, giàu sức biểu cảm c. Giải nghĩa từ - Đồng chí: Người có cùng chí hướng, lí tưởng (đồng: cùng; chí: chí hướng). Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 “đồng chí” thành xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội - Tri kỉ: Biết mình (tri: biết; kỉ: mình), đôi tri kỉ là đôi bạn thân thiết (hiểu bạn như hiểu chính mình) - Sương muối: Sương giá đọng thành những hạt nhỏ trắng xóa như muối trên cây cỏ hay mặt đất. Ở miền Bắc nước ta về mùa đông những ngày có sương muối trời rât rét - Bếp Hoàng Cầm: Kiểu bếp dã chiến của bộ đội ta đặt dưới lòng đất, khi đun khỏi tản ra để địch không phát hiện được. Bếp này mang tên người sáng tạo ra nó trong thời kì kháng chiến chống Pháp: Anh hùng nuôi quân Hoàng Cầm d. Nhan đề: (đồng là cùng; chí là cùng chí hướng). Đồng chí là chung chí hướng, chung lí tưởng. Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 “đồng chí” thành xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình đồng đội e. Mạch cảm xúc và bố cục * Mạch cảm xúc: Bài thơ theo thể tự do, 20 dòng chia làm 2 đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng 7, 17 và 20) Sáu dòng đầu có thể xem là sự lí giải về cơ sơ tình đồng chí. Dòng 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó Ba dòng thơ cuối được tác giả tác ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “Đầu súng treo trăng” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính * Bố cục Đoạn 1: 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính. Đoạn 2: 10 câu tiếp: Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Đoạn 3: 3 câu kết: Biểu tượng đẹp về tình đồng chí II. Phân tích Cuộc kháng chiến chống pháp điểm gặp gỡ của bao người dân yêu nước . Chính họ mới đây thôi đã " rù bùn đứng dậy sáng lòa " Bằng cuộc cách mạng tháng 8 . Giờ đây hjọ lại sát cánh bên nhau thề quyết tử cho tổ quốc , quyến sinh . Hòan cảnh lịch sử mới đã khai sinh một tình cảnh mới . mội quan hệ mới mà trước đo họ chưa hề được biết " tình đồng chí " Chính Hữu đã ghi lại tình cảm cao quý và mới mẻ ấy b ằng những dòng thơ mộc mạc chân thành . Bài thơ mở ra bằng những câu thơ mang vẻ tâm tình "Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tựa phương trời chẳng hẹn quen nhau Đúng vậy nếu không có cuộc chiến tranh này nhữung người lính làm gì có thể gặp dược nhau . Mỗi người mỗi cảnh mỗi vùng quê khác nhau họ là nhưng người xa lạ . Ấy thế mà dẫu chẳng hẹn nhưng họ lại gặp nhau cùng một đội ngũ , cùng một chiến hào . Họ đến với nhau bằng những lời giơiứ thiệu về quê hương minh . Đối với người việt kiểu thăm hỏi giới thiệu này giúp ta tự nhiên hơn gần gũi nhau hơn . tác giả tuy giới thiệu rõ địa danh nơi cư ngụ của tunừg ngu ười nhưng hình ảnh " nước mặt đồng chua " gọi đến một vùng đất ven biển ngập rừng quanh năm ., còn lòng tôi" đất cày lên sỏi đá " là vùng trung dung khô cằn đất đai thiếu màu mỡ . Tuy nhiên dù là miền xuôi hay miên ngu ược thì những người nông dân mặc áo linh náy đe èu có chung 1 cái nghèo . Chính vì cũng nghèo cùng cơ cực mà họ dễ cảm thông mà chia sẻ buồn vui cho nhau song việc họ có mật đòan vệ quốc dân không phải do cái nghèo mà do tình yêu nước sâu sắc . Ông cha ta đã mang trong mình dòng máu yêu nước đến lượt họ . Tổ quốc có xâm lăng tình thần yêu nước lại nồng nàn mạnh mẽ hơn bao giờ hết .Khiến học đến bên nhau ghép thành một sức mạnh nhấn chìm bọn cưới nước và bán nước . Hòan cảnh sinh hoạt và chiến đấu đã làm cho tình bản của họ nảy sinh Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chi! Hình ảnh đêm rét chung chăn làm ta nhớ đến một bài ca dao vui về người chiến sĩ trong những ngày đấu chống pháp . " 3 thằng 1 cái chăn bông ... " " đêm Việt Bắc thì quá rét mà chăn bông thì quá nhỏ nên 3 chàng cứ loay hoay mà mà chã đủ ấm . Đắp được chân thì hơ đầu đặp được bên này thì hở bên kìa . Cuối cùng " cái khó ló cái khôn" " 3 thằng quặt chặt gió lùa vào đầu " chính trong những nàgy thiếu thốn khó khăn ấy , từ " xa lạ " họ đa trỏ thành chiến hữ của nhau . Tri kỹ thật tự nhiên thật cảm đồng . Từ trong tâm cảm của hộ bỗng bật thôts lên 2 từ " đồng chí " . Ai mà chã biết đồng chí là cùng chung chi hướng cùng mục đích . CÙng lí tưởng nhưng tình cảm ấy một khi có được thì cái cốt.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> lõi là tình " tri kỷ " lại được thử thách . được rèn luyện trong khó khăn thì mới thật sự bền vững . Phía sau những câu thơ nói về gió , về rét , lặng lẽ chảy một ngọn lửa ấm nóng của tình đồng chí đồng đội . Nói rộng ra 2 tiếng " đồng chí " còn có ý nghĩa của 1 tiếng liên thàm vi trong tận cùng gian khổ ý nghĩa đích thức của tình cảm này mới được bộc lộ một cách đầy đủ nhất . Có thể liệu từ " đồng chí " đứng tác ra như 1 khổ thơ riêng . Nó là sự kết tinh của cảm xúc dâng trào của những câu thơ thước và khởi đầu cho những câu thơ tiếp theo Ruộng đồng nương tôi gửi bạn thân cày Gian nhà riêng mặt kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người đi lính Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sót run người vầng tráng ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miền cười buồn giá Thân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Đọc bài thơ là sự sống đôi của hình tượng " anh và tôi " cái tình tri kỷ cái hứoi âm đồng chí được bắt qua sự sống đôi có ý nghĩa bổ sung ấy . Từ những câu thơ nói về gia cảnh về cảnh ngộ đến đây ta lại bắt gặp motọ sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiên sĩ . Họ để lại sau lưng mảnh đời quê hương với những băn khoăn trăn chở để cùng " ra lính " " ruộng nương " đã tạm gởi cho bạn thân cày " gian nhà không " tài sản nghèo đơn sơ ấy để mặc cho " gió lung lay " siêu vẹo . Lên đuờng đi chiến đấu , người lính chấp nhận sự hi sinh , tam gác sang 1 bên những tính toán riêng tư là đứa con của quê hương , thời bình các anh cầm cuốc cầm cày xây dựng cuộc sống , còn thời chiến thì cầm súng để bảo vệ tuổi quốc quê hương . Hay theo mùa xuân nho nhỏ của tố hữu thì đó chính là lộc của họ . Cho nên không phải ngẫu nhiên mà " giếng nước gốc đa nhớ người ra lính " Làng xóm quê hương hậu phưuơng nhứo các anh là truyền thêm sức mạnh để các anh " chân cứng đã mềm " Đây là câu thơ liền nổi bật 2 chiếu " tiền tuyến nhớ hậu phương . hậu phương phó tiền tuyến " Như vậy tình đồng chsi đã được tiếp thêm sức mạnh với tình yêu đất nước . Còn trong hiên tại đang có chung kỷ niệm còn sốt rét nơu rừng sâu . Cùng chịu chung sự thiếu thốn " áo anh rác vai " " quần tôi có vài mảnh vá " " chân không giày .. " Tất cả những khso khăn gian khổ được tái hiện bằng nhữung chi tiết hết sức chân thật không một chút tô vẻ . Ngày đầu của cuộc kháng chiến quân đội cụ hộ mới được thành lập nên còn thiếu thôn trăm bề . Hìn hảnh người lính của Chính Hữu trong một bài thơ khác " Ngày về " làm ta nao lòng " Rach ta tới rồi đôi giày vạn dặm Bụi trưởng dinh phai bạc áo hào hoa Tẩm lăng kề mãi đến khi già Phơi gió vui với muôn ngàn cơ hội Có thời có người đã cho những người coi như câu trên là ủy mị nhưng thực ra nó mang vẻ đẹp lãng mạn chân thật về những người lính dám xả thân vì nghĩa lớn Thế nhưng nó lại không có sức lay động người đọc bằng cái thật trog baì đồng chí . Cùng hướng về 1 lí tưởng cùng nếm sự khắc nghiệt của chiến tranh , người lính chia sẻ cho nhau tình thưonưg yêu ở mức tột cùng " thương nhau tay nắm lấy bàn tay " những bàn tay đã tìm đến nhau truyền thêm sức mạnh vào niềm tin cho nhau đã làm rạng rỡ lên nụ cười lạc quan dẫu rằng gió buốt lạng . Nhà thơ đã phát hiện rất tinh tế các nội lực tinh thần ấy.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau để tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất dỗi thiêng liêng này Những câu thơ cuối bài đã hoàn chỉnh 1 cách xuất sắc bức chân dung người chiến sĩ mộc mạc giản dị mà khỏe khoắn , can trường " Đêm nay rừng hoàng sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Đó là những câu thơ có giá trị tạo hình rất cao vẫn là " rừng hoang sương muối cái gió rét cứ đeo đủôi người chiên sĩ nhunưg không cản dược họ đứng cạnh bên nhau . Tư thế chờ giặc tới " là tư thế hòan tòan chủ động . Trong khung cảnh ấy đột nhiên một từ thơ lạ độc đáo hiện lên " đầu súng trăng treo " trong bài thơ xưa đã từng có cảnh trăng treo đầu nuối " Non kỳ quanh quê trăng treo Bến phì gío thổi đìu hiu mấy gò " ( chinh phụ ngâm ) Trăng đầy núi đầy nhưng sao mà thê lương ảm đảm đén mức " quạnh quê " " đìu hiu " Thơ chính hữu hòan toàn khác Biểu tượng " đầu súng trăng treo " là một biểu tượng đậm chất lãng mạn và khỏe khoắn . Cái ảo và cái thực hòa ghép với nhau tạo nên một liên tưởng bất ngờ kỳ thú . Câu thơ kiểu 4 chữ nhưng hết sức lay động . Cây súng trong tay người chiến sĩ tượng trung cho hòa bình ngừơi lính cầm súng là bảo vệ cho quê hương " cho giếng nước gốc đa " của tổ quốc và cho cả vầng trăng thơ mộng kia nữa. Từ 2 hình ảnh " trăng " và " súng" tưởng như đối lập nhau nhưng qua cái ảo để ở bên nhau 1 cách hợp lí không hề viễn tưởng . Vẻ đẹp của tình thana chiến đất , chất thơ của chính hữu hội tù hài hòa trong 1 biểu tượng thật đẹp đẽ . có lẽ đó là lý do mà nhà thơ đã đặt tên cho nhân đề tập thơ đầu tiên của mình là " Đầu súng trăng treo " IV. Cảm nhận về hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp - Bài thơ “Đồng chí” làm hiện lên hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ buổi đầu kháng chiến bình dị mà cao cả - Đó là những người lính xuất thân từ nông dân: “Quê hương anh nước mặn đồng chua – Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá” - Họ đã sẵn sàng bỏ lại những gì thân thiết quý giá của cuộc sống nơi đồng quê để ra đi vì nghĩa lớn, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê thân yêu. Họ không chỉ nhớ quê mà còn cẩm nhận được nỗi nhớ nhung của của quê hương: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày – Gian nhà không mặc kệ gió lung lay – Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” - Những người lính cách mạng đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn “sốt run người”, trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh. Họ vẫn “cười trong buốt giá”, vẫn nhìn thấy cái nên thơ, lãng mạn của thiên nhiên, rừng núi giữa cuộc chiến đấu gian khổ, ác liệt. Những gian lao, thiếu thốn càng làm sáng lên vể đẹp người lính, sáng lên nụ cười của họ - Vẻ đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ tình yêu nước: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đó là cội nguồn sức mạnh giúp họ vượt lên tất cả và chiến thắng. Kết tinh vẻ đẹp của người lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong 3 câu cuối bài.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH I. Tác giả - Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 1 năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, sau đó gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước - Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn - Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác - Bài thơ viết năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra rất ác liệt trên con đường chiến lược Trường Sơn - Bài thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả 2. Khái quát nội dung và nghệ thuật a. Nội dung: Đã khắc họa một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam b. Giá trị nghệ thuật: Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khỏe khoắn III. Phân tích 1. Hình ảnh những chiếc xe không kính. Đề tài xe cộ hiếm xuất hiện trong thơ ca từ cổ chí kim. Nếu có thì đó là những chiếc xe tam mã trong thơ của us-kin một cách đầy lãng mạn. Còn với Phạm Tiến Duật lại đưa một hình ảnh thực là những chiếc xe không kính vào thơ. Với hai câu mở đầu tác giả đã giải thích nguyên nhân về việc xe không có kính " Không có kính không phải ví xe không có kính/ Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Hai câu thơ này có vẻ giống như văn xuôi vì từ cách đặt câu cho đến số lượng từ ngữ đều không vần. Hai câu này được viết với một giọng thản nhiên. Câu thơ thứ nhất có tới ba từ không:" Không có kính không phải vì xe không có kính" chỉ để thông báo một điều là hiện nay xe không có kính. Nguyên nhân của việc không có kính này được giải thích ngay o câu thơ thứ hai. Không có kính vì bom giật bom rung. Hai câu thơ không chỉ nhằm miêu tả một chiếc xe khác lạ mà còn diễn tả sự dữ dội của chiến tranh. Chiến tranh là bom đạn, là mất mát. Các động từ mạng giật, rung, vỡ diễn đạt sự khốc liệt của chiến tranh theo cấp số nhân.--Xe không chi không kính mà còn không có đèn. Chắc hẳn những chiếc xe chở hàng ra chiến trường không chỉ bị bom giật bom rung bởi vậy xe không chỉ không có kình mà còn không có đèn. Cuộc kháng chiến chống Mĩ thời kì đầu của đất nước ta rất ác liệt. Từ việc hành quân đến việc chở hàng, vận chuyển vũ khí đều phải tiến hành vào ban đêm. Khí thế ấy được Tô Hữu viết trong câu thơ:" Đêm đêm rầm rập như là đất rung". Chính vì thws mà việc không có đèn khiến cho việc chuyên chở bằng xe càng gian khổ hơn.--Thế rồi bom rơi đạn lạc làm cho xe lại không có mui. Như vậy chiếc xe đã trở nên biến.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> dạng. Xe không có kính, không có đèn, không có mui thế nhưng thùng xe thì chỉ bị xước bởi đơn giản những chiếc xe vận tải mà không có thùng xe thì không thể chở đựoc đạn dược, lương thực ra chiến trường. Bởi vậy thùng xe chỉ đựoc miêu tả là có vết xước mà thôi. Có nhà phê bình đã bình luận đây là vết xước đáng yêu chứ không phải là thủng, là không có. Có thwr nói rằng hình ảnh chiếc xe không kinh, không đèn, không mui không phải là hiếm trong chiến tranh nhưng không phải nhà thơ nào cũng nhận ra được va biến nó thành hình ảnh thơ độc đáo. 2. Hình ảnh những người lính. So với những câu thơ viết về những chiếc xe thì số lưượng những câu thơ viết về người lính nhiều hơn nhưng hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật những hình ảnh của người chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kinh, không đèn, không mui là hình ảnh để người lính bộc lộ những phẩm chất hiên ngang, yêu đời, tinh nghịch, giàu ý chí chiến đấu. Trước hết là tinh thần hiên ngang cho thấy thái độ coi thường hiểm nguy của người lính. Trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui người lính vẫn vững tay lái:" Ung dung buồng lái ta ngồi". Không chỉ hiên ngang chấp nhận khó khăn mà người lính còn hiên ngang chấp nhận nguy hiểm. Nào là gió vào xoa mắt đắng, nào là sao trời và cánh chim ùa vào buồng lái. Song những người chiến sĩ không hề run sợ mà vẫn đối mặt với những thử thách, giữ vững trận địa là buồng lái. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ. Vị ngữ ung dung được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự tự tin, bình than của những người lính lái xe. Ngoài ra còn các điệp từ" nhìn thấy" được nhắc lại nhiều lần biểu hiện 1 nét đặc trưng của ngươif chiến sĩ, thi sĩ vừa tập trung hoàn thành nhiệm vụ vừa không quên hưống tới vẻ đẹp thiên nhiên. Thiên nhiên không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lãng mạn: bầu trời có sao, có cánh chim mà cón có sự khốc liệt của bụi, của gió, của mưa như là 1 sự thách thức. Không cú kính đương nhiên là có bụi, có mưa, có gió. Chỉ có điều cách diễn đạt của tác giả làm cho chúng ta thây thía độ ngang tàng, bất chấp của người lính lái xe đó là " ừ thì", là "chưa cần". Như vậy trước khó khăn gian khổ mà người lính không 1 lời kêu ca. Lời thơ lúc này nhẹ nhõm, trôi chảy, nhịp nhàng giống như hình ảnh chiếc xe bon vun vút ra chiến trường. Tâm hồn sôi nổi, tình đồng chí đồng đội sâu sắc được thể hiện qua những câu thơ khổ 3,5,6. Ta thấy những chiến sĩ lái xe là những chàng trai trẻ vui tính. Bom đạn không làm mất đi sự tinh nghịch. hóm hỉnh. Họ đã " phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha". Tiếng cười của những chàng trai như 1 khúc nhạn vui xua đi khó khăn, gian khổ và giựo cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản. Họ hồn nhiên tếu táo nhưng ho cũng thậy đoàn kết. Càng khó khăn gian khổi họ càng gắn bó keo sơn. Không chỉ chia nhau từng điếu thuốc mà trong bom đạn nguy hiểm những người lính lái những chiếc xe không kình đã tụ hopk lại thành 1 tiểu đội. Tiếu đội này không phải là tiểu đội 1 hay tiểu đội 2 mà là tiểu đội xe không kính. Nếu trong bài thơ đồng chí những người lính thương nhau tay nắm lấy bàn tay thù những người lính trong bài thơ này bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 1 cái bắt tay qua cửa kính đã vỡ không chỉ là 1 chút đùa vui mà còn đủ làm ấm lòng, đủ động viên nhau. Cái bắt tay giúp con người xít lại gần nhau trong nhiều cái chung: chung hoàn cảnh, chung bếp lửa, chung bát đũa và nhất là chung con đường nơi vô vàn thách thức hiểm nguy phía trước. Ta thấy dù trong khoảng khắc nào của cuộc hành quân những người lính cũng luôn dộng viên, cháo hỏi nhau. Trên dường đi họ bắt tay nhau qua cửa kính, lúc nghỉ cùng nhau châm điếu thuốc, đén bữa chung bát đũa. Tất cả nhận nhau là người cùng 1 gia đình, để rồi họ lại cùng nhau lên đường:" lại đi lại đi trời xanh thêm". Câu thơ này không chỉ chan chứa hy vọng về 1 tương lai tốt đẹp đang tới gần mà còn thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Một số biện pháp tu từ trong bài thơ như: đảo vị.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> trí các từ trong cụm từ ( phì phèo châm điếu thuốc), hoán dụ ( Những chiến xe từ trong bom rơi/ Đã về đây họp thành tiểu đội), điệp ngữ ( lại đi lại đi) đã góp phần khảng định vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ngoài ra họ còn là những con người có ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cúng với những người lính, những chiến xe chở hàng ra chiến trường trải qua mưa bom bão đạn không có kính rồi không có đèn rồi thùng xe có xứôc. Chỉ trong 2 câu thơi mà điệp từ không đưộc nhắc lại 3 lần, 1 mặt để nhấn mạnh sự khó khăn, mức độ ác liệt của chiên trường, mặt khác lại khảng định quyết tâm của những người lính. Xe dù không có kính, dù không có đèn thì xe vẫn bon ra chiến trường. Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng xe nhưng không thể đè bẹp được tinh thần chiến đấu của những người lính lái xe. Xe chạy không chỉ vì có 1 động cơ máy móc mà còn có 1 động cơ tinh thần " vì miên Nam phía trước". Đối lập với tất cả những cái không có ở trên là 1 cái có dó là trài tim. là sức manhj tinh thần đã giuúp người lính chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim ấy đã thay thế cho tất cả những thiếu thốn: không kính, không đèn, không mui để tiến lên phía trưốc cho miền Nam thân yêu. Hầu như trong tất cả những bài thơ đều có 1 từ quan trọng neu lên chủ đề bài thơ gọi là nhãn tự của bài thơ. Trong bài thơ này từ trái tim cũng được coi là nhãn tự của bài thơ. Tử này hội tụ vẻ đẹp, sức mạnh của người lính. Như vậy trái tim người lính là sức mạnh tinh thân tỏa sáng rực rỡ cho người lính thêm sức mạnh để hướng tới miền Nam IV. Thành công về nghệ thuật Ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Phạm Tiến Duật, góp phần khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Ngôn ngữ bài thơ giản dị, ngồn ngộn chất sống, đời sống chiến trường, vừa làm giàu thêm chất điệu thơ ca vừa thể hiện chân thực hình ảnh người lính lái xe. Lời thơ gắn với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường nhưng vẫn giàu chất thơ. Chất thơ toát lên từ những hình ảnh độc đáo; từ vẻ hiên ngang, sôi nổi, trẻ trung của người lính; từ những ấn tượng cảm giác cụ thể của họ khi ngồi trên những chiếc xe không kính Ngôn ngữ đó góp phần sáng tạo nên giọng điệu ngang tàn có cả chất tinh nghịch phù hợp với đối tượng miêu tả - những chàng lái xe trên những chiếc xe không kính Thể thơ kết hợp linh hoạt giữa thể 7 chữ với thể 8 chữ, có chỗ 6 hay 10 chữ tạo cho bài thơ một điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động, góp phần tạo nên chất thơ mới, giọng điệu mới của thơ ca chống Mĩ. Nó bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. V. Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ. So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này với bài thơ Đồng Chí - Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ là thế hệ sống rất đẹp, rất anh hùng. Họ ý thức sâu sắc về sứ mệnh lịch sử của mình, trong gian khổ, hi sinh vẫn phơi phới lạc quan. Như lời nhà thơ Tố Hữu, họ là thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai” hay “Đi chiến trường như trảy hội mùa xuân” hay “Mưa bom bão đạn lòng thanh thản”. Chính vì vậy, mãi mãi các thế hệ người Việt vẫn tự hào, khâm phục và biết ơn họ - Những người lính trong “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cho thấy hình ảnh người lính trong hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ có những nét chung: lòng yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc; thái độ bất.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> chấp mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sống lạc quan, có tình đồng chí đồng đội thắm thiết Tuy nhiên, ở mỗi bài thơ, hình ảnh người lính lại có những nét riêng: - “Đồng chí” thể hiện hình ảnh người lính hầu hết xuất thân từ nông dân, từ thân phận nô lệ nghèo khổ mà đi vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Cách mạng chính là sự giải thoát cho số phận đau khổ tối tăm của họ. Hiếm có sự ung dung tự tại nhưng lại rất đoàn kết gắn bó yêu thương nhau - Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, người lính đi vào cuộc chiến đấu với ý thức giác ngộ về lí tưởng độc lập tự do gắn với chủ nghĩa xã hội. Họ ý thức sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ mình. Họ sống trẻ trung, yêu đời, lạc quan, tự tin. Hình ảnh của họ được thể hiện trong một thời điểm quyết liệt và khẩn trương hơn. Đó là một thế hệ ang hùng, hiên ngang, mạnh mẽ. ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ I. Tác giả - Huy Cận (1919 – 2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Dụ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, sau đó là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh - Huy Cận đã nổi tiếng trong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng” (1940). Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam - Huy Vận đã được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996) II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác - Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại, dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống đổi mới - Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958). 2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật a. Nội dung: Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống b. Nghệ thuật: - Sáng tạo hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú độc đáo - Âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan 3. Bố cục bài thơ Bài thơ được bố cục theo trình tự thời gian, không gian chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, gồm 3 phần - Phần 1: 2 khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> - Phần 2: 5 khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển - Phần 3: khổ cuối: Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về Nêu thời gian và không gian được miêu tả trong bài thơ Bài thơ đã tạo ra một khung cảnh không gian và thời gian rất đáng chú ý - Không gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, trăng, sao, mây, gió; - Thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian của một chuyến ra biển rồi trở về của đoàn thuyền đánh cá: mặt trời xuống biển, cả trời đất vào đêm, trăng lên cao, đêm thở, sao lùa… rồi sao mờ, mặt trời đội biển nhô lên trong một ngày mới. Điểm nhịp thời gian cho công việc của đoàn thuyền đánh cá là nhịp tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ III. Phân tích 1 Cảnh ra khơi và tâm trạng náo nức của con người. a. Cảnh hoàng hôn trên biển. - Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và ấn tượng: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa - Nghệ thuật so sánh nhân hóa cho thấy cảnh biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. Mặt trời được ví như một hòn lử khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng là then cửa. Chi tiết Mặt trời xuống biển có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở bờ biển nước ta, trừ vùng Tây Nam thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Thực ra hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây, qua một khoảng biển thì vẫn có thể thấy như là mặt trời xuống biển. Với sự quan sát tinh tế nhà thơ đã miêu tả rất thực chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm. b. Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc “ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm với gió khơi” - Đoàn thuyền chứ không phải chỉ con thuyền ra khơi đã tạo ra sự tấp nập trên biển. Chữ “Lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã đi vào ổn định, vừa thể hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự làm việc của con người. - Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết 3 sự vật và hiện tượng: Câu hát, cánh buồm và gió khơi. Người đánh cá căng buồm và cất câu hát lên nhà thơ có cảm giác như chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở thành sức mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi. - Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện thực : Đó là niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài. Họ ra khơi trong tâm trạng đầy hứng khởi vì học tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc. - Câu hát của người lao động còn mang theo niềm mong mỏi tha thiết vừa hiện thực vừa lãng mạn “ Hát rằng : cá bạc biển đông lặng ...................................... Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ liên tưởng đến biển như một tấm lụa lớn mà đoàn cá là “ đoàn thoi” đang vun vút qua lại. Người dân chài hát khúc hát ca ngợi sự giàu có của.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> biển cả, họ hát bài ca gọi cá vào lưới và mong muốn công việc đánh cá thu được nhiều kết quả tốt đẹp. 2. Cảnh đánh cá trên biển giữa khung cảnh biển trời ban đêm. - Nếu hai khổ đầu miêu tả đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh rất đẹp và con người rất yêu lao động, yêu thiên nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển bao la hùng vĩ.Mỗi khổ thơ là một nét vẽ biển trời, sóng nước, trăng sao có nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởng tượng dựa trên những yếu tố hiện thực của đời sống trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời. a. Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng, trên mặt biển đó có con thuyền đang băng băng lướt đi trên sóng: Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng - Câu thơ vừa thực vừa ảo, hình ảnh “ Thuyền” được đặt trong mối quan hệ hài hòa với những hình ảnh thiên nhiên( lái gió, buồm trăng,mây cao, biển bằng) diễn tả cảnh con thuyền tung hoành giữa trời biển mênh mông và đang làm chủ biển khơi, có gió làm người cầm lái, trăng làm cánh buồm. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Thơ Huy Cận trước CM thường thiên về thiên nhiên kì vĩ, là một thứ không gian bao la, rộng lớn đối lập với sự nhỏ bé đơn côi của con người. “ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song. Sau CM, hình ảnh thơ của Huy Cận có sự đổi mới.Thiên nhiên như một người bạn đồng hành, nâng cao, làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trong sự hài hòa đẹp đẽ với khung cảnh thiên nhiên. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào hùng. Người lao động tuy không được miêu tả trực tiếp nhưng ta thấy họ được làm chủ biển khơi, lao động hăng say dũng cảm muốn chinh phục biển khơi nhưng cũng rất hòa hợp với thiên nhiên.Hình ảnh đoàn thuyền và sự hiện diện của con người không chỉ hòa hợp mà còn nổi bật ở vị trí trung tâm của vũ trụ. - Phải có một tâm hồn lạc quan, gắn bó máu thịt với con người với cuộc sống mới thì nhà thơ Huy Cận mới có thể cất lên những vần thơ rất đẹp như vậy bằng chính tâm hồn lãng mạn của mình. b, Biển giàu đẹp nên thơ và có nhiều tài nguyên Cá nhụ cá chim cùng cá đé. .................................... Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long. - Có bao nhà thơ viết về biển, nhưng có lẽ chưa ai có bức tranh biển đẹp như trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Không gian trong lòng biển luôn biến ảo sinh động, nhà thơ hình dung nước biển như những sợi tơ xanh mềm buông rũ. Những con cá thu như con thoi bạc qua lại đi về trong vùng tơ xanh ấy. Rồi nhà thơ lại thấy nước biển sóng sánh vàng như màu trăng. Đàn cá đủ loại bơi lội trong nước trăng vàng. Nhà thơ liệt kê "cá nhụ, cá chim cùng cá đé", chỉ miêu tả hai chi tiết làm cho bức tranh như sống hẳn dậy, có linh hồn: "Cá song lấp lánh đuốc đen hồng" và "cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe". Con cá song thân dày và dài trên vảy có chấm tròn màu đen và hồng như hình ảnh của một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng trong đêm. Hình dung ra cả đàn cá song như một đám hội rước đước tưng bừng lấp lánh trên mặt biển, đó là cảnh tượng lộng lẫy và kỳ.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> thú ( Nhà thơ Chế lan Viên cũng đã viết “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về” ) . Tuy nhiên, hình ảnh “ cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” là hình ảnh đẹp nhất .Cái đuôi cá quẫy nước, làm tung lên những giọt nước lóe sáng màu trăng giống như người họa sĩ vẩy ngọn bút tài hoa để lại một vùng bụi trăng lóe sáng trên mặt nước bằng phẳng. Rồi mặt biển như trở lại yên bình, có thể nhìn thấy những bóng sao trong đáy nước. - “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long" là hình ảnh nhân hóa đẹp, tiếng thở của đêm chính là nhịp thở của thủy triều và tiếng rì rào của sóng. Những đốm sao lung linh trên mặt nước nâng lên hạ xuống một cách hùng vĩ. Nhà thơ Bế Kiến Quốc đã cho rằng :” Nhờ câu thơ này, toàn bộ không khí biển khơi lung linh dào dạt sống động và kỳ ảo hẳn lên” c. Biển không những giàu đẹp mà còn rất ân nghĩa, thủy chung, bao la như lòng mẹ - Người dân chài đã hát bài ca gọi cá vào. Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. - Không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gõ”. Trong đêm trăng sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền. Đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ, thiên nhiên và con người cùng hòa hợp trong lao động. - Con người chinh phục thiên nhiên nhưng cũng đầy lòng biết ơn với thiên nhiên “ Biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” - Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hăng say, khẩn trương, sôi nổi. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. - Chỉ có một chi tiết tả trực tiếp người ngư dân” Kéo xoăn tay” gợi lên vẻ rắn rỏi, khỏe mạnh với những bắp tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng.Từ phía chân trời bắt đầu hừng sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy đuôi dưới ánh sáng của rạng đôngvà lóe lên màu hồng như bức tranh sơn mài lung linh, huyền ảo được nhà thơ sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực. Câu thơ “ Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sụ lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ. => Với cách dùng nhiều vần trắc, âm hưởng khỏe khoắn, nhịp thơ hối hả, ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình, tạo nên khúc tráng ca lao động hào hùng giữa biển trời bao la. 3.Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên. a. Cảnh đoàn thuyền trở về -Câu đầu tác giả lặp lại ở khổ thơ 1: “Câu hát căng buồm với gió khơi” + Có từ “với” là khác, có lẽ tác giả tránh sự lặp lại ở câu thơ trước => làm cho khổ thơ cuối giống như điệp khúc của một bài hát, tạo cảm giác tuần hoàn về thời gian, về công việc lao động; nhấn mạnh khí thế tâm trạng của những người dân. Đoàn thuyền ra đi hào hứng sôi nổi, nay trở về cũng với tinh thần ấy rất khẩn trương. Câu hát đưa thuyền đi nay câu hát lại đưa thuyền về. + Bằng biện pháp khoa trương và hình ảnh nhân hóc” Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời:cho thấy con người và vũ trụ chạy đua trong cuốc vận hành vô tận, con người đã mang tầm vóc lớn lao của thiên nhiên vũ trụ trong cuộc chạy đua này và con người đã chiến thắng.Có thể nói Huy Cận đã lấy tình yêu của mình đối với cuộc sống mới của nhân dân khám phá ra vẻ đẹp hùng vĩ. Thay vào không gian vũ trụ buồn hiu hắt của thơ ông trước cách mạng tháng Tám. b. Bình minh trên biển.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn, kết thúc bài thơ là cảnh bình minh” Mặt trời đội biển nhô màu mới”. Ánh mặt trời sáng rực, từ từ nhô lên ở phía chân trời xa cảm giác như mặt trời đội biển. Câu thơ với ẩn dụ táo bạo cho thấy sự tuần hoàn của thời gian, của vũ trụ. -H/ả “ mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” gợi nhiều liên tưởng như những mặt trời nhỏ bé đang tỏa rạng niềm vui trước thành quả lao động mà con người đã giành được sau một đêm lao động trên biển. => đó là cảnh tượng đẹp huy hoàng giữa bầu tròi và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao động. IV. Bài thơ có bao nhiêu từ hát, cả bài cũng là một khúc ca, đây là khúc ca gì và tác giả làm thay lời ai? Em có nhận xét gì về âm hưởng, giọng điệu của bài thơ? Các yếu tố: Thể thơ, vần, nhịp đã góp phần tạo nên âm hưởng của bài thơ như thế nào? Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” có âm hưởng vừa khỏe khoắn, sôi nổi, vừa phơi phới, bay bổng. Âm hưởng ấy được tạo bởi - Lời thơ dõng dạc - Âm điệu như khúc hát say mê hào hứng với chữ “hát” lặp đi lặp lại 4 lần, khiến bài thơ như một khúc ca - khúc ca của tình yêu lao động - Thể thơ 7 chữ, nhịp 4/3 là chủ yếu nên rất khỏe khoắn - Vần liền xen cách, vần trắc xen bằng. Vần trắc tạo nên sức mạnh, sức dội, còn vần bằng tạo nên sự vang xa bay bổng cho lời thơ - Hình ảnh thơ lặp lại theo kết cấu đầu cuối tương ứng Các yếu tố trên đã tạo cho bài thơ âm hưởng, giọng điệu đầy sức sống, thể hiện niềm lạc quan, vui tươi, phấn khởi của người dân chài khi lao động và hồn thơ phơi phới, lòng yêu cuộc sống của tác giả Huy Cận trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. BẾP LỬA I. Tác giả - Bằng Việt, tên khai sinh là Nguyễn Bằng Việt – sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây - Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ - Hiện nay ông là chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác - Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật ở nước ngoài - Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ 2. Khái quát nội dung và giá trị nghệ thuật a. Nội dung: Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu đồng thời thể hiện.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của những người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước b. Nghệ thuật - Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi lại một kỉ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu 3. Mạch cảm xúc và bố cục a. Mạch cảm xúc: Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho cháu. Từ những kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm b. Bố cục: 4 phần - Khổ đầu: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà - 4 khổ tiếp theo: Những kỉ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa - Khổ 6: Những suy nghĩ của tác giả về bà và hình ảnh cuộc đời bà - Khổ cuối: Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa 4. Giải nghĩa từ: - Đinh ninh: Ở đây có nghĩa là nhắc đi nhắc lại cho người khác nắm chắc, nhớ chắc - Chiến khu: Vùng căn cứ của lực lượng cách mạng hay lực lượng kháng chiến III. Phân tích Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ "Bếp lửa". Bài thơ đc viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nước Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong wá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu. Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngn6 từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thờ wá khứ đc tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của ngân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thắm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lủa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành ; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay. Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bêp lửa gắn chặt với hinh ảnh người bà, bếp lửa của 1 thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai. "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Chàu thương bà biết mấy nắng mưa" Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh "chờn vờn sương sớm" thật sống động, gợi lên ngọn lửa ko định hìnhm khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những z đã wa, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy "ấp iu" bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợil ên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ "một bếp lửa" đc lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tương xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ "thương" và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi "biết mấy nắng mưa". Hai chữ "nắng mưa" ko chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy! Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ. "Lên 4 tuổi.... ...còn cay !" Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thừong sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm "đói mòn đói mỏi", "bố đi đánh xe khô rạc ngưạ gầy". Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất v gián tiếp tác giả bộc lộ thời thơ ấu của mình. "Mùi khói" rồi lại" khói hun nhèm", có thể nói nhà thơ đã chọn đc mội chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. "Hình ảnh "khói hun nhèm mắt" cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tỏa ra từ 1 bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ "nghĩ lại .... cay" tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ BV có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật. giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói ... mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thưc, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng. Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh. "Tám năm ròng.... ...trên những cánh đồng xa." Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong 1 câu chuệyn cỏ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu tròng hồi ức, lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tươbg đậm nét nhất của đứa cháu là "mùi khói", thì đến đây, xuất hiện 1 ấn tượng khác là "tiếng tu hú". Lúc mơ hồ, vắng lặng "trên những cánh đồng xa"., lúc gần gũi, nghẹn ngào "sao mà tha thiết thế", tiếng tu hú như than thở, sẽ chia những nỗi nhớ xa cách, trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, BV wả là có 1 tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương. Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ "bà" đc lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc "bà-cháu" són đôi gợi sắc đêịu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách móc laòi chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà ko đến san sẻ với bà. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nõi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> cảm thưong yêu, xót xa của nhà thơ trc nỗi cô đơn và sự vất vả của bà. Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm kháng chiến. "Năm giặc ... .... bình yên!". Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền cững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu, mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. "Bố ở chiến khu bố còn việc bố - Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ ." Gian khổ, thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa đc yên lòng. Tấm lòng người bà thương con thương cháu ân cần, chu đáo biết bao. "Rồi sớm rồi chiều.... ...dai dẳng." Trong những câu của khổ thơ này, hình ảnh "bếp lửa" đã chuyển thành "ngọn lửa" trong ý nghĩ tượng trưng, khái quát. "Bếp lửa" với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng, trường tồn. Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của 1 thanh niên đã trường thành đối với người bà trong hiện tại. "Lận đận .... ....bếp lửa!" Chiến tranh đã đi wa, những gian khổ đã vơi bớt, cuôc sống đã đổi thay nhưng bà vẫn giữ thói quen "thói quen dậy sớm", bếp lửa của bà vẫn "ấp iu nồng đượm" nhuw ngày nào. Điệp từ nhóm đc nhắn lại 4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét "kỳ lạ", thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trc đây, đó là ngọn lửa nồng đươm nhóm niềm tin trong những ngày gian khổ, khó khăn vì vật vã đói kém., thì bây giờ ngọn lửa ấy còn nhóm lên trong lòng tác giả bao vẻ đẹp khác nữa. "Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm" ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm. "Nhóm niềm yêu thương" có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. "Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui" hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy "nhóm dậy", thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn và cách sống. Âm đệiu trong đạon thơ này dạt dào như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ?Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cam nhớ thương nhân nghĩa! Có thể nói câu thơ cuối bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn BV. Câu thơ chỉ có 8 chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là 1 dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng baocảm xúc và suy nghĩ ko thể diễn tả hết bằng ngôn từ. Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, đùm bọc mình. "Giờ cháu đã .... ....bếp lửa lên chưa?..." Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay ngừoi bà. Đaứ cháu ấy đã đc mở rộng tầm mắt để nhìn thấy "khói trăm tàu" , "lửa trăm nhà", "niềm vui trăm ngả". Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> bài thơ thật khéo, thật hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thân của đứa cháu ở phưong xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là 1 hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc. "Bếp lủa ấp iu nồng đượm" đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật ko ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong "Bếp lửa" đã nuôi con nuôi cháu, đã đi wa đói khát và chiến tranh, đã cho cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm tầhm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng... Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ VN, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi. Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người ko thể nào quên đc. BV đã có đc 1 tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm & giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà BV gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người.. ÁNH TRĂNG I. Tác giả - Nguyễn Duy (1948) quê ở Thanh Hóa - Ông thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trước cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước - Sau chiến tranh, Nguyễn Duy vẫn say sưa và tiếp tục con đường thơ của mình. Thơ ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu “quen thuộc mà không nhàm chán” - Thơ Nguyễn Duy có giàu chất triết lí, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư - Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ 1973), Ánh trăng (thơ 1984), Mẹ và em (thơ 1987)… - Tác giả đã nhận được các giải thưởng: Giải nhất thơ tuần báo Văn nghệ (1973); giải A về thơ của hội nhà văn Việt Nam (1985) II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác:1978 Tại TP HCM, 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước 2. Khái quát nội dung, nghệ thuật a. Nội dung - Bài thơ là lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu - Từ đó, gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ b. Nghệ thuật.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> - Giọng điệu tâm tình, tự nhiên kết hợp giữa yếu tố trữ tình và tự sự - Hình ảnh giàu tính biểu cảm: trăng giàu ý nghĩa biểu tượng 3. Thể thơ: 5 chữ - phù hợp với phương thức biểu đạt kết hợp hài hòa giữa biểu cảm (trữ tình) và tự sự 4. Bố cục của đoạn thơ * Mạch cảm xúc của bài thơ Là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Dòng cảm xúc của nhà thơ cũng được bộc lộ theo mạch tự sự. Theo dòng tự sự ấy mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ * Bố cục: Chia làm 3 phần - 3 khổ đầu: Kí ức về vầng trăng trong quá khứ của tác giả và trong hiện tại - Khổ 4: Tình huống bất ngờ khiến hồi ức ùa về - Khổ 5: Sự hối hận của tác giả vì đã lãng quên vầng trăng 5. Nhận xét về sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình - Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, một lời tâm tình kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm hứng trữ tình của nhà thơ men theo mạch tự sự đó, ở quãng thời gian quá khứ đã có một sự biến đổi, một sự thực đáng chú ý: bắt đầu từ hồi ức về “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, với vầng trăng: “ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”. Tiếp đó là sự đổi thay của hoàn cảnh hiện tại: “Từ hồi về thành phố”, con người sống với những tiện nghi hiện đại mà quên đi vầng trăng: “vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường” - Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư: “Thình lình đèn điện tắt” chính là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng trăng tròn ở ngoài kia, trên kia đối lập với “phòng buyn-dinh tối om”. Chính vì xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên đã gợi ra bao kỉ niệm nghĩa tình III. Phân tích Có nhiều tác phẩm vừa mới được ra đời đã bị chết yểu . Có nhiều tác phẩm gây dư luận xôn xoan 1 thời rồi bị độc giả quên lãng cùng thời gian . Nhưng cũng có những bài thơ , truyện ngắn để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc . Và bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy chính là tiêu biểu cho điều đó Tác phẩm ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí inh , 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng . Bài thơ như 1 lời tâm sự chân thành : Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ , với những ngày kháng chiến gian khổ . Vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên bởi nó là 1 vật kỷ niệm thiêng liêng , Nó đem lại anh sáng xua tan đêm tối . Nó là tri kỉ . Và khổ thơ đầu hiện lên nhằm khắc họa điều đó Hồi nhỏ sống với đồng Với sống và với bể Hồi chiến tranh ở rừng Vầng trăng thành tri kỉ Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên 1 không giản bao la : với đồng với sông và với bể . Trăng rất gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu . Trăng gần với đồng ruộng găn với sông xanh biển cả . Dù ở đâu đi đâu trăng cũng cạnh bên Nhưng phải đến khi chiến tranh loạn lạc . Rừng trở thành nơi tập kích , trốn trú ngụ khỏi quân thù thì mới nhận ra rằng cái vai trò lớn lao của vầng trăng ấy . Trăng đã soi sáng đường ta đi . Vầng trăng đã.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> thành tri kỉ . Thành đôi bạn không thể thiêu nhau . Trang chia ngọt sẻ bùi trăng đồng cam cộng khổ Trần trụi với thiên nhiên Hồn nhiên như cây cỏ Ngỡ không bao giờ quên Cái vầng trăng tình nghĩa Khổ thơ thứ 2 như 1 lời nhắc nhỏ của tác giả về những năm tháng giang lao đã qua của cuocọ đời người lính gắn bó với thiên nhiên , đất nước , bình dị , hiền hậu . 1 vần lưng đã xuất hiện 1 ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi , chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng . Đó là cốt cách của cá anh " trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ " . Trăng có vẻ vô cùng bình dị . 1 vẻ đẹp thấm nhuần chất nhân văn . Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên , trăng đã hóa vào thiên nhiên , hòa vào cây cỏ . Vầng trăng chính là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy , đã trở thành " vầng trăng tri kỉ " " vầng trăng tình nghĩa " ngỡ không bao giờ quên . Ấy thế mà có những thời gian tác giả tự nhủ là mình đã lãng quên cái vầng trăng tình nghĩa đó ... Từ hồi về thành phố Quen anh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường Trước giây tác giả sống gần gũi với thiên nhiên , với sống với bể với rừng . Bây giờ thơi gian dần trôi , môi trương sống thay đổi nên lòng người đã đổi thay . Tác giả đã quen với cái nếp sống " thành phố" ấy . Quen cái " anh điện cửa gương " cũng như đã quen sống trong 1 cuộc sống đầy đủ tiện nghi và vật chất .... Cho nên dần dần cái vầng trăng ngày nào đã bị niềm vui hưởng thụ cuộc sống sung túc che khuất mất . Đúng như vậy vầng trăng tượng trưng cho những tháng năm gian khổ Đó là tình đồng chi được hình thành trong những năm tháng chiến tranh . Nhưng giờ đây hòa bình lập lại lòng người đổi thay là chuyện thường tình . Bởi thế người đời thường nhắc nhau Ngọt bùi nhớ nhé đắng cay Nhưng bây giờ vầng trăng không còn chiếm giữ vị trí nào trong tim tác giả nữa. Bằng biện pháp nhân hóa vầng trăng " vầng trăng đi qua ngõ " làm nỗi bật lên điều đó . Hằng đêm trăng vẫn cứ đi . Vẫn mang chút anh sáng nhỏ nhoi vào bầu trời đêm tối . Vậy mà tác giả đã bị cuộc sống xa hoa làm mờ mắt . Không còn nhớ đến trăng nữa .Giọng thơ như giãi bày tâm sự lúc trước , nhà thơ tự trò chuyện với mình . Chất trữ tình cảu thơ ca trờ nên sâu lắng chân thành . Rồi bất chợt duyên số đến . Tác giả đã gặp lại cái vầng trăng tình nghĩa Thình lình đen điện tắt Phòng buyndinh tối om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn Vầng trăng xuất hiện thật bất ngờ , cái khoánh khắc ấy giây phút ấy ... tác giả bàng hoàng trước vẻ đẹp của vầng trăng . Tác giã đã quen với đèn điện cửa gương rồi . Nhưng ko ngờ bây giờ còn gặp lại ánh sáng của vầng trăng . Bào kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả rưng rưng nước mắt Ngữa mặt lên nhin mặt Có cái gì rưng rưng Như là đồng là bể Như là sông là rừng.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Một cái nhìn đầy áy náy thật xót xa . Trăng chẳng nói chằng trách gi mà sao người lình cảm thấy có cái gì rưng rưng , cảm giác xúc động , nước mắt đang ứa ra . Sắp khóc . Khóc đi để giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản , vững tâm lại , cái tốt lành sẽ hé lộ . Bào kri niệm đẹp 1 đời người ùa về trong tâm tri, tâm hồn gắn bó chan hòa với thiên nhiên với quê hương đất nước . Với câu trúc thơ song hành , điệp từ như, biện pháp tu từ so sánh cho thấy ngòi bút của nguyên du thật tài hòa " như là đồng là bể như là sông là rừng" Đoạn thơ này hay ở chỗ chất bộc bạch thật chân thành , ở tình biểu cảm , ở tính hình tượng và hàm súc , từ ngô ngữ hình ảnh giản dị đi vào lòng người , khắc sâu điều nàh thơ muốn tâm sự với chúng ta 1 cách nhẹ nhàng mà thắm thia Khổ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo , đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí Dù bao nhiêu năm tháng đã trôi qua . Con người sẽ gia đi nhưng vầng trăng là bất tử . Trăng vẫn cứ vậy không chút đổi thay . Trăng cũng giống như trái đất bao la nay . Vầng trăng vẫn cứ tròn , tròn 1 cách tự nhiên , tròn như quả đất " chúng mình " , tròn vành vạnh . Đó chỉ là nghĩa thực . Ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa , những tư tưởng thật thầm nhuầm chất nhân văn . Tác giả đã gởi hàm ý vào câu thơ giản dị , gần gũi ấy . tác giả đã nói lên đức tính cao thượng của vầng trăng . Dù lòng người có đổi thay , dù ai có bạc tình bạc nghĩa , không ghi nhớ đến công lao của vầng trăng " Nhưng vầng trăng sẽ không màng đến , sẽ khoan dung độ lượng bỏ qua tất cả . Theo ta nghĩ quan niệm của vầng trăng và của Lục Vân Tiên cũng có điểm tương đồng : làm ơn há dễ trông người trả ơn Rồi còn như ông ngư nữa Một câu danh lợi chi sờn lòng đây Lục vân tiên từng cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi bọn cướp Phong Lai , chàng cướp chỉ vì " thấy chuyện bất bình chẳng tha " chớ không có lợi lộc gì cả. Chàng chỉ là 1 người thư sinh nho nhã vậy mà vẫn không cầm lòng trước truyện bất bình . Ông ngư thì gia cảnh nghèo khổ, khó khăn , vậy mà khi gặp Vân Tiên sa cơ vẫn ra sức cứu giúp , cho dù thân thể vân tiên như " trai mùi trên cây " . Cả 3 hình tượng ấy đều giống nhau . Đều ra sức giúp ích cho đời để cuối cùng không mang lại lợi lộc gì . Nhưng riêng với ánh trăng thi khác . Trăng sẽ mãi mãi chung thủy , không bao giờ đổi thay . Du lòng người thây đổi thì trăng vẫn vây . Trăng sẽ không chấp người vô tình , sẽ im phăng phắc ... hành động đó , cử chỉ đó là 1 nghĩa cử cao đẹp . Nó sẽ là tấm gương sáng để thế hệ trẻ noi theo . Nhưng chính điều đó đã làm cho người lính từng quên đi vầng trăng đó, từng sa cơ vào lối sống phồn hoa nơi đô thị , từng quên 1 thời gắn bó chia ngọt sẻ bùi phải " giật mình " . Giật mình vì tính chung thủy của vầng trăng , giật mình vì sự khoan dung độ lượng . Chắc hẳn người lính trẻ này sẽ có 1 bài học quý giá về đạo lí làm người . Luôn luôn ghi nhớ công ơn người đi trước và nhưng người làm ơn với mình . " ăn quả nhớ kẻ trồng cây " " uông nước nhớ nguồn " . Chình là những câu tục ngữ đúc kết từ nhiều kinh nghiệm sống ấy Ánh trăng của Nguyễn Duy là 1 thể thơ hay . Nguyễn Duy thật tài tình khi vận dụng thể thơ 5 chữ 1 cách sáng tạo tài hoa . Nếu như trong bài thơ " Tre Việt Nam " cau thơ lục bát có khi đưựoc tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng mấy thì trong bài thơ này lại có 1 nét mới . Chữ đầu của dòng thơ câu thơ không viết hoa . Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dạt dào trôi theo dòng chảy của thơi gian kỉ niệm . Phải chăng tác giả muốn đền đáp lỗi lầm của mình đối với vầng trăng quá khổ cuối của bài.... IV. Kết cấu và giọng điệu của bài thơ.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> “Ánh trăng” không chỉ thành công ở triết lí sâu sắc của nhân vật trữ tình mà còn thành công ở nghệ thuât kết cấu, giọng điệu - Là sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Sự việc trong tự sự dẫn mạch cho cảm xúc trữ tình, làm cho cảm xúc chân thành, thiết tha - Thể thơ 5 chữ phù hợp với chất tự sự được thể hiện bằng giọng điệu tâm tình, thấm thía. Cách trình bày các chữ đầu dòng thơ làm cho các sự việc diễn ra liền mạch về ý tưởng cũng như về hình ảnh thơ - Nhịp thơ khi trôi chảy, tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể; khi ngân nga thiết tha cảm xúc; lúc lại trầm lắng đầy ắp suy tư Kết cấu giọng điệu thơ làm nổi bật chủ đề của tác phẩm tạo nên tính chân thực, chân thành sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh với người đọc V. Chủ đề bài thơ, chủ đề ấy có liên quan đến đạo lí, lẽ sống của dân tộc Việt Nam là *Chủ đề: Từ một câu chuyện riêng, bài thơ cất lên tiếng tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà nghĩa tình đối với thiên nhiên, đất nước bình dị * Gợi lên những suy nghĩ về đạo lí, lẽ sống của người Việt Nam ta: bài thơ như một câu chuyện riêng nhưng có sức khái quát rất lớn. Nó không chỉ là câu chuyện câu riêng nhà thơ, riêng một người mà là của cả một thế hệ đã trải qua những năm dài chiến tranh gian khổ, mất mát, đã từng sống giữa thiên nhiên, sống giữa nhân dân tình nghĩa. Giờ đây sống trong cảnh hòa bình với những tiện nghi đầy đủ, hiện đại, người ta có thể thay đổi, đánh mất quá khứ, đánh mất nghĩa tình để rồi một lúc nào đó lại phải ân hận, ăn năn. Câu chuyện nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quên quá khứ, đừng bao giờ trở thành những kẻ vô tình, vô nghĩa, bạc bẽo, vô ơn. “Ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi lên đạo lí sống thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. CON CÒ I. Tác giả - Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nhưng lớn lên ở Vĩnh Phúc - Trước cách mạnh tháng 8, 1945 Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập “Điêu tàn” (1973). Với hơn 50 sáng tác, có nhiều tìm tòi ở những tập thơ gây được tiếng vang trong công chúng, Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ hiện đại Việt Nam TK XX - Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác Sáng tác năm 1962, in trong tập “Hoa ngày thường – Chim báo bão” (1967) của Chế Lan Viên 2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật a. Giá trị nội dung.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Từ hình tượng con cò trong những lời hát ru, ngợi ca tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc đời mỗi người b. Giá trị nghệ thuật - Vận dụng sáng tạo hình ảnh và giọng điệu lời ru của ca dao, có những câu thơ đúc kết được những suy nghĩa sâu sắc - Hình ảnh con cò mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc 3. Tìm hiểu mạch cảm xúc và bố cục bài thơ a. Mạch cảm xúc trữ tình: Được phát triển theo ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò, bắt đầu từ hình ảnh con cò trong ca dao theo lời ru của mẹ đi vào tiềm thức trẻ thơ, rồi đến hình ảnh con cò mang ý nghĩa biểu tượng cho sự nâng niu chăm chút của mẹ dành cho con suốt cuộc đời, và cuối cùng là những cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử và ý nghĩa lời ru qua hình ảnh con cò b. Bố cục: 3 phần - Khổ 1: Hình ảnh con cò qua lời ru đến với mỗi con người thửa ấu thơ, con cò là biểu tượng cho cuộc đời lam lũ của mẹ - Khổ 2: Hình ảnh con cò đi vào tiềm thức tuổi thơ trở nên gần gũi và sẽ theo con trong suốt chặng đường đời - Khổ 3: Từ hình ảnh con cò suy nghĩ về lời ru và lòng mẹ, con cò là biểu tượng cho tấm lòng yêu con của mẹ III. Phân tích Con cò là hình ảnh quen thuộc với làng quê Việt Nam tự bao đời. Chính vì thế mà từ lúc nào không biết, hình ảnh cò đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam một cách bình thường nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc biểu trưng cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó. Và cũng có khi hình ảnh cò được mượn để ví cho thân phận người phụ nữ thấp bé trước xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cảm nhận từ tình mẹ thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã mượn chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để dệt nên bài thơ "Con cò" ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ, người mẹ. Bài thơ đã nhanh chóng được mọi người biết đến và trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về tình mẹ. Khổ thơ đầu được viết một cách nhẹ nhàng, êm, ái: Con còn bế trên tay Con chưa biết con cò Nhưng trong lời mẹ ru Có cánh cò đang bay "Con cò bay la Con cò bay lả Con cò cổng phủ Con cò Đồng Đăng" Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ "Con cò ăn đêm Con cò xa tổ Cò gặp cành mềm Cò sợ xáo măng..." Ngủ yên! ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân Con chưa biết con cò, con vạc Con chưa biết cành mềm mẹ hát Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân. Đúng là đứa trẻ còn quá bé bỏng để hiểu được thế nào là "con cò", "con vạc", thế nhưng ngay từ giấc ngủ đầu nôi, người mẹ đã nhẹ nhàng đem cánh cò đến với con bằng lời ru dịu dàng, nồng ấm. Điệp từ "con cò" được nhắc đi, nhắc lại ở câu bốn đến câu tám của khổ thơ đầu như một điệp khúc ngân nga, nhịp nhàng. Người đọc cảm nhận được trong thơ có nhạc. Nhạc điệu là lời ru của mẹ đối với con, là lời kể, tả của mẹ về hình ảnh cò trong dân gian cho con nghe. Hình ảnh "con cò bay la,..... bay lả", từ "cổng phủ" cho đến "Đồng Đăng" miêu tả hình ảnh cò thung dung bay lượn một cách tự do trên khắp mọi nẻo quê hương, trở thành biểu tượng gắn bó với làng quê Việt Nam. Hình ảnh cò "xa tổ", cò "ăn đêm", sợ gặp "cành mềm", sợ bị "xáo măng" gợi hình ảnh cò lẻ loi một mình đi kiếm mồi trong đêm tăm tối có muôn vàn cạm bẫy đang chực chờ phía trước. Phải chăng, tác giả muốn nhắc đến thân phận yếu đuối của người phụ nữ và nỗi vất vả gian truân trong cuộc mưu sinh để nuôi con âm thầm, khi bên ngoài xã hội còn nhiều cạm bẫy đang chực chờ. Mặc dù người mẹ biết con mình còn quá bé bỏng trước cuộc đời. Nhưng mẹ muốn hát cho con nghe để con hình thành tình yêu thương đối với những gì thuộc về quê hương, đất nước, hiểu được tình thương bao la mà mẹ dành cho con. Bên cạnh đó, mẹ muốn con hãy yên tâm trước cuộc đời, vì đã có mẹ chở che trong câu: "sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân". Đọc đến đây, ta cảm động trước tình mẹ bao la, sâu sắc, vỗ về, chở che ta từ khi còn tấm bé. Để rồi, khi ta từng bước trưởng thành, vẫn có mẹ bên cạnh xẻ chia: Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên! Cho cò trắng đến làm quen Cò đứng ở quanh nôi Rồi cò vào trong tổ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi. Mai khôn lớn con theo cò đi học Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên! Con làm gì? Con làm thi sĩ! Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn. Khổ thơ thứ hai có thể chia làm ba giai đoạn, tựu chung lại vẫn là ý nghĩa của hình ảnh cò gắn bó mật thiết và trở nên người bạn đồng hành đối với cuộc đời con trẻ từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Đoạn đầu từ: Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên! Cho cò trắng đến làm quen Cò đứng ở quanh nôi Rồi cò vào trong tổ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Là mối tương quan mật thiết giữa cò với con trẻ trong suốt thời thơ ấu. Cò "đứng ở quanh nôi", rồi cò "vào trong tổ"; còn có ngủ thì cò mới ngủ. Hình ảnh cò tới đây không còn là hình ảnh con cò giản dị nữa, mà đã ẩn dụ cho hình tượng người mẹ chăm sóc, vỗ về, ấp iu cho con từng miếng ăn, giấc ngủ. Khi con lớn hơn một chút thì tình yêu mẹ dành cho con như thế nào? Đoạn thứ hai: " Mai khôn lớn con theo cò đi học Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân" là hình ảnh đồng hành của người mẹ với con mình trong thời niên thiếu. Buổi ban đầu chập chững bước vào cuộc đời, đứa trẻ cần lắm đôi tay dìu dắt của mẹ. Thế nhưng, người mẹ sẽ không dìu dắt con mãi mãi, mà theo năm tháng, mẹ tập cho con tự bước đi trên đôi chân chính mình. Có thể thấy: ban đầu, thì cò dắt con đi học. Nhưng dần dà, cánh trắng cò chỉ bay theo gót chân con. Khi con đến giai đoạn niên thiếu, tình thương của mẹ dành cho con đã có cách thể hiện khác. Mẹ không còn nâng niu con nữa, mà chỉ đồng hành bên con, dõi theo mỗi bước chân con. Mẹ muốn con tự đi trong cuộc đời bằng đôi chân của chính mình. Vì chỉ có thế, bước chân con mới vững chãi, không sợ bị vấp ngã. Ta cảm nhận được tình mẹ vừa sâu sắc, lại vừa phong phú, cách thể hiện đa dạng. Một lần nữa, ta hiểu thêm về mẹ, chợt nhận hối hận ra ta cũng đã có lúc hiểu lầm về mẹ. Đoạn thứ ba nói lên hình ảnh cò-hình ảnh mẹ đã đi vào tiềm thức, hóa nên tâm hồn phong phú cho con người khi trưởng thành: Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên! Con làm gì? Con làm thi sĩ! Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn. Cho dù lúc trưởng thành con có làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì hình ảnh mẹ luôn là nguồn cảm xúc dạt dào, là chất xúc tác giúp con thành công hơn trên bước đường công danh sự nghiệp. Hình ảnh thân thương của mẹ trở nên ý nghĩa lớn lao với cuộc đời mỗi người. Khổ thơ thứ ba thật giản dị mà lại gây nên xúc động với người đọc bởi lời mẹ chân tình, tha thiết: Dù được gần con Dù ở xa con Lên rừng, xuống bể Cò sẽ tìm con Cò mãi yêu con Con dù lớn, vẫn là con của mẹ Đi hết đời, lòng mẹ vẫn yêu con. Phải chăng đây cũng chính là lời tự sự của tất cả những người mẹ có con cái đã trưởng thành, có khung trời và lối đi riêng? Cho dù bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ vẫn dang rộng vòng tay yêu thương, vẫn là bến bờ, là điểm tựa cho con bởi:" con dù lớn vẫn là con của mẹ". Thế nên "đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con". Có biết bao nhiêu thứ tình cảm trên đời, nhưng có tình nào bao la, sâu sắc và vô tận như tình mẹ dành cho ta. Bài thơ được mở đầu bằng những câu hát ru và kết lại cũng bằng lời ru à ơi: À ơi! Một con cò thôi Con cò mẹ hát.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi Ngủ đi! Ngủ đi! Cho cánh cò, cánh vạc Cho cả sắc trời Đến hát Quanh nôi. Lời ru đến lúc này sao thắm đượm quá đỗi tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ. Lại một lần nữa các cụm từ:"ngủ đi", "cánh cò, cánh vạc", "nôi" được nhắc lại nhằm gợi về kỉ niệm tuổi thơ, nhắc nhớ về giấc ngủ đầu nôi cũng là dấu ấn thiêng liêng trong tâm thức của mỗi người. Chế Lan Viên đã sáng tác bài thơ này với một sự chiêm nghiệm sâu sắc về tình mẹ con. Ông đã thể hiện niềm yêu kính đối với hình tượng người mẹ bằng giọng thơ nhẹ nhàng, trau chuốt. Tình mẹ, chắc có lẽ trong tâm thức mỗi con người đều cảm nhận được. Thế nhưng, với bài thơ "Con Cò" của Chế Lan Viên, ta như được trãi nghiệm và hiểu thêm một cách sâu sắc về ý nghĩa của tình mẹ trong cuộc đời của mỗi con người. IV. Nhận xét về thể thơ, nhịp điệu, giọng điệu của bài thơ. Các yếu tố ấy có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện tư tưởng, cảm xúc của bài thơ? Nghệ thuật của bài thơ - Thể thơ tự do nhiều câu mang dáng dấp của thể thơ 8 chữ nên cảm xúc được thể hiện một cách linh hoạt - Cấu trúc các đoạn thường bắt đầu bằng những câu thơ ngắn, nhiều chỗ có cấu trúc giống nhau, có chỗ cấu trúc lặp lại hoàn toàn gợi âm điệu của lời ru - Giọng điệu suy ngẫm có cả tính triết lí làm cho bài thơ không chỉ cuốn người đọc vào điệu ru êm ái, mà hướng nhiều hơn vào sự suy ngẫm, phát hiện - Sáng tạo hình ảnh thiên về ý nghĩa biểu tượng nhưng cũng rất gần gũi, quen thuộc mà vẫn có khả năng hàm chứa ý nghĩa mới. Hình ảnh con cò được phát triển, mở rộng qua mỗi khổ nhưng vẫn giữ được tính liên kết, thống nhất - Bài thơ thành công trong việc vận dụng sáng tạo ca dao, có những câu thơ đúc kết được những suy nghĩ sâu xa V. Đối chiếu hai bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Con cò của Chế Lan Viên, chỉ ra cách vận dụng lời ru ở mỗi bài thơ: Cách khai thác lời ru - Bài “Khúc hát ru…” tác giả Nguyễn Khoa Điềm vừa trò chuyện với em bé với giọng điệu gần như lời ru, lại có những lời ru trực tiếp từ người mẹ. Khúc hát ru ở bài thơ ấy biểu hiện sự thống nhất giữa tình yêu con với tình yêu cách mạng, với lòng yêu nước và ý chí chiến đấu - Bài thơ “Con cò” tác giả Chế Lan Viên gợi lại điệu hát ru trong ca dao -> ca ngợi tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với đời sống mỗi con người. MÙA XUÂN NHO NHỎ I. Tác giả.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Tác giả Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn Sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930 Quê ở Hương Điền, Thừa Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1978 ) Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông công tác tại đoàn Văn công tỉnh, rồi ở lại hoạt động, làm tuyên huấn ở cơ quan khu ủy Trị Thiên thời chống Mỹ cứu nước. Từ 1975 , ông là Tổng Thư ký Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế. Ông từng là ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông mất năm 1980 tại Huế Ông nhận giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu 1965 . Tác phẩm chọn lọc: Những đồng chí trung kiên (1962); Huế mùa xuân (2 tập, 19701975),Dấu võng Trường Sơn (1977); Mưa xuân đất này (1982); Thơ tuyển (1982)… Tác phẩm chính: - Những đồng chí trung kiên (1962); - Huế mùa xuân (2 tập, 1970-1975), - Dấu võng Trường Sơn (1977); - Mưa xuân đất này (1982); - Thơ tuyển (1982). II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác: 11/1980 Bài thơ được viết không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến cuộc sống đất nước thiết tha và ước nguyện của tác giả 2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật a. Nội dung: Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên và đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành góp mùa xuân nho nhỏ của mình vào cuộc đời chung b. Nghệ thuật: Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gắn với dân ca; hình ảnh đẹp giản dị, những so sánh, ẩn dụ sáng tạo 3. Mạch cảm xúc và bố cục a. Mạch cảm xúc: Được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc lắng đọng dần vào sự suy tư và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hòa ca vĩ đại của cuộc đời bằng một nốt trầm xao xuyến của riêng mình, góp vào mùa xuân chung lớn lao “một mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế b. Bố cục: 4 phần - Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất trời - Khổ 2 + 3: Cảm xúc về mùa xuân đất nước - Khổ 4 + 5: Suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước - Khổ cuối: Lời ca ngợi quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế 4. Tên bài thơ: - “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ - Hình ảnh Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người - Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng - Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình những rất khiêm nhường là một mùa xuân.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi gắm. III. Phân tích 1. Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ: “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc. Ơi con chim chiền chiện Hót cho mà vang trời, Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng”. Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của những cô gái Huế. Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, thánh thoát hơn: “Ơi con chim chiền chiện Hót cho mà vang trời, Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng”. Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất Huế hơn nhờ dùng đúng chỗ những ngôn từ đặc trưng xứ Huế. Một từ “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ. Từ “giọt” được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm hay cả tiếng hót của những chú chim chiền chiện. Nhưng đối với khung sắc trời xuân thì giọt xuân càng làm tăng thêm vẻ đẹp và sự quyến rũ của nó. Một từ “hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm xúc trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời. 2. Cảm xúc về mùa xuân của đất nước Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân của cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”, biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm: “Mùa xuân người cầm súng, Lộc giắt đầy trên lưng. Mùa xuân người ra đồng, Lộc trãi dài nương mạ. Tất cả như hối hả, Tất cả như xôn xao…” Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân yêu. Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một khổ thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi nghỉ. Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp: “Đất nước bốn ngàn năm Vất và vào gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước” Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc. Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người. 3. Suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết: “Ta làm con chim hót, Ta làm một cành hoa. Ta nhập vào hoà ca, Một nốt trầm xao xuyến” Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau: “Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”. Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết cố gắng hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già - cống hiến tuổi già, trẻ - cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình. Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> cuối cùng. “Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi. 4. Lời ca ngợi quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình thắm thiết “Mùa xuân ta xin hát Câu Nam ai, Nam Bình Nước non ngàn dặm tình Nước non ngàn dặm mình Nhịp phách tiền đất Huế” Đánh giá chung Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời của ông. Ông đã giải bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giải bày cho nhau IV. Nghệ thuật đặc sắc - Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần liền tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc - Hình ảnh tự nhiên, giản dị, những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt là một số hình ảnh cành hoa, con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng đậm đà - Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời -> đất nước -> con người - Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: Ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động hăng say của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi nghiêm trang mà tha thiết bộc bạch, tâm niệm V. Trong phần đầu bài thơ, tác giả dùng đại từ “tôi” sang phần sau lại dùng đại từ “ta”. Em hiểu như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ tình - Tôi và ta đều là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất - Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình từ “tôi” sang “ta”. Điều này không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật thích hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Chữ “tôi” trong câu “tôi đưa tay tôi hứng” ở khổ thơ đầu vừa thể hiện một cái “tôi” cụ thể rất riêng của nhà thơ, vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ “ta” thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có vẻ phô trương - Còn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát vọng được dâng hiến giá trị tinh túy của đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ “ta” lại tạo được sắc thái quan trọng. thiêng liêng của một lời nguyện ước - Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ của riêng nhà thơ, mà của biết bào thế hệ người Việt Nam đang sống và cống hiến cho sự nghiệp chung, cái “tôi” của tác giả đã nói thay cho nhiều cái “tôi” khá, nó nhất thiết phải hóa thân thành cái “ta”. Nhưng.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> “ta” mà không hề chung chung vô hình, mà vẫn nhận ra được một giọng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái “tôi” Thanh Hải. VIẾNG LĂNG BÁC I. Tác giả - Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang - Trong kháng chiến chống Pháp và Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở niềm Nam thời kì chống Mĩ cứu nước II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác: 1967. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch HCM vừa khánh thành, tác giả ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “VLB” được in trong tập “Như mây mùa xuân” (1978) 2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật a. Nội dung Bài thơ thể hiện niềm xúc động chân thành, lòng yêu kính, biết ơn sâu sắc và nỗi niềm thương nhớ Bác Hồ của nhà thơ khi được đến viếng lăng Bác. b. Nghệ thuật: Giọng điệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm; ngôn ngữ bình dị, cô đúc 3. Cảm hứng bao trùm và mạch vận động tâm trạng của nhà thơ – Bố cục a. Cảm hứng bao trùm: Là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng Lăng Bác. Cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghỉ. Cùng với giọng suy tư, trầm lắng là nỗi xót đau lẫn niềm tự hào b. Mạch vận động: Đi theo trình tự của một cuộc vào Lăng viếng Bác, từ khi đứng trước Lăng đến khi bước vào Lăng và trở ra về. Mở đầu là cảm xúc về cảnh ngoài Lăng, tập trung ở ấn tượng đậm nét về hàng tre bên lăng gợi hình ảnh quê hương đất nước. Tiếp đó là cảm xúc trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào Lăng viếng Bác. Xúc cảm và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về quê hương miền Nam, muốn tấm lòng mình vẫn được mãi mãi ở lại bên Lăng Bác. Mạch cảm xúc như trên đã tạo nên một bố cục khá đơn giản, tự nhiên và hợp lí của bài thơ c. Bố cục: 4 phần - Khổ 1: Cảm xúc của tác giả trước không gian, cảnh vật bên ngoài Lăng - Khổ 2: Cảm xúc trước đoàn người vào viếng Lăng - Khổ 3: Cảm xúc khi vào Lăng, nhìn thấy di hài Bác - Khổ 4: Những tình cảm, cảm xúc trước khi ra về III. Phân tích 1. Khổ 1 _ Như một người con xa, nay mới có dịp được trở về viếng thăm “người cha” đã khuất, Viễn Phương vô cùng bồi hồi, xúc động: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát… _ Trong tâm trạng của người con miền Nam “mong Bác nỗi mong cha”, nhà thơ bày tỏ tình cảm chân thành, tha thiết của mình đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Tác giả xưng “con” biểu lộ tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng đối với Bác. _ Giờ đây, đứng trước lăng mộ của Người, trong lòng nhà thơ dâng trào bao xúc động, nghẹn ngào. Nguồn cảm xúc ấy cứ dâng trào mãnh liệt: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Từ cảm “ôi” đã diễn tả niềm cảm xúc sâu xa của nhà thơ trước cảnh tượng thiêng liêng nơi lăng Bác. _ Hình ảnh gợi tả “hàng tre xanh xanh” thật gần gũi, thân thương, biểu tượng cho làng quê Việt Nam tràn đầy sức sống dồi dào, mãnh liệt. Dù có phải trải qua bao “bão táp mưa sa” nhưng hàng tre vẫn xanh tươi, vẫn vươn lên mạnh mẽ. Từ bao đời nay, tre đã trở thành biểu tượng cho con người Việt Nam có chí khí cao cả, có sức sống bền bỉ, dẻo dai, kiên cường, bất khuất: “Loài tre đâu chịu mọc cong Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường.” ( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy ) _ Trong tâm hồn nhà thơ thì hình ảnh hàng tre đứng quanh lăng Bác biểu tượng cho toàn thể dân tộc Việt Nam đã hợp thành đội ngũ trang nghiêm, chỉnh tề, vững vàng bên lăng Bác. Dù trong hoàn cảnh nào, cả dân tộc vẫn giữ trọn tấm lòng thành kính hướng về Bác. 2. Khổ 2 _ Với tấm lòng thành kính Viễn Phương tiếp tục suy tưởng khi đứng trước lăng Bác, ngợi ca công ơn của Người: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ _ Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của thiên nhiên, nguồn ánh sáng rực rỡ, vĩnh viễn, bất tận trên thế gian này. Ánh sáng mặt trời đem lại sự sống cho con người và vạn vật _ Từ hình ảnh thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng và sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ tinh tế, tài tình, độc đáo, “mặt trời trong lăng rất đỏ” để ca ngợi công ơn to lớn và sự cao cả, vĩ đại của Bác. Trong tâm hồn Bác ngời sáng một vầng hào quang rực rỡ như nguồn sáng của mặt trời đã đem lại sự sống cho con người, vạn vật. Đó cũng chính là vầng hào quang chói lọi của lí tưởng cách mạng mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường phía trước, con đường vươn tới một tương lai tốt đẹp – một đất nước Việt Nam giàu mạnh. _ Trong trái tim của Bác còn tỏa sáng tình yêu thương nồng ấm, thiết tha đối với dân tộc và đất nước. Nhu nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông mọi kiếp người” _ Với niềm xúc động chân thành, Viễn Phương đã bày tỏ lòng yêu kính, biết ơn sâu sắc đối với Bác: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> _ Hình ảnh tiêu biểu, sinh động “dòng người đi trong thương nhớ” gợi lên trước mắt người đọc cảnh nhân dân từ mọi miền đất nước về thủ đô Hà Nội để viếng thăm lăng Bác. _ Trong tình cảm nhớ thương, biết ơn Bác vô hạn, họ kết thành những “tràng hoa” đời tuyệt đẹp thành kính dâng lên Bác. Những tràng hoa tươi thắm ấy tượng trưng cho muôn triệu cuộc đời nở hoa dưới ánh sáng mặt trời rực rỡ của Bác. Cả dân tộc đời đời tưởng nhớ và ghi khắc trong lòng công ơn to lớn của Bác. _ Với lòng biết ơn vô hạn, Viễn Phương đã sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, giàu ý nghĩa tượng trưng “bảy mươi chín mùa xuân” để ca ngợi sự cống hiến, hi sinh cao cả của Bác Hồ kính yêu. Cuộc đời của Người là “bảy mươi chín mùa xuân” tươi đẹp, cống hiến trọn vẹn cho dân tộc, cho đất nước. Suốt hơn nữa thế kỉ, Bác đã chiến đấu, hy sinh để đem lại độc lập tự do cho dân tộc, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Sự cống hiến của Bác thật cao cả, vĩ đại! Vì vậy Bác còn sống mãi trong niềm ngưỡng mộ, tôn kính của nhân dân. 3. Khổ 3 Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền _ Bác đang yên nghỉ giữa lòng quê hương, đất nước thân yêu. Tác giả đã chọn lọc một hình ành đặc sắc, sinh động, giàu sức gợi cảm “vầng trăng sáng dịu hiền” để ca ngợi tâm hồn trong sáng cao đẹp tuyệt vời của Bác. Trong cảm nhận của nhà thơ, Bác mãi mãi là một vầng trăng ngời ngời tỏa sáng tình yêu thương cho con người và cuộc đời. _ Hình ảnh của Bác vừa vĩ đại, vừa bình dị và gần gũi. _ Hình ảnh vầng trăng vĩnh hằng của trời đất, tượng trưng cho sự bất tử của Bác. Vị cha già kính yêu của dân tộc còn sống mãi cùng non sông, đất nước, sống mãi trong tâm trí mỗi người dân đất Việt. _ Trong tình cảm của dân tộc thì Bác vẫn còn sống mãi nhưng trong thực tế, Bác đã vĩnh biệt chúng ta. Vì vậy, nhà thơ vô cùng đau đớn thương tiếc Bác: Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim. Viễn Phương đã sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” rất tinh tế và giàu sức gợi cảm để ca ngợi sự bất tử của Bác. Bác đã đi xa nhưng sự nghiệp cách mạng cao cả của Người vẫn luôn tồn tại như bầu trời cao xanh kia. Hình ảnh Bác vẫn mãi soi sáng, sát cánh cùng non sông đất nước, trong tâm hồn dân tộc. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, Bác đã ra đi, Viễn Phương nghe mà “nhói ở trong tim”. Hình ảnh “nghe nhói ở trong tim” đã diễn tả chân thực, giàu cảm xúc nỗi nghẹn ngào, tiếc thương, đau đớn của tác giả. Đó là nỗi đau của người con miền Nam bao năm mong ước được gặp Bác và cũng là nỗi đau chung của cả dân tộc. Bác ra đi là một mất mát lớn lao không gì bù đắp được. Dân tộc đã mất đii một vị lãnh tụ vĩ đại, một người cha già kính yêu. Cảm xúc ấy dường như đã len lỏi vào từng câu từng chữ, khiến người đọc cũng không khỏi nghẹn ngào. 4. Khổ 4 _ Khi tạm biệt Bác để trở về miền Nam , trong lòng nhà thơ dâng trào một nỗi buồn thương da diết: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Hình ảnh chứa chan cảm xúc “thương trào nước mắt” diễn tả cái cảm xúc đang dâng trào mãnh liệt trong lòng tác giả. Nhà thơ lưu luyến, nhớ thương, xúc động, nghẹn ngào, không muốn rời xa người cha già kính yêu.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> _ Với tất cả tấm lòng thành kính, biết ơn Bác, người con miền Nam đã bày tỏ ước nguyện tha thiết của mình: Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. _ Điệp ngữ “muốn làm” được đặt ở đầu 3 câu thơ liên tiếp nhau gắn liền với hình ảnh “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” và “cây tre trung hiếu” thể hiện ước nguyện giản dị, chân thành và sâu sắc của nhà thơ. Trước anh linh của Bác, người con miền Nam xin hứa luôn giữ mãi phẩm chất cao đẹp, trong sáng, cốt cách của con người Việt Nam để mãi mãi xứng đáng là lớp cháu con của Bác. _ Hình ảnh nhân hóa sinh động giàu sức biểu cảm “cây tre trung hiếu” gợi lên hình ảnh những người con trung kiên, hiếu nghĩa, một lòng vì nước vì dân. Tác giả nguyện sống xứng đáng là người con trung hiếu của dân tộc. Lời hứa đó thể hiện tình cảm thành kính thiêng liêng của người con miền Nam và của nhân dân cả nước thành tâm hướng về Bác vô hạn. IV. Nghệ thuật của bài thơ - Giọng thơ phù hợp với tình cảm, cảm xúc, giọng điệu vừa nghiêm trang, vừa sâu lắng, vừa đau xót thiết tha, xen lẫn niềm tự hào thể hiện đúng tâm trạng xúc động khi vào Lăng viếng Bác - Giọng điệu ấy tạo nên bởi nhiều yếu tố: Thể thơ, nhịp điệu, từ ngữ, hình ảnh + Thể thơ 8 chữ, gieo vần linh hoạt, nhịp chậm, thể hiện sự nghiêm trang, thành kính + Khổ cuối nhịp nhanh hơn nhờ các điệp ngữ thể hiện mong muốn thiết tha của nhà thơ + Hình ảnh sáng tạo, vừa thực, vừa ảo, mang ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng + Bài thơ giàu chất suy tưởng và chất trữ tình đằm thắm, diễn tả niềm xúc động, thành kính. Cảm xúc của bài thơ được cộng hưởng với tình cảm thiêng liêng Bác dành cho nhân dân miền Nam và tình cảm của dân tộc đối với Người. Nhà thơ đã nói hộ những tình cảm của chúng ta, của dân tộc gửi tới vị cha già kính yêu. Đó không phải là nỗi đau xót mềm yếu, trái lại cho ta thêm nghị lực đi tiếp con đường của Bác Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi Vững như muôn ngọn dài Trường Sơn. SANG THU I. Tác giả - Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc - Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng Thiết Giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. - Ông tham gia Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Từ năm 2004, Hữu Thỉnh là Tổng thư ký Hội nhà văn VN II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác Gần cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Sau đó được in nhiều lần trong các tập thơ. Trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố”, xuất bản năm 1991.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> 2. Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật a. Nội dung: Là sự cảm nhận tinh tế và vẻ đẹp thiên nhiên của bước chuyển mùa từ hạ sang thu. Đồng thời nói lên sự xúc động của lòng người trong khoảnh khắc giao mùa b. Nghệ thuật Lời thơ giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm, cảm xúc tinh tế, sâu lắng, kết hợp tấm lòng chân thành của nhà thơ tạo nên sức cuốn hút cho tác phẩm 3. Mạch cảm xúc và bố cục a. Mạch cảm xúc Sang thu là một bức thông điệp lúc giao mùa. Mùa hạ dần qua, mùa thu tới, khoảnh khắc ấy được diễn tả bằng sự tung cảm tinh tế, sự trải nghiệm sâu sắc của nhà thơ. Mạch cảm xúc xuyên suốt với 2 nội dung nổi bật: cảm nhận về thiên nhiên lúc sang thu và suy ngẫm về cuộc đời khi chớm thu b. Bố cục: 3 phần * Khổ 1: Cảm nhận về thiên nhiên lúc giao mùa, tín hiệu báo thu về * Khổ 2: Quang cảnh đất trới ngả dần sang thu * Khổ 3: Những biến chuyển âm thầm của tạo vật và suy ngẫm về cuộc đời lúc chớm thu 4. Giải nghĩa từ - Chùng chình: Cố ý chậm lại - Dềnh dàng: Chậm chạp, thong thả III. Phân tích bài thơ Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng cuả con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mủa thu của dân tộc 1 cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuôc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vẩn thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài "Sang thu" được ông sáng tác cuối năm 1977. Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trườc cảnh đất trời đanmg chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu. Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu wa sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay wa tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với 1 hương vị khác: hương ổi. "Bỗng nhận ra hương ổi - Phả vào trong gió se". "Bỗng nhận ra" là 1 trạng thái chưa được chuẩn bị trứơc, như là vô tình, sững sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi. "Phả" là 1 động từ mang ý tác động được dùng như 1 cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong ko gian: "hương ổi", một mùi hương ko dễ nhận ra, bởi hương ổi ko fải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là 1 mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người. Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân: "Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về" Từ láy tương hình "chùng chình" gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy 1 sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> "Chùng chình" là sự quãng ngắt nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chinh là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của ko gian mùa thu. "Hình như" là 1 từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thản thốt. Ko fải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là 1 chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người VN, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào 1 cách hết sức tự nhiên. Rồi mùa thu được quan sát ở những ko gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. "Sông được lúc dềnh dàng .....sang thu" Nếu ở khổ 1, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể Dòng sông ko còn cuôn cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh dàng, thanh thản. Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại, chỉ riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi mùa thu chỉ vửa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn của nhà thơ đuợc nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng. "Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu" Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là 1 phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng "vắt nửa mình sang thu". Đám mây như 1 dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động và giàu sức biểu cảm. Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được nhà thơ diễn tả bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. " Vẫn còn ..... .....đứng tuổi" Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào ko còn nhìu nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhìu suy nghĩ, liên tưởng thú vị. "Sấm .... .....đứng tuổi" Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ "hàng cây đứng tuổi" gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như 1 loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chính chắn, điềm tĩnh của hàng cây trc sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chính chắn của con người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra 1 mùa mới, 1 ko gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn.Ở tuổi "sang thu", con người ko còn bất ngờ trc những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> xạc... VÀ ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy nới chính là đặ điểm của mùa thu. Nhưng đến với "Sang thu" của HT,người đọc chợt nhận ra 1 làn hương ổi, một màn sương, 1 dòng sông, 1 đám mây, 1 tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu VN và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của "Sang thu". Bài thơ kết câu theo 1 trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến mạch cảm xúc của tác giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình dung 1 bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ-thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Câu thơ của HT như có 1 chút gì đó thăng trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ. Bài thơ ngắn với thể thơ 5 chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. HT đã phát họa 1 bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhìu cảm xúc tinh nhạy. Đọc thơ HT ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần. NÓI VỚI CON I. Tác giả - Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng - Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở Văn Hóa – Thông tin tỉnh Cao Bằng - Từ năm 1993, ông là chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi II. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh sáng tác: Trong tập thơ Việt Nam (1945 – 1985) 2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật a. Nội dung: Bằng lời trò chuyện với con, bài thơ thể hiện sự gắn bó, niềm tự hào về quê hương và đạo lí sống của dân tộc b. Nghệ thuật: Cách nói giàu hình ảnh, vừa cụ thể, gợi cảm, vừa gợi ý nghĩa sâu xa Thể thơ tự do làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng Nhịp điệu lúc nhẹ nhàng bay bổng, khi khúc chiết rành rọt, lúc mạnh mẽ âm vang -> lời khuyên của cha thấm sâu vào con Ngôn ngữ cụ thể mà giàu khái quát, bao hàm nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo 3. Mạch cảm xúc và bố cục a. Mạch cảm xúc - Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào về sức sống bền bỉ của quê hương mình - Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống. Cảm xúc, chủ đề của bài thơ được bộc lộ, dẫn dắt một cách tự nhiên, có tầm khái quát nhưng vẫn thấm thía b. Bố cục: 2 phần - Đoạn 1: (Từ “Chân phải…trên đời”): Người cha nói với con về tình cảm cội nguồn.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> - Đoạn 2: Còn lại: Người cha nói với con về truyền thống quê hương và dặn dò con trên đường đời 4. Giải nghĩa từ - Người đồng mình: Người vùng mình, người miền mình. Đây có thể hiểu cụ thể là những người cùng sống trên một miền đất, cùng một quê hương, một dân tộc - Lờ: Một loại dụng cụ dùng để đánh bắt cá, được đan bằng những nan tre vót tròn - Ken: Làm cho thật kín bằng cách đệm thêm vào những chỗ hở. Người miền núi thường dùng nhiều tấm ván gỗ dựng chắc sát nhau thành vách nhà. Ken ở đây là động từ, được hiểu như đan, cài, kết - Thung (thung lũng): Dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi, núi III. Phân tích Đến với bài thơ này, người đọc không chí thấy được tình cảm gắn bó mà còn cả phẩm chất cao đẹp của người dân miền núi. Vì đây là một sáng tác của người dân tộc Tày, nên muốn cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài thơ này, chúng ta cần tìm hiều sơ qua về cách suy nghĩ và càch bày tỏ tình cảm của người dân miền núi. Đó là cách diễn tả mộc mạc, hồn nhiên, thể hiện qua ngôn ngữ và hình ảnh lời thơ. Có lẽ vì thế, tác giả Y Phương đã vận dụng triệt để lối ví von, so sánh trong thơ của các dân tộc miền núi thể hiện chủ đề của bài thơ . Mượn lơì cha tâm tình với con. Nhà thơ nhắc nhở về cội nguồn của mỗi con người, qua đó bộc lộ niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc mình, quê hương mình. Bài thơ đi từ tình cảm gia đình rồi mới mở rộng và nâng cao thành tình cảm quê hương, đất nước. Từ những kỷ niệm gần gũi, gắn bó nhất với mổi con người và nâng lên thành lẽ sống chung. Chủ đề của bài thơ được tác giả dẫn dắt và thể hiện rất tự nhiên, mạch lạch, tuy đậm chất riêng tư nhưng vẫn có ý nghĩa khái quát. Tính yêu thương của cha me, sự đùm bọc của quê hương đối với con người là vô hạn. Các con lớn lên từng ngay trong tình cảm thiêng liêng ấy. Ơ bốn câu thơ đầu, bằng những hình ảnh giản dị, Y Phương đã phản ánh sinh động không khí gia đình đầm ấm, quấn quít: “Chân phải bước tời cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười.” Ta cứ tưởng như đang được ngắm một bức tranh của một em bé đang chập chững tập đi, bi bô nói. Điệp ngữ “ bước tới” và động từ “ chạm” được dùng rất khéo, làm nổi bật cài hồn của bức tranh. Cách thể hiện cãm nghĩ của nhà thơ thật độc đáo. Khi đứa con chập chững đi từng bước, từng tiếng nói cười của con đều được cha mẹ nâng niu, chăm chút, vui mừng đón nhận. Đó là 1 gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng, căn nhà luôn rộn rã tiếng nói, tiếng cười. Đứa con trường thành trong cuôc sống lao động cần củ của cha mẹ, trong khung cảnh thiên nhiện đẹp đẽ, thơ mộng của quê hương. Nhìn con lớn lên từng bngày, cha mẹ càng yêu quý thêm mãnh đất của tổ tiên, ông bà đả để lại. Câu thơ bật thốt lên từ trái tim chứa chan tình cảm sâu nặng : “ người đồng mình yêu lắm con ơi!”. Nhà thơ tự hào về những người cúng sống trên mãnh đất quê hương đã nuôi dưỡng cho con mình nên vóc nên hình..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của đồng bào dân tộc được nhà thơ miêu tả như những hình ảnh trong thần thoại : “ Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát.” Các động từ “cài”, “ken” vửa diễn tả động tác lao động cụ thể, vừa nói lên sự hoà hợp, gắn bó giữa hiện thực và lãng mạng trong đời sống vật chất, tình thần cùa người vùng cao. Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan trúc, nan tre đều trở thành “ nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà được ken bằng “ câu hát”. Rừng núi quê hương đả che chở, nuôi đưỡng nhiều thế hệ trẻ về tâm hồn lẫn lối sông “Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng”. Rừng đâu chỉ cho chúng ta nhiều gỗ, lâm sản quý giá mà còn “ cho hoa”. Con đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà còn “ cho những tấm lòng” nhân hậu, bao dung, đó là con đường tình nghĩa. Với Y phương, con đường ấy là hình bóng thân thuộc của quê hương: con đường vào bản, con đường vào thung, ra rừng, ra sông, ra suối, là con đường đi học, con đường làm ăn hay cũng chính là con đường đi tới mọi chân trời, mọi miền đất nước. Sung sướng ôm con thơ vào lòng, nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ đả nghĩ về cuội nguồn hạnh phúc. “ Cha me mải nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” Chính quê hương đả tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu. “ Người đồng mình” không chỉ khéo léo về tình nghĩa và tài hoa mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp, đáng “ thương lắm con ơi”. Trong bao gian khổ, khó khăn thử thách, bao niềm vui, nỗi buồn trong cuộc đời trải dài theo năm tháng, bà con quê hương mình đã rèn luyện , hun đúc chí khí, đã “cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn”, nâng cao tâm thế đẹp. Câu thơ bốn chữ, nhưng đăng đối như tục ngữ, đúc kết một thái độ, một phương châmứng xử cao quý. Các từ ngữ “ cao đo” hay “ xa nuôi” đả thể hiện một bảng lĩnh sống đẹp của dân tộc Tày, của con người Việt Nam. Người cha tự hào về “người đồng mình” sống vất vả và mạnh mẽ, phóng khoáng, gắn bó sâu nặng với quê hương dẩu cực nhọc, đói nghèo. Người cha mong con chung thuỷ với quê hương, bết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chi, bằng niềm tin vững vàng: “Dầu làm sao thỉ cha củng muốn Sống trên đá khôg che đá gậo ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suôí Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc”. Nhuyễn vào lời thơ là những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, những thành ngữ dân gian. Điệp ngử “ sống” vang lên ba lần đã khẳng định một tâm thế, một bảng lĩnh, một dáng đứng … đều mà cha “vẫn muốn”, cha mong con, hy vọng ở con. Lời thơ giản dị mà chắc nịch, lay động thấm thía vào lòng người “ Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con” Để phản ánh bản chất gảin dị của người dân quê chân lấm tay bùn quanh năm, thì Y Phương cũng dùng cách nói cụ thể, hình ảnh chân thật “ thô sơ da thịt”. “ Người đồng.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> mình” môc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thề “thô sơ da thịt” nhưng “ không hề nhỏ bé” vầ tâm hồn, về khí phách. Từ đó để khẳng định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị, chất phác, không hề “ nhỏ bé” tầm thường trước thiên hạ. Họ mong ước xây dựng quê hương ngày cang tươi đẹp. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù đả tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục.” Người cha “ nói với con” cũng là khuyên con bài học đạo lý làm người, mong muốn con phải biết ơn và tự hào với dân tộc mình, quê hương mình, để đủ tự tin, đủ sức mạnh mà vững bước trên đường đời: “Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con” Lời cuối của người cha “ nói với con” càng trở nên tha thiết. Người cha đả nhắc con khi “ lên đường” không bao giở sống “ nhỏ bé” trước thiên hạ. Phải biết lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của người lao động. Người cha mong con có đủ sức mạnh, niềm tin để đối mặt với những khó khăn mà con sẽ phải gặp, mong cho con bằng long với những gì mình có để rồi từ đó biết vươn lên. Nhưng điều quan trong là phải sống sao cho chung thuỷ, có tình có nghĩa, trước sau như một. Không những thế, ngưòi cha còn dạy con phải luôn gắn bó với quê hương, tự hào về truyền thống của dân tộc và lấy nó là hành trang để bước vào cuộc đời. Những tình cảm chân thành ấy chắc hẳn xuất ra từ trong tận trái tim của người cha Chúng ta có thể tưởng tượng ra 1 hình ảnh cảm động đang diễn ra: Cha hiền yêu dấu âu yếm nhìn con, xoa đầu con, đứa con cúi đầu lắng nghe cha nói. Thật là một không khí gia đình ấm cúng tình cha con. Từ đó chúng ta có thễ thấy, Y Phương là một người rất yêu thương con và cũng là một người chung thuỷ với quê hương. Bài thơ có bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên, giọng điệu thiết tha, triều mến, thể hiện rõ nhất ở các câu thơ mang ngữ điệu cảm thán: “ Người đồng mình yêu lắm con ơi”, “ Người đồng mình thương lắm con ơi”, ở những lời tâm tình, dặn dò tha thiết: “ Dẫu sao thì cha vẫn muốn”, “ Chẳng mấy ai”, “ Con ơi”, “ Nghe con”… tác giả đã xây dựng hình tượng thơ vừa cụ thể vừa cò tính khái quát mộc mạc mà vẩn giàu chất thơ, mang đậm sắc thái hồn nhiên, chân thực và gợi cảm của nhà thơ ca miền núi. Đọc xong tác phẩm, đều đầu tiên khiến người đọc phải suy nghĩ đó là tình cảm thiêng liêng được thể hiện qua những câu thơ. Đối với tất cả chúng ta, gia đình là một tổ ấm, là nơi che chở, gói gém bao tình cảm yêu thương, là nơi nuôi dưỡng và dạy dỗ ta nên người. Trong mái nhà ấy, cha mẹ là người đầu tiên chứng kiến chúng ta lớn lên, dìu dắt ta vững bước. Va chúng ta phải biết kế thừa và phát huy đức tính tốt đẹp của dân tộc ta, phải tự hào truyền thống quê hương , tự tin trên đường đời và cố gắng vượt qua mọi sự cám đổ, thử thách đề xây đụng quê hương ngày càng tốt đẹp hơn. Bài thơ đả thể hiện được điều tâm huyết nhất mà ngưòi cha muốn truểyn lại cho con. Đó chính là lòng tự hào và sức sống mạnh mẽ, bề bỉ với truềyn thống tốt đẹp của quê hương và niềm tin vững chắc khi bước vào đời. Qua bài thơ, ngươi đọc cảm nhận được tình yêu thắm thiết của cha mẹ đồi với con cái nói chung và tinh yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ Y phương nói riêng. IV. Nghệ thuật đặc sắc.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> - Thể thơ tự do, mạch cảm xúc tự nhiên. Cách nói giàu hình ảnh vừa mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, cụ thể mà giàu sức khái quát - Các biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ kết hợp với những câu thơ ngắn dài khác góp phần không nhỏ vào việc diễn tả cuộc sống, cách suy nghĩ, cách thực hiện tình cảm của người miền núi - Giọng điệu tha thiết, trìu mến: lúc bay bổng, nhẹ nhàng, lúc khúc triết, rành rọt, lúc mạnh mẽ, sắc nhọn… tạo sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tình cảm khác trong lời người cha truyền thấm sang con - Bố cục chặt chẽ, từ ngữ giản dị, mộc mạc như lời nói thường ngày của người miền núi -> Y Phương thấu hiểu tất cả những điều đó nên ông đã lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc của người dân tộc. Cha nói với con – Vâng! Hay chính là lời trao gửi với thế hệ tiếp nối?.

<span class='text_page_counter'>(40)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×