Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Một số giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường THPT trên địa bàn thành phố tam kỳ, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.19 KB, 101 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC VINH

PHAN MINH ĐỊNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA
GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG THPT TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ TAM KỲ, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Vinh, năm 2010


2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”, và thực tiễn cách mạng nước ta hơn 75 năm qua đã chứng minh
điều đó .Chính vì vậy, trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng , Đảng ta
ln vận động , tập hợp mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng và phát
triển mọi mặt đời sống xã hội trong đó có giáo dục – đào tạo. Đặc biệt,
những năm gần đây, trong xu thế hội nhập với các nước tiên tiến trên thế
giới thì vấn đề đổi mới giáo dục lại được đặt ra một cách cấp thiết hơn bao
giờ hết. Quan điểm này cũng được thể hiện rõ trong thư gửi cán bộ, thầy
giáo, cô giáo, công nhân viên, học sinh nhân dịp đầu năm học mới, ngày


16 tháng 10 năm 1968 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng”. Thực chất,đây là chủ trương xã hội hóa giáo dục. Tinh
thần này chính thức trở thành phương châm hành động kể từ Hội nghị
Trung ương lần thứ tư khóa VII, năm 1993. Cũng từ đây, xã hội hóa giáo
dục trở thành một cuộc vận động rộng lớn trong toàn xã hội, vấn đề giáo
dục và đào tạo là vấn đề của tồn dân chứ khơng cịn của riêng ngành giáo
dục. Chủ trương XHHGD là một chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà
nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của xã hội. XHHGD cũng
chính là giải pháp mang ý nghĩa chiến lược của Đảng và nhà nước ta trong
lĩnh vực giáo dục nhằm thúc đẩy sự phát triển của tồn xã hội.
Cơng tác ở ngành Giáo dục & Đào tạo bậc THPT đã lâu năm, chúng
tôi nhận thấy rằng việc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục
THPT nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ trước đến nay đã được
quan tâm đúng mực. Công tác xã hội hóa giáo dục phát triển tương đối
mạnh; tuy nhiên, vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của mọi lực
lượng tham gia cơng tác giáo duc..Vì thế, cần nghiên cứu kĩ lưỡng để tìm


3

ra những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng, để từ
đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất góp phần thúc đẩy phong trào
phát triển nhanh, mạnh, rộng khắp. Nhận thấy tính ưu việt của công tác
XHHGD, nhận thấy tầm quan trọng của XHHGD đối với sự phát triển đi
lên của xã hội, đặc biệt là sự phát triển của xã hội trong giai đoạn hiện nay,
tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “ Một số giải pháp quản lý nâng cao hiệu
quả công tác XHHGD ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Tam Kỳ
tỉnh Quảng Nam” . Đề tài có ý nghĩa lí luận và thực tiễn, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động XHHGD trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam.

2. Mục đích nghiên cứu:

Đề xuất được các giải pháp quản lý khoa học, có tính khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động xã hội hóa giáo dục ở các trường THPT trên
địa bàn thành phố Tam Kỳ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lý cơng tác XHHGD ở các trường
THPT.
3.2. Đánh giá thực trạng XHHGD quản lý công tác XHHGD ở các
trường THPT thuộc thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
3.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả công tác
XHHGD ở các trường THPT.
3.4. Kiểm nghiệm tính đúng đắn và sự khả thi của những giải pháp quản
lý đưa ra áp dụng ở các trường THPT thuộc thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1 Đối tượng nghiên cứu:


4

Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác XHHGD ở các
trường THPT trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Quản lý công tác XHHGD ở trường THPT trên
địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
Sử dụng các văn bản luật, chỉ thị, nghị quyết của Đảng - Nhà nước và một
số tài liệu khoa học khác có liên quan.

5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Lập phiếu điều tra, trưng cầu ý kiến của cán bộ quản lí, giáo viên và học
sinh các trường THPT để thu thập những thơng tin chính xác, khách quan.
Phỏng vấn, trao đổi nắm bắt những số liệu từ thực tế của quá trình XHHGD ở
các trường THPT.
5.3. Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ:
Phương pháp thống kê tốn học nhằm xử lí, phân tích các số liệu thu thập
được.
6. Giả thuyết khoa học:
Nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý hợp lý, khoa học
thì sẽ nâng cao được hiệu quả cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các trường
THPT trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
7. Những đóng góp của đề tài:
Đề tài nghiên cứu thành cơng sẽ có những đóng góp thiết thực, cụ thể:
7.1. Đề tài góp phần nâng cao hơn nữa công tác XHHGD ở bậc phổ thông
trung học trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.
7.2. Phân tích đánh giá thực trạng, chỉ ra những ưu điểm để phát huy và
những tồn tại để khắc phục.


5

7.3. Đề xuất những giải pháp khoa học phù hợp với thực tế giáo dục trên
địa bàn thành phố Tam Kỳ nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung.
8. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục, các tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương chính sau:
Chương 1
Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2

Thực trạng các giải pháp quản lý công tác XHHGD ở các trường THPT trên
địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3:
Các giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả công tác XHHGD ở các
trườngTHPT trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Kết luận và kiến nghị
Danh mục các tài liệu tham khảo
Phụ lục


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nếu xét về bản chất thì xã hội hóa giáo dục khơng phải là vấn để hồn tồn
mới ở đất nước ta. Nó đã có nguồn gốc từ rất lâu cùng với truyền thống hiếu
học và tôn sư trọng đạo của dân tộc ta.
Dưới thời phong kiến và thuộc địa, trường học chỉ mở rất ít dành cho con
em các bậc vua chúa, quan lại, địa chủ, con cái nhà giàu nhằm phục vụ cho
giai cấp thống trị. Con em của tầng lớp nghèo khổ đều do nhân dân tự lo liệu
dưới hình thức trường tư do các thầy đồ mở hoặc do nhân dân tự tổ chức và
mời thầy dạy. Việc đóng góp ni thầy là hồn tồn tự nguyện, tùy theo khả
năng kinh tế mỗi gia đình.
Trong thời nhà Lý, các kỳ thi định kỳ được tổ chức để chọn người tài,
không phân biệt giàu nghèo và đẳng cấp xã hội. Người đỗ khoa bảng được cử
ra giúp dân, giúp nước. Nhân dân tơn vinh những người có học, đề cao những
người học thành tài bằng cách lập văn bia, văn miếu thờ các bậc tiền hiền,
danh nhân của địa phương và sẵn sàng đóng góp tiền của, cơng sức để rước vị
tân khoa “ vinh qui bái tổ” một cách long trọng. Ngồi ra, để khuyến khích

cho việc học, nhân dân đã có chế độ học điền (ruộng dành cho việc học).
Cách mạng tháng 8/1945 thành công, Đảng ta đã thực hiện các quan điểm
đường lối giáo dục. Đảng và Bác Hồ dã phát động phong trào tồn dân xóa
nạn mù chữ: “ Diệt giặc dốt” và sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ mở
đầu cho việc xây dựng nền giáo dục “ của dân, do dân và vì dân”, “Giáo dục
là sự nghiệp của quần chúng”, do đó phong trào học tập sôi nổi rộng khắp từ
thành thị đến nông thôn, người người đi học, nhà nhà đi học, đâu cũng là
trường, đâu cũng có thể là lớp học “ người biết chữ dạy cho người chưa biết
chữ, người biết chữ nhiều dạy cho người biết chữ ít” Tư tưởng giáo dục của


7

Bác Hồ “ ai cũng được học” mang lại hiệu quả giáo dục rất cao. Có thể khẳng
định rằng trong lịch sử giáo dục Việt Nam chưa bao giờ lại có sự xã hội hóa
rộng khắp và có hiệu quả như vậy.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng và nhân dân ta
ý thức sâu sắc lời dạy của Bác Hồ: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người” ngồi việc huy động sức dân sản xuất, đánh giặc còn
xây dựng một nền giáo dục “ của dân, do dân, vì dân” được xây dựng theo
nguyên tắc: “ dân tộc, khoa học, đại chúng” với nguyên lý: “giáo dục phục vụ
chính trị, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”; và với phương châm: “Học
đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tế”.[20]
Ngày 30/4/1975, đất nước hịa bình, thống nhất, chúng ta có điều kiện hơn
trong phát triển giáo dục, song do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nên chưa
phát huy được tiềm năng sẵn có để phát triển giáo dục, thay vì thực thi quản
lý giáo dục của Nhà nước, chúng ta đã hành chính hóa giáo dục, nhà nước hóa
giáo dục, làm cho giáo dục mất đi tính sáng tạo. Để khắc phục trình trạng
trên, năm 1981, Chính phủ đã ra quyết định số 124 về việc thành lập HĐGD
các cấp và Bộ GD&ĐT ra quyết định ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động

của HĐGD các cấp ở địa phương.
Ngày 15/12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đã mở ra một thời kỳ
mới cho giáo dục. Đại hội đã nêu rõ: “ Tổng kết kinh nghiệm thực hiện cải
cách giáo dục, điều chỉnh nâng cao chất lượng của cuộc cải cách này, phát
triển có kế hoạch hệ thống giáo dục, bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào
tạo”.[13]
Ngày 9/3/1989, Chính phủ đã ra nghị quyết : “ Giáo dục là một bộ phận của
kinh tế- xã hội, có vị trí hàng đầu trong chiến lược con người, phục vụ chiến
lược kinh tế- xã hội và quốc phịng. Do đó phải đầu tư cho giáo dục như đầu
tư cơ bản cho sản xuất.”[28]


8

Năm 1991,Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đổi mới quan trọng về
tư duy GD&ĐT. Nghị quyết nhấn mạnh: “ Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo
dục đào tạo, khoa học và cơng nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy
nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự nghiệp phát triển.”[27]
Trong văn kiện Đại hội Đảng VIII (năm1986) và trong chiến lược phát triển
giáo dục 2001-2010 khẳng định: “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu” để phát
triển nguồn nhân lực, nhằm đưa đất nước ta thốt khỏi nhóm nước chậm phát
triển, vươn lên trình độ tiên tiến trên thế giới.
Trong văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta cũng khẳng định xã hội hóa là một
trong những quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội. Hội
nghị lần II BCH TW khóa VIII tiếp tục nêu rõ: “ GD&ĐT là sự nghiệp của
Đảng, của Nhà nước và của toàn dân”. Nhà nước cần đầu tư cho giáo dục
nhưng vấn đề quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt các nguồn
đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng, phát triển tốt giáo dục trong nhân dân,
coi sự nghiệp giáo dục là của toàn xã hội.
Năm 1998, Quốc hội khóa X đã thơng qua luật giáo dục, đưa ra mục tiêu

giáo dục là: “ Đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc”[13].
Nghị định số 73/1999/ NĐ-CP của Chính phủ nêu rõ phương hướng và chủ
trương, chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong các
lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao. Năm 2001,văn kiện Đai hội Đảng lần thứ
IX tiếp tục “ tăng cường đầu tư cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước và đẩy
mạnh XHHGD” [8].


9

Thực hiện các văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, các cơ quan
liên bộ, các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục đã bàn nhiều về công tác
XHHGD.
Theo Giáo sư viện sĩ Phạm Minh Hạc: “ Xã hội hóa cơng tác giáo dục là
một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối chiến lược, một con
đường phát triển giáo dục của nước ta…Sự nghiệp giáo dục không chỉ là của
Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước và
xã hội, TW và địa phương cùng làm giáo dục”[15]
Theo Phạm Tất Dong: “ Trong thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam,
khái niệm XHHGD ngày càng được mở rộng và phong phú hơn. Đây không
phải là giải pháp tình thế nhằm tháo gỡ khó khăn của nước nghèo. Ngay khi
chúng ta đạt được mức tăng trưởng nhiều lần so với hiện nay thì tư tưởng
XHHGD vẫn giữ được giá trị chủ đạo cơ bản.”[23]
Các nhà nghiên cứu khác như GS-TSKH Nguyễn Duy Tuyên, TSKH
Nguyễn Mậu Bành, TS Huy Ất, TS Huy Ngân…có nhiều bài viết về xã hội
hóa. Viện khoa học giáo dục nước ta nhiều năm qua đã tiến hành hệ thống các
đề tài nghiên cứu về XHHGD, đúc kết kinh nghiệm để phát triển lý luận và đề

xuất chính sách nhằm hồn thiện nhận thức lý luận, ban hành một số văn bản
hướng dẫn các địa phương, các đơn vị giáo dục thực hiện và xây dựng những
đề án về công tác XHHGD.
Thời gian gần đây, dưới sự hướng dẫn của các nhà khoa học, các thầy cô
giáo trường ĐHSP Vinh, ĐHSP Hà Nội, Viện Khoa học Giáo dục, nhiều luận
văn thạc sĩ, luận văn tiến sĩ đã đề cập đến xã hội hóa và XHHGD ở nhiều khía
cạnh khác nhau.
Việc đa dạng hóa các nguồn lực để phát triển giáo dục khơng chỉ có ở nước
ta mà

rất nhiều nước trên thế giới đã quan tâm đến việc xây dựng và củng

cố các tổ chức nhằm phục vụ cho giáo dục với quan điểm coi con người là


10

trung tâm của sự phát triển .Các nước phát triển trên thế giới đều coi trọng
chích sách XHHGD, tạo cơ hội cho giáo dục phát triển và quan tâm đến hiệu
quả giáo dục.
Ngay từ năm 1947, Nhật Bản đã đặt giáo dục vào “ Vị trí hàng đầu của các
chính sách quốc gia”, Nhật Bản tích cực tiến hành cải tổ hệ thống giáo dục
nhằm tạo ra một hệ thống giáo dục mở với mục đích tạo cho các em học sinh
lòng ham học, tự chủ trong suy nghĩ, phát triển những năng lực khác nhau
nhằm tạo cơ hội thích hợp với nhu cầu học tập và nghề nghiệp của học sinh,
luôn dành cho địa phương và nhà trường quyền tự chủ.
Ở Trung Quốc, Đại hội VIII năm 1987, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng
định “ Kế hoạch lớn trăm năm, giáo dục là gốc mở đường cho việc huy động
tồn xã hội tham gia cơng tác giáo dục”[34].
Hàn Quốc hiện nay giáo dục đang phát triển mạnh mẽ , chính vai trị tư

nhân trong giáo dục là rất quan trọng về tính cơng bằng trong tiếp cận giáo
dục. Hàn Quốc tập trung các nguồn lực cộng đồng cho giáo dục dựa trên
nguồn lực của nhà nước kết hợp với nguồn lực tư nhân cho giáo dục bậc cao.
Ở Hoa kỳ, năm 1991 đã đưa ra một số chiến lược về phát triển giáo dục ,
toàn nước Mỹ sẽ xây dựng các cộng đồng tiến hành giáo dục ngoài phạm vi
nhà trường đến cuối năm 2010 , phải xóa bỏ các gương mặt cũ để xây dựng
nhà trường thế kỷ mới. Vị trí đặc biệt trong thiết kế nhà trường kiểu mới
thuộc về tập thể cộng đồng , giới doanh nghiệp và lao động . Nhà trường là
trung tâm đời sống cộng đồng . Học tập không chỉ ở nhà trường mà cịn ở gia
đình và xã hội. Tổng thống Bill Clintơn đã nhấn mạnh đến vấn đề hiện đại
hóa giáo dục , mục tiêu học tập suốt đời và đề cao việc học để đạt trình độ học
vấn cao. Để đạt được điều này , một trong những giải pháp quan trọng là nhà
nước thực hiện chủ trương đa dạng hóa các loại hình trường học : cơng lập –
tư thục nhằm đáp ứng chiến lược phát triển giáo dục dựa trên nền tảng công


11

nghệ thơng tin và xã hội tri thức để đón đầu sự phát triển của nền kinh tế Mỹ
thế kỷ XXI.
Như vậy, chúng ta thấy mỗi nước có đặc điểm riêng về tình hình kinh tế xã
hội nhưng đều có điểm chung trong phương thức XHHGD đó là huy động
mọi tiềm lực của cộng đồng cho giáo dục. XHHGD ở mỗi Quốc gia là sự lựa
chọn có tính chất quyết định cho các mơ hình phát triển riêng của mình.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài:
1. 2. 1. Giáo dục:
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt có tính lịch sử lâu đời và tồn tại
song song với sự phát triển của nhân loại, là một trong những lĩnh vực hoạt
động xã hội nhằm kế thừa, duy trì và phát triển nền văn hóa xã hội và văn
minh của nhân loại. Giáo dục có tính phổ biến và vĩnh hằng trong đời sống

loài người, là nhân tố quan trọng trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của
xã hội.
Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng: “Là một lĩnh vực của hoạt động xã hội nhằm
truyền đạt và lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và những kinh nghiệm xã
hội, lịch sử nhằm chuẩn bị cho con người bước vào cuộc sống lao động và sinh
hoạt xã hội; Là một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người, đảm bảo cho sự tồn
tại và phát triển của con người và xã hội” [20]
Giáo dục hiểu theo nghĩa hẹp: “Là q trình hoạt động có mục đích, có tổ
chức, có kế hoạch của thầy và trò, để sao cho dưới tác động của thầy học sinh
tự giác, tích cực và độc lập hình thành những quan điểm, niềm tin, định hướng
giá trị, lí tưởng xã hội chủ nghĩa, những động cơ thái độ, kĩ năng, kĩ xảo và
các thói quen của các hành vi đúng đắn trong các quan hệ chính trị, đạo đức,
pháp luật… thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội”[ 29]
Như vậy, giáo dục là điều kiện để con người gắn bó với nhau một cách có
hiệu quả theo mục tiêu đổi mới điều kiện sinh tồn, vì hành động của bất kì cá


12

nhân nào cũng bị chi phối do khả năng và kinh nghiệm của người đó. Nhờ có
giáo dục mà kết quả những đạt được của các thế hệ đi trước được truyền lại
cho các thế hệ sau rồi cứ thế tích lũy ngày càng phong phú. Nhờ có giáo dục
mỗi cá nhân hòa nhập được vào cộng đồng. Giáo dục là con đường cơ bản để
loài người tồn tại và phát triển.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con
người trên trái đất. Có con người là có giáo dục. Khơng có xã hội nào có thể
tồn tại mà khơng có giáo dục, mọi sự giáo dục đều nhằm mục đích phục vụ
cho sự phát triển đi lên của xã hội. Bởi vậy, mỗi quốc gia đều quan tâm đến
việc đổi mới nền giáo dục của mình để cho phù hợp và đáp ứng nhu cầu của
xã hội phát triển.Thế giới ngày nay coi giáo dục là con đường cơ bản để khỏi

tụt hậu, để có thể tiến lên ở tầm cao mới. Đặc biệt, “ Giáo dục là khâu cực kì
quan trọng trong quy trình từ khoa học đến sản xuất, nhất là trong thời đại
cơng nghiệp hóa.” [36].
Đảng và nhà nước ta coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là điều
kiện tiên quyết để phát triển nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để xã
hội phát triển nhanh và bền vững, giáo dục vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị.
Giáo dục được coi là “then chốt” của mọi vấn đề. Chiến lược giáo dục là
tiêu điểm của chiến lược kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị. Mọi chiến lược về
con người, về nguồn nhân lực, về khoa học kĩ thuật, về chấn hưng văn hóa,
xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, quốc phòng an ninh…đều xuất phát từ
chiến lược giáo dục. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “ Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu”, Người đã kêu gọi “ Phải biến dân tộc ta thành một dân tộc
thông thái”, và “ Ai cũng được học hành” “ Cơng nơng trí thức hóa”[20].
Trong thư gửi các cháu học sinh nhân dịp khai trường Bác cũng đã căn dặn:
Non sơng Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay


13

khơng chính là nhờ cơng lao học tập của các cháu. Điều đó chứng minh vai
trị của giáo dục là hết sức quan trọng. Nhà triết học giáo dục Australia từng
nói “Giáo dục là cầu nối từ chỗ khơng có gì đến chỗ cái gì cũng có”.
1.2.2 Quản lý:
Quản lý là gì? Có nhiều ý kiến khác nhau, có người cho rằng quản lý là cai
quản,điều hành, điều khiển, chỉ huy, hướng dẫn,…Frederics William Taylor
người Mĩ cho rằng: “ Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần
phải làm và làm cái gì đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất”
[16, 89]. Các Mác cũng đã khẳng định: “ Bất cứ lao động xã hội hay cộng
đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần ở chừng

mực nhất định đến sự quản lý. Quản lí là xác lập sự tương hợp giữa các công
việc cá nhân và hình thành những chức năng chung, xuất hiện trong tồn bộ
cơ chế sản xuất, khác với sự vận động của bộ phận riêng lẻ của nó” [39, 199]
PGS TS Đặng Quốc Bảo quan niệm rằng: “ Quản lý về bản chất bao gồm
quá trình “ quản” và quá trình “ lý” . Quản là coi sóc, giữ gìn nhằm ổn định hệ
thống. Lý là thanh lý, xử lý, biện lý, sửa sang, chỉnh đốn nhàm làm cho hệ
thống phát triển.
- Hệ ổn định mà không phát triển tất yếu dẫn đến suy thoái.
- Hệ phát triển mà thiếu ổn định tất yếu dẫn đến rối ren.
- Như vậy: quản lý = ổn định + phát triển.
Trong “quản lý” phải có mầm mống của “lý” và trong “lý” phải có hạt nhân
của “quản”. Điều này tạo ra mối quan hệ hiện thực : Ổn định đi tới sự phát
triển, phát triển trong thế ổn định” [2, 176].
Quan niệm của chúng tôi về quản lý như sau: Quản lý là sự tác động có định
hướng , có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ
chức , nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt kết quả cao bằng cách vận dụng


14

các hoạt động chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo , kiểm tra thực hiện
đầy đủ các chức năng của mình , hoạt động quản lý sẽ đem lại hiệu quả cao.
1.2.3. Quản lý giáo dục:
Vấn đề quản lý giáo dục là vấn đề mà từ trước đến nay được nhiều học giả
quan tâm nghiên cứu, đưa ra các khái niệm về nó.
M. I. Khơnđacơp đã định nghĩa : “ Quản lý giáo dục là tập hợp các biện
pháp ( Tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính…) nhằm đảm bảo sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự
tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng cũng như chất
lượng”[37].

PGS. TS Đặng Quốc Bảo cũng nêu quan điểm : Quản lý giáo dục theo
nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành , phối hợp của các lực lượng xã hội
nhằm thúc đẩy công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. [2]
GS Nguyễn Ngọc Quang cho rằng : “Quản lý giáo dục là hệ thống những
tác động có mục đích , có kế hoạch , hợp quy luật của các chủ thể quản lý,
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo
dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất. Quản lý giáo dục là
sự tác động của hệ thống quản lý giáo dục của nhà nước từ trung ương đến địa
phương , đến khách thể quản lý và hệ thống giáo dục quốc dân cũng như sự
nghiệp giáo dục của mỗi địa phương nhằm đưa hoạt động giáo dục đến kết
quả mong muốn”[31].
Từ nhận biết về quản lý nói chung và những quan niệm về quản lý giáo
dục của các nhà khoa học , các nhà nghiên cứu …chúng ta có thể quan niệm:
Quản lý giáo dục là một hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch,
nhằm đạt được những mục tiêu giáo dục đề ra.


15

1.2.4. Xã hội hóa:
Xã hội hóa là một thuật ngữ dùng để chỉ chức năng nguyên thủy của giáo
dục , được các nhà xã hội học sử dụng để mô tả những phương cách , các giá
trị , và vai trò mà xã hội đã quy ước , tạo cơ sở cho quá trình hình thành và
phát triển nhân cách con người.
Emile Durkheim ( 1858 – 1917) nhà xã hội học Pháp , một trong số rất ít
người sử dụng thuật ngữ “ Xã hội hóa” đã nêu : “ Giáo dục vừa có chức năng
phân hóa vừa có chức năng xã hội hóa”[7] .
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách hiểu và định nghĩa về XHH :

- Xã hội hóa là q trình tương tác giữa cá nhân và xã hội.
- Xã hội hóa là sự tương tác , mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con
người , của cộng đồng nhằm đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã
hội.
-

Theo từ điển Tiếng Việt “ Xã hội hóa được hiểu là làm cho một việc gì,

một cái gì đó thành của chung xã hội”.[ 29]
Ở Việt Nam, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam có những chủ trương cải
cách tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì thuật ngữ XHH được sử dụng khá rộng rãi
trong các văn kiện , hội nghị , hội thảo. Tuy nhiên , công tác XHH còn khá
mới mẻ đối với chúng ta , nhất là những nhà quản lí giáo dục trong thời đại
mới cần phải nhận thức đầy đủ , đúng đắn .
TS Lê Quốc Hùng cho rằng: “ Xã hội hóa là việc nhà nước huy động mọi
cá nhân và tổ chức tham gia thực hiện một số dịch vụ công cộng trên cơ sở có
sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhà nước , nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước” [31].
Nhiều cơng trình nghiên cứu về XHH cũng nhận định : “ Bản chất của
XHH là cách làm , cách thực hiện chủ trương , đường lối của Đảng bằng con


16

đường tự giác ngộ , huy động và tổ chức sự tham gia của mọi người dân , mọi
lực lượng xã hội ; tạo ra sự phối hợp liên ngành một cách có kế hoạch dưới sự
chỉ đạo và quản lí thống nhất của nhà nước , làm cho việc giải quyết các vấn
đề xã hội thực sự là của dân , do dân và vì dân” [15].
Chúng ta cần nhận thức đầy đủ về XHH để từ đó có những hành động

đúng đắn và thiết thực. XHH thực chất là tăng cường sự quản lí của nhà nước
bằng pháp luật. XHH gắn liền với mở rộng dân chủ , khắc phục dần tính thụ
động , thờ ơ , phó mặc cho nhà nước. XHH là làm sao phải thu hút mọi tổ
chức trong xã hội , mọi thành phần kinh tế tham gia thực hiện các dự án phát
triển của nhà nước.
Nhà nước Việt Nam đã tiến hành XHH theo các bước sau :
Xóa bỏ dần chế độ bao cấp, cơ chế xin- cho.

-

- Tách dần hoạt động quản lí kinh doanh khỏi hoạt động quản lí hành
chính của các cơ quan chức năng nhà nước.
- Không ngừng củng cố dịch vụ công và thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở.
Tất cả những điểm trên thể hiện khá đầy đủ về nội dung , vai trò và ý nghĩa
của hoạt động xã hội hóa .
1.3. Xã hội hóa giáo dục:
1.3.1. Khái niệm xã hội hóa giáo dục:
Lịch sử phát triển loài người gắn liền với giáo dục. Giáo dục xuất hiện
trong cộng đồng xã hội nhằm truyền thụ kinh nghiệm lao động sản xuất. Khi
xã hội phát triển, giáo được tổ chức thành một q trình hoạt động có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền thụ cho lớp người kế tục những tri
thức về tự nhiên, xã hội, để con người có khả năng hịa nhập cộng đồng xã
hội.


17

Như vậy, giáo dục là q trình tác động có định hướng lên ý thức và thể
chất nhằm phát triển nhân cách chuẩn bị cho từng cá nhân hòa nhập cuộc

sống sản xuất, văn hóa của cộng đồng xã hội. Giáo dục là kết quả một hệ
thống tri thức, kỹ năng, thói quen và thái độ tạo cho con người nhận thức và
hành động phù hợp với quyền lợi và nghĩa vụ của một thành viên trong cộng
đồng. Chính giáo dục là hiện tượng Nhà nước- Xã hội và Nhà trường là thiết
chế Nhà nước- Xã hội.
Giáo dục mang bản chất xã hội, là một trong những chất kết dính cộng
đồng. giáo dục là động lực phát triển kinh tế xã hội và ngược lại, sự phát triển
của giáo dục không thể tách rời sự phát triển của cộng đồng và sự phát triển
kinh tế xã hội. Nói chung, sự gắn bó giữa giáo dục và cộng đồng là sự gắn bó
mật thiết, hữu cơ.
Thực tiễn một số nước tiên tiến trên thế giới đã chăm lo rất nhiều cho nhà
trường, nhiều vấn đề thực tế của cuộc sống đã đề cập ở nhiều môn xã hội
nhân văn. Luật giáo dục cuối thế kỷ 20 của Pháp, Nhật cũng như chiến lược
giáo dục của Mỹ đều có vấn đề XHHGD.
Tóm lại, xã hội hóa giáo dục “ là huy động xã hội làm giáo dục, động viên
mọi tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản
lý của nhà nước”.[34]
XHHGD là tư tưởng chiến lược giáo dục ở nước ta: “ các vấn đề chính
sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trị
nịng cốt, đồng thời động viên mọi người dân, các doanh nghiệp các tổ chức xã
hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những
vấn đề xã hội”[34]
Tư tưởng chỉ đạo nhằm XHHGD đã có sớm. Từ lâu, Bác Hồ và Đảng ta đã
đúc kết và phổ biến phương châm: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”,
“ Nhà nước và nhân dân cùng làm giáo dục”. Nguyên lý “ Nhà trường- gia


18

đình- xã hội” đã phổ biến đến các cấp ủy đảng, chính quyền và tồn dân thực

hiện.[25]
Đặc biệt, Hội nghị BCH TƯ lần 4 khóa VII tháng 1/1993 đã khẳng định
XHHGD là một trong những định hướng cơ bản đổi mới sự nghiệp giáo dục
đào tạo. Hội nghị BCH TƯ lần 2 khóa VIII tháng 12/1996 tiếp tục khẳng định
XHHGD là một trong những giải pháp chủ yếu thực hiện chiến lược giáo dục
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
XHHGD là tư tưởng chiến lược của Đảng nhằm huy động sức mạnh toàn
xã hội phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội.
1.3.2. Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục:
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: “ Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành,
phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
nhu cầu phát triển xã hội”
Với quan niệm quản lý vĩ mô “ Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt
xích của hệ thống nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát
triển giáo dục, tào tạo thế hệ trẻ của xã hội đặt ra cho người giáo dục” (24,5).
Xét từ phương diện quản lý giáo dục theo hướng xã hội hóa thí có thể hiểu
đây chính là quản lý xã hội hóa giáo dục.
Quản lý công tác XHHGD được hiểu là hệ thống những tác động có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, hợp với quy luật của chủ thể quản lý đến các lực
lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và có
hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục địi hỏi phương pháp mềm dẻo, linh
hoạt, tạo được những phong trào, định hướng được phong trào, phát huy dân
chủ trong nhân dân, tăng cường nguồn lực của xã hội và cộng đồng nhằm


19


thực hiện mục tiêu giáo dục: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài”.
Quản lý công tác XHHGD khơng hồn tồn là cơng việc của ngành
GD&ĐT. Với chức năng của mình, ngành GD&ĐT chủ yếu làm cơng tác
tham mưu, vận động tuyên truyền để xã hội nhận thức đầy đủ hơn về giáo
dục, chia sẻ khó khăn với giáo dục, cộng đồng trách nhiệm và tham gia vào
quá trình phát triển GD&ĐT, trực tiếp chỉ đạo và quản lý hoạt động xã hội
hóa trong các nhà trường để giúp cho công tác XHHGD đi đúng hướng và đạt
được kết quả cao.
1.3.3. Mục tiêu của xã hội hóa giáo dục:
Mục tiêu cơ bản của XHHGD được khẳng định tại nghị quyết TW 4 khóa
VII và nghị quyết TW 2 khóa VIII : “ XHHGD là huy động xã hội làm giáo
dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân
dưới sự quản lý của Nhà nước”[28]. Mục tiêu XHHGD được thể hiện qua
những vấn đề cơ bản sau:
* Phải làm cho xã hội nhận thức đúng đắn vai trò của GD&ĐT trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước, cũng như trong quá trình phát triển KTXH của mỗi địa phương và tồn cộng đồng. Qua đó hình thành hệ tư tưởng xã
hội về GD&ĐT theo quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước,
đó là “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
phát triển”[25]
* XHHGD là tạo nhiều nguồn lực cùng tham gia xây dựng, huy động các
lực lượng của cộng đồng xã hội làm giáo dục, tạo môi trường cho bản chất xã
hội của giáo dục phát huy tối đa vai trị của mình, làm cho giáo dục đáp ứng
có hiệu quả nhu cầu thực tế của xã hội, gắn với xã hội, khơng thốt ly ra khỏi
cuộc sống. Tất cả mọi việc làm của các tổ chức chính trị, kinh tế xã hội, các
cơ quan đồn thể, các tầng lớp nhân dân có tác động thiết thực đến mục tiêu: “


20


Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đều được coi là góp
phần thực hiện XHHGD.
* XHHGD chính là chủ trương và giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
cuộc vận động dân chủ hóa GD là “ Thực hiện nền giáo dục của dân, do dân
và vì dân”. Mối quan hệ giữa dân chủ hóa giáo dục và XHHGD có thể diễn
đạt là “ XHHGD là con đường để thực hiện dân chủ hóa giáo dục và nội dung
DCHGD chỉ ra con đường XHHGD”.[4]
1.4. Xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam:
1.4.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về XHHGD
Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
sắc lệnh 146/SL khẳng định rằng “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Bác
kêu gọi “ Toàn dân tham gia diệt giặc dốt”. Bác xác định nguyên tắc cơ bản
của nền giáo dục nước nhà là “ Đại chúng hóa, dân tộc hóa, khoa học hóa và
tơn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân chủ”
Ở Việt Nam, tư tưởng chỉ đạo và các hoạt động nhằm XHHGD đã có khá
sớm. Từ lâu, Bác Hồ và Đảng ta đã đúc kết và phổ biến phương châm: “ Nhà
nước và nhân dân cùng làm giáo dục” Nguyên lý kết hợp “ Nhà trường – gia
đình – xã hội” đã phổ biến đến các cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn dân
thực hiện. Trong những năm 60 và đầu thập kỷ 70 các xã Cẩm Bình – Hà
Tĩnh, xã Cát Hanh – Nghĩa Bình, xã Ngơ Lng – Hịa Bình … là những đơn
vị điển hình về XHHGD. Nhưng do nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp,
trách nhiệm của gia đình, xã hội trong giáo dục học sinh chưa xác định đầy
đủ, thiếu cơ chế thực hiện chủ trương “ Nhà nước và nhân dân cùng làm giáo
dục” quan hệ giáo dục – kinh tế chưa được hiểu đầy đủ, việc giáo dục gần như
phó thác cho nhà trường.
Để thực hiện sự phối hợp Nhà trường – gia đình – xã hội, đã có nhiều văn
bản chỉ đạo quan trọng và nhiều hội nghị được tổ chức:


21


- 19/3/1982, Hội đồng chính phủ ra quyết định số 124/ CP về việc thành lập
Hội đồng giáo dục ở các cấp chính quyền địa phương.
- 09/12/1981 Bộ trưởng GD ra quyết định số 1765/ QĐ ban hành điều lệ tổ
chức và hoạt động của hội đồng GD của các cấp chính quyền địa phương.
- Tháng 1/1989, BGD tổ chức Hội nghị mơ hình phát triển GD gắn với KT
– XH ở các tỉnh phía Nam tại thành phố HCM.
- Tháng 7/1989 , Bộ giáo dục và Cơng đồn giáo dục Việt Nam mở cuộc
vận động dân chủ hóa quản lý nhà trường theo hướng tự quản xã hội chủ
nghĩa tại Nha Trang.
- Ngày 10/10/1990 , Bộ giáo dục và Cơng đồn giáo dục Việt Nam ra thơng
tư liên tịch số 35/TT/LĐ về việc tham mưu mở đại hội giáo dục cấp cơ sở.
- Tháng 1/1992, Bộ giáo dục và Cơng đồn giáo dục Việt Nam mở hội thảo
đại hội giáo dục cấp cơ sở tại Hà Nội – Tháng 3/1992 mở tại thành phố Hồ
Chí Minh cho khu vực phái Nam.
Đặc biệt, Hội nghị BCH TW lần 4 khóa VII tháng 1/1993 đã khẳng định
xã hội hóa giáo dục là một trong những định hướng cơ bản đổi mới sự nghiệp
giáo dục đào tạo. Hội nghị BCH TW lần 2 khóa VIII tháng 12/1996 tiếp tục
khẳng định “ Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân
dân giúp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước”.
XHHGD là một trong những giải pháp chủ yếu thực hiện chiến lược giáo dục
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Ngày 21/8/1997, Chính phủ đã ra nghị quyết số 90/CP về phương hướng và
chủ trương “ xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa”. Điều 11 về
XHHGD của Luật GD ghi rõ: “ Mọi tổ chức gia đình và cơng dân đều có
trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi
trường giáo dục lành mạnh, phối hợp nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục.


22


Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện
đa dạng hóa các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích
huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp
giáo dục”( 10-12)
Như vậy, XHHGD là tư tưởng chiến lược của Đảng nhằm huy động sức
mạnh toàn xã hội, phát triển giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội.
1.4.2. Nội dung cơng tác xã hội hóa giáo dục.
1.4.2.1. Giáo dục hóa xã hội:
Đây là nội dung cơ bản của XHHGD nhằm tạo phong trào học tập sâu rộng
trong toàn xã hội theo nhiều hình thức; vận động tồn dân thực hiện học tập
thường xuyên, suốt đời, tiến tới xây dựng xã hội học tập đúng như Nghị quyêt
Đại hội IX đề ra: “ Ai cũng được học hành. Hoạt động và học tập cho đến
phút cuối cùng”. “ Thực hiện giáo dục cho mọi người. Cả nước trở thành một
xã hội học tập…hoàn thiện học vấn và tay nghề, thực hiện tri thức hóa cơng
nhân…Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã
hôi”.[12]
1.4.2.2. Cộng đồng hóa trách nhiệm: Huy động tồn xã hội tham gia xây
dựng môi trường thuận lợi cho giáo dục, tham gia vào quá trình giáo dục,
tham gia xây dựng mơi trường giáo dục lành mạnh bảo đảm tích tích cực của
môi trường xã hội và sự thống nhất tác động mang tính giáo dục đối với thế
hệ trẻ.
Xây dựng các mơi trường nhà trường, gia đình, xã hội và phối hợp chặt
chẽ giữa các mơi trường đó để tạo sự thống nhất tác động giáo dục.
- Xây dựng môi trường nhà trường: Nhà trường là mơi trường chính
yếu để giáo dục con người, vì vậy các lực lượng xã hội chăm lo xây dựng nhà
trường từ cơ sở hạ tầng, nề nếp, kỷ cương, cảnh quan sư phạm nhà trường…



23

đặc biệt là xây dựng mối quan hệ lành mạnh giữa con người với con người,
những quan hệ xã hội tốt đẹp nhằm xây dựng những nét bản chất nhất trong
đạo đức, trong nhân cách trẻ.
- Xây dựng môi trường gia đình: Gia đình có vai trị quan trọng đặc biệt
trong giáo dục, vì thế các lực lượng chăm lo cho giáo dục thì phải lo xây dựng
mơi trường gia đình của học sinh.
- Xây dựng mơi trường xã hội tích cực: Xây dựng các mơi trường như
cộng đồng thơn xóm, đường phố, tạo ra lối sống lành mạnh, văn minh, công
bằng, dân chủ và đề cao các giá trị xã hội chân chính.
Nói chung, trong XHHGD ở từng nơi, từng lúc, mỗi cá nhân có thể là người
giáo dục, hoặc người được giáo dục và thông qua các hoạt động, mỗi người
đều tự giáo dục, tự điều chỉnh mình.
1.4.2.3. Đa dạng hóa loại hình: Tạo điều kiện cho các tổ chức cá nhân có
điều kiện tham gia trực tiếp vào các hoạt động giáo dục, huy động các lực
lượng xã hội tham gia q trình đa dạng hóa các hình thức học tập và các loại
hình trường lớp.
Mục tiêu chiến lược giai đoạn 2009- 2020 là phải xây dựng một nền giáo
dục Việt Nam hiện đại khoa học, dân tộc, làm nền tảng cho sự nghiệp CNHHĐH phát triển bền vững đất nước, thích ứng với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là u cầu về nhân lực, về trình độ văn hóa,
khoa học, kỷ thuật, về khả năng ngành nghề, sự năng động thích nghi với sự
hình thành nghề và di chuyển ngành nghề cũng như năng lực ứng xử trong
các quan hệ xã hội…điều đó dẫn đến yêu cầu học suốt đời bằng những hình
thức thích hợp. Sự nghiệp giáo dục cũng phải thích ứng với những địi hỏi đó,
mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng, hiệu quả, thực hiện mục tiêu dân trí,
nhân lực, nhân tài. Chính vì vậy phải dẫn đến đa dạng hóa các hình thức học
tập và các loại hình trường lớp. Sự đa dạng hóa được thể hiện:



24

- Trường công lập cũng thực hiện sự đa dạng hóa với sự hợp tác của các lực
lượng xã hội từ phương thức đào tạo, hình thức tổ chức cho đến nội dung,
phương pháp, các điều kiện, phương tiện, các nguồn đầu tư cho đến việc
quản lý giáo dục.
- Song song với trường công, các lực lượng xã hội phải tham gia phát triển
hệ thống trường bán công, dân lập và tư thục, trung tâm dạy nghề ở các
Quận, Huyện, Thị xã…
- Để thể hiện tính liên ngành và tính cộng đồng trong XHHGD, ngành giáo
dục phải kết hợp với các trung tâm KT tổng hợp, HN và DN, các trung tâm
GDTX tổ chức các lớp học ở địa phương và người học đóng góp.
-

1.4.2.4 Cộng đồng hóa nguồn lực: Huy động xã hội tham gia xây dựng
và phát triển nhà trường, khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của xã hội cho giáo dục. Nhà nước là nguồn chủ yếu nhưng cần
tìm thêm các nguồn kinh phí trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ
chức quốc tế, các nước ngoài, bên cạnh đó cần phải huy động sự đóng góp
của cha mẹ học sinh và các tổ chức kinh doanh để phát triển giáo dục đúng
như văn kiện lần 4 BCH TW khóa VII “ Mặt trận tổ quốc, các đồn thể
nhân dân các tổ chức xã hội, mọi gia đình và mọi người cùng với ngành
giáo dục đào tạo chăm lo sự nghiệp giáo dục theo phương châm nhà nước
và nhân dân cùng làm”. Cụ thể là xây dựng môi trường nhà trường, gia
đình xã hội và sự phối hợp chặt chẽ giữa các mơi trường đó để tạo sự
thống nhất tác động giáo dục nhằm làm cho môi trường giáo dục lành
mạnh, tạo điều kiện để toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục.
1.4.2.5. Thể chế hóa chủ trương:
Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho việc xây dựng các chủ trương


XHHGD. Nhà nước phải xây dựng và khơng ngừng hồn thiện hệ thống pháp
luật đầy đủ, minh bạch nhằm đảm bảo trách nhiệm, quyền lợi, tính cơng bằng


25

dân chủ và công khai trong hoạt động giáo dục. Theo Nghị định số 90/CP đã
được cụ thể hóa bằng Nghị định số 73/1999/NĐ-CP qui định cụ thể chính
sách khuyến khích các cơ sở ngồi cơng lập về các mặt: cơ sở vật chất, đất
đai, thuế, tín dụng, bảo hiểm, khen thưởng, phong tặng danh hiệu, ngồi ra
cịn qui định cụ thể về quản lý tài chính và quản lý Nhà nước đối với các
trường ngồi cơng lập, đó là mọi tổ chức, cá nhân được tự do tham gia
XHHGD và Nhà nước chỉ can thiệp khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật nhằm
tránh các cách làm tùy tiện, lợi dụng dẫn đến những vi phạm trong việc huy
động các nguồn lực về tài chính trong việc phục vụ cho giáo dục và đào tạo.
1.4.3. Nguyên tắc quản lý công tác XHHGD bậc trung học phổ thông
XHHGD là chủ trương chiến lược quan trọng của Đảng, Nhà nước nhằm
phấn đấu xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại. Muốn thực hiện
quản lý công tác XHHGD, phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Phải đảm bảo dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong
quá trình hoạt động phát triển giáo dục. Đảng đề ra đường lối chủ trương phát
triển KT- XH. Nhà nước thể chế hóa chủ trương đường lối thành chính sách
pháp luật. Trường học là cơ quan chuyên môn căn cứ vào những qui định của
Đảng, Nhà nước về hoạt động XHHGD thực hiện phương án, kế hoạch và qua
đó tham mưu, đề xuất với Đảng và chính quyền địa phương thực hiện chủ
trương XHHGD.
- XHHGD phải đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo
nguyên tắc “ lấy dân làm gốc” được Đảng và Nhà nước phát huy ngày càng
hiệu quả, quan điểm “ dân biết, dân bàn, dân làm dân kiểm tra” phải được
thực hiện, qua đó sẽ xây dựng được mơi trường giáo dục lành mạnh, tạo động

lực cho giáo dục phát triển.
- XHHGD phải đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa. XHHGD là huy
động tồn xã hội đóng góp tài lực, vật chất thực hiện đa dạng hóa các nguồn


×