ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o
DƢƠNG NGỌC MAI
NHẬN THỨC, NHU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN LỰA CHỌN TRƢỜNG CAO ĐẲNG – ĐẠI HỌC CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp tại trường trung học phổ thông
Việt Yên 1- Bắc Giang)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Xã hội học
HàNội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o
DƢƠNG NGỌC MAI
NHẬN THỨC, NHU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
LỰA CHỌN TRƢỜNG CAO ĐẲNG – ĐẠI HỌC CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp tại trường trung học phổ thông
Việt Yên 1- Bắc Giang)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Xã hội học
Mã số : 60 31 30
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà
HàNội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ của tôi được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi
đã được sự giúp đỡ rất nhiều của các thầy cô, các bạn sinh viên và gia đình.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới:
Các thầy cô giáo Khoa Xã hội học Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn – ĐH Quốc gia Hà Nội đã truyền đạt cho tôi có những tri thức để thực
hiện đề tài này.
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà là người trực tiếp hướng dẫn tôi ngay từ lúc ban
đầu cũng như trong suốt quá trình thu thập thông tin và hoàn thiện báo cáo nghiên
cứu này.
Gia đình và bạn bè cùng lớp cao học Xã hội học khoá 2010-2013 đã có
nhiều động viên, góp ý chân thành cũng như những thông tin quý giá trong quá
trình học tập và thực hiện đề tài.
Ban giám hiệu, cùng các thầy cô giáo, phụ huynh, các em học sinh khối lớp
12 trường THPT Việt Yên 1 – Bắc Giang đã nhiệt tình phối hợp và giúp tôi trong
quá trình thu thập thông tin tại trường để nghiên cứu thu được kết quả tốt.
Ngƣời thực hiện
Học viên
Dương Ngọc Mai
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 7
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 15
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 16
6. Câu hỏi nghiên cứu 16
7. Giả thuyết nghiên cứu 16
8. Phương pháp nghiên cứu 17
9. Khung lý thuyết 19
NỘI DUNG CHÍNH 20
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 20
1.1 Các khái niệm công cụ 20
1.1.1 Khái niệm nhận thức 20
1.1.2 Khái niệm nhu cầu 20
1.1.3 Khái niệm lựa chọn 21
1.1.4 Khái niệm định hướng 22
1.1.5 Khái niệm nghề nghiệp 22
2.1 Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu cho đề tài 23
2.1.1 Lý thuyết lựa chọn hợp lý 23
2.1.2 Lý thuyết hành động xã hội 24
2.1.3 Lý thuyết xã hội hoá 25
1.3 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 28
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC, NHU CẦU TRONG VIỆC LỰA
CHỌN TRƢỜNG CAO ĐẲNG - ĐẠI HỌC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG 30
2.1 Nhận thức của học sinh trung học phổ thông về vấn đề lựa chọn trƣờng
cao đẳng, đại học 30
2
2.1.1 Nhận thức của học sinh về sự cần thiết xác định trường dự thi cao đẳng,
đại học 30
2.1.2 Thời điểm học sinh suy nghĩ về việc lựa chọn trường cao đẳng, đại học . 32
2.1.3. Tự đánh giá về cơ hội, khả năng thi đỗ cao đẳng, đại học của học sinh
trung học phổ thông 34
2.2 Thực trạng lựa chọn trƣờng thi cao đẳng, đại học của học sinh trung học
phổ thông 39
2.2.1 Các dự định chính của học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông . 39
2.2.2 Dự định lựa chọn nhóm trường cao đẳng, đại học của học sinh sau
khi tốt nghiệp trung học phổ thông 41
2.3 Một số nhu cầu chính của học sinh trung học phổ thông trong việc
lựa chọn trƣờng thi cao đẳng, đại học 44
2.3.1 Nhu cầu luyện thi cao đẳng, đại học của học sinh trung học phổ thông 44
2.3.2 Nhu cầu tìm hiểu thông tin thi cao đẳng, đại học của học sinh trung học
phổ thông 46
2.3.3 Nhu cầu về các hoạt động hướng nghiệp và cung cấp thông tin phục vụ
mục đích lựa chọn trường thi cao đẳng, đại học của học sinh trung học phổ
thông 48
CHƢƠNG 3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TRONG VIỆC LỰA CHỌN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG - ĐẠI HỌC CỦA HỌC SINH THPT HIỆN NAY 51
3.1 Nhân tố chủ quan 51
3.1.1 Những lý do lựa chọn trường thi cao đẳng, đại học của học sinh 51
3.1.2 Khác biệt giới trong lựa chọn nhóm trường cao đẳng, đại học 56
3.1.3 Khác biệt về lực học trong lựa chọn nhóm trường cao đẳng, đại học
của học sinh trung học phổ thông 60
3.2 Nhân tố khách quan 63
3.2.1 Ảnh hưởng của gia đình đến lựa chọn trường cao đẳng, đại học của học
sinh trung học phổ thông 63
3.2.2 Ảnh hưởng của bạn bè tác động đến lựa chọn trường cao đẳng, đại học
của học sinh trung học phổ thông 69
3.2.3 Ảnh hưởng của hướng nghiệp trong nhà trường đến lựa chọn trường cao
đẳng, đại học của học sinh trung học phổ thông 71
3
3.2.4 Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến lựa chọn trường cao đẳng, đại
học của học sinh trung học phổ thông 75
3.2.5 Ảnh hưởng đặc điểm của trường cao đẳng, đại học 77
3.2.6 Đánh giá của học sinh trung học phổ thông về các “kênh” tác động
đến lựa chọn trường cao đẳng, đại học 79
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG
CĐ
Cao đẳng
CNTT
Công nghệ thông tin
ĐH
Đại học
GD&ĐT
Giáo dục và đào tạo
GDHN
Giáo dục hướng nghiệp
HS
Học sinh
KHXH
Khoa học xã hội
LĐPT
Lao động phổ thông
TCCN
Trung cấp chuyên nghiệp
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
5
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1: Phân bố mẫu nghiên cứu theo giới tính, kết quả học tập của học sinh, nghề
nghiệp của cha mẹ và kinh tế gia đình 18
Bảng 2.1 : Dự định của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT 39
Bảng 2.2 : Các nguồn tìm kiếm thông tin về thi CĐ - ĐH của học sinh 46
Bảng 3.1: Đánh giá mức độ quan trọng của lý do lựa chọn trường thi CĐ – ĐH 53
Bảng 3.2: Tương quan giới tính và lựa chọn các nhóm trường CĐ – ĐH 56
Bảng 3.3: Giới tính và dự định sau tốt nghiệp THPT 58
Bảng 3.4 : Tương quan giữa học lực và chọn nhóm trường thi CĐ – ĐH 60
Bảng 3.5: Tương quan giữa nghề nghiệp của bố mẹ và chọn nhóm trường CĐ - ĐH 65
Bảng 3.6 : Tương quan giữa kinh tế gia đình và dự định sau tốt nghiệp THPT 67
Bảng 3.7 : Mức độ ảnh hưởng của đặc điểm trường CĐ – ĐH tới sự lựa chọn của
học sinh 78
Bảng 3.8: Đánh giá mức độ của các kênh thông tin tác động đến lựa chọn trường
thi CĐ – ĐH 80
6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Nhận thức của học sinh về sự cần thiết của việc xác định trường
dự thi CĐ – ĐH 31
Biểu đồ 2.2: Khối dự thi CĐ – ĐH của học sinh 31
Biểu đồ 2.3: Thời điểm học sinh suy nghĩ chọn trường thi CĐ – ĐH 33
Biểu đồ 2.4: Tự đánh giá của học sinh về mức độ khó của thi tuyển sinh CĐ - ĐH 35
Biểu đồ 2.5: Học sinh tự đánh giá khả năng thi đỗ CĐ – ĐH 35
Biểu đồ 2.6 : Quyết định lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh 37
Biểu đồ 2.7 : Dự định lựa chọn nhóm trường thi CĐ - ĐH của HS sau tốt nghiệp THPT . 41
Biểu đồ 2.8: Thời điểm học sinh bắt đầu đi ôn thi CĐ – ĐH 44
Biểu đồ 2.9 : Nội dung HS cần cung cấp thông tin khi chọn trường thi CĐ – ĐH 49
Biểu đồ 3.1: Những lý do chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh 52
Biểu đồ 3.2: Sự giúp đỡ của gia đình trong việc lựa chọn trường thi 63
Biểu đồ 3.3: Sự giúp đỡ của bạn bè trong việc lựa chọntrường thi CĐ - ĐH 70
Biểu đồ 3.4 : Những hoạt động hướng nghiệp của nhà trường giúp học sinh chọn
trường thi CĐ - ĐH 71
Biểu đồ 3.5 Đánh giá của học sinh về hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường 74
Biểu đồ 3.6: Nguồn thông tin từ PTTTĐC giúp HS chọn trường thi CĐ – ĐH 76
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghề nghiệp luôn được coi là một trong những yếu tố quan trọng quyết định
tuơng lai của mỗi con người. Vì vậy để lựa chọn cho mình một ngành nghề phù hợp
luôn là ước mơ của rất nhiều các bạn trẻ, đặc biệt là học sinh trung học phổ thông.
Hiện nay có rất nhiều sự chọn lựa cho các em sau khi tốt nghiệp THPT, học tiếp lên
đại học, cao đẳng, học trung cấp chuyên nghiệp, học nghề hay đi làm lao động phổ
thông các em học sinh chọn hướng đi nào sau tốt nghiệp? Theo thống kê của Bộ
GD&ĐT, năm học 2010 - 2011 cả nước có khoảng 185.000 học sinh tốt nghiệp
THPT nhưng không đỗ vào đại học, cao đẳng hoặc trung cấp chuyên nghiệp. Con số
này tăng lên trong năm sau là 290.000 em. Cộng với số học sinh bỏ học và trượt tốt
nghiệp THPT trong những năm qua thì ước tính mỗi năm có khoảng hơn 350.000
em không tiếp tục được đào tạo, thiếu công ăn việc làm [28]. Kỳ thi tuyển sinh vào
đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp năm 2013, cả nước có 1,4 triệu thí sinh
dự thi. Trong số đó chỉ có 20% thí sinh có nguyện vọng thi vào các trường Cao đẳng,
tỷ lệ vào trung cấp chuyên nghiệp lại càng hạn chế [29]. Những con số đó đã phần nào
phản ánh rõ nét mong muốn cháy bỏng của các em sau 12 năm đèn sách và tâm lý coi
trọng làm “thầy” hơn “thợ”.
Hiện nay, để lựa chọn đúng đắn và thi đỗ vào trường đại học vẫn là mơ ước
của đa số các em học sinh. Bởi thực tế, trong một xã hội coi trọng bằng cấp như
hiện nay thì đối với nhiều người, tấm bằng đại học thực sự là tấm vé để nhiều bạn
trẻ bước vào cuộc sống. Bên cạnh đó các em cũng còn rất nhiều áp lực từ phía gia
đình, nhà trường và xã hội. Do vậy, nhiều bạn trẻ có suy nghĩ rằng, chỉ khi bước
vào cổng trường Đại học thì mới có được một tương lai tốt đẹp. Liệu đây có phải là
lựa chọn duy nhất để có một nghề nghiệp ổn định sau này?
Chính suy nghĩ này dẫn đến thực tế là có sự chênh lệch khá lớn giữa chỉ tiêu
tuyển sinh vào đại học, cao đẳng và số hồ sơ đăng ký dự thi. Và không phải bất cứ
học sinh nào cũng có đủ năng lực để vượt qua được kì thi đại học đầy cam go và
tính cạnh tranh cao như thế. Vậy lựa chọn nào là phù hợp đối với các em có học lực
ở mức trung bình, và đảm bảo cho các em có một tương lai ổn định? Cuối cấp học,
7
nhiều học sinh luôn đứng ở giữa các ngã rẽ, không biết mình nên chọn trường CĐ-
ĐH nào, thậm chí có nhiều học sinh không hề ý thức được mình sẽ làm gì trong
tương lai. Kỳ thi tuyển sinh vào CĐ - ĐH hàng năm luôn là sự kiện quan trọng bậc
nhất đối với mỗi học sinh. Thông tin tuyển sinh dù được đăng tải rất nhiều trên
phương tiện truyền thông nhưng vẫn chưa đủ để các thí sinh yên tâm lựa chọn.
Thành công trong cuộc sống vốn là ước muốn của mỗi người, thành công trong việc
chọn trường, chọn ngành, chọn nghề là con đường dẫn chúng ta đến với thành công
trong cuộc sống. Trong quá trình lựa chọn trường CĐ - ĐH của học sinh THPT, có
nhiều yếu tố tác động tới các em. Vậy những yếu tố đó là gì? Các em chọn trường
CĐ - ĐH nào để dự thi? Dựa vào đâu để các học sinh chọn trường cho mình? giải
pháp nào để phù hợp với nghề nghiệp tương lai của các em? Tất cả những vấn đề
nêu trên khiến tôi quyết định chọn đề tài: “Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác
động đến lựa chọn trường Cao đẳng - Đại học của học sinh THPT hiện nay”. Từ đó
đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn và lựa chọn nghề
nghiệp, chọn trường phù hợp với học sinh THPT.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Có thể nói, những tư tưởng về định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã có
từ thời cổ đại, tuy nhiên ở dưới dạng rất sơ khai và biểu hiện thông qua việc phân
chia, phân cấp lao động tuỳ thuộc vào địa vị và nguồn gốc xuất thân của mỗi người
trong xã hội. Điều này thể hiện rõ tính áp đặt của giai cấp thống trị và sự bất bình
đẳng trong phân công lao động xã hội. Đến thế kỷ XIX, khi nền sản xuất xãhội phát
triển cùng với những tư tưởng tích cực về giải phóng con người trên khắp thế giới
thì khoa học hướng nghiệp mới thực sự trở thành một khoa học độc lập.
Cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” xuất bản năm 1949 ở Pháp được xem là một
trong những cuốn sách đầu tiên nói về hướng nghiệp [6]. Nội dung cuốn sách đã đề cập
đến sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công
nghiệp từ đó đã rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan
trọng không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã
hội phát triển.
8
Vào những năm 1940, nhà tâm lý học Mỹ J.L. Holland đã nghiên cứu và thừa
nhận sự tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp.Tác giả đã chỉ ra rằng,
tương ứng với mỗi kiểu nhân cách nghề nghiệp là một số những nghề nghiệp mà cá
nhân có thể lựa chọn để đạt được kết quả làm việc cao nhất. Lý thuyết này của J.L.
Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất trong thực tiễn hướng nghiệp trên thế giới.
Trên cơ sở các luận điểm về hướng nghiệp của C.Mác và V.I Lênin, các nhà
giáo dục Liên xô như B.F Kapêep, X.Ia Batưsep, X.A Sapôrinxki, V.A Pôliacôp
trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra mối quan hệ giữa
hướng nghiệp và các hoạt động sản xuất xã hội. Họ cho rằng, nếu sớm thực hiện
GDHN cho thế hệ trẻ thì đó sẽ là cơ sở để họ chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp
giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội [6]. Đồng thời, các tác giả này
cũng đã trình bày những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao động nghề nghiệp
cho học sinh phổ thông tại các cơ sở học tập - lao động liên trường.
Mei Tang, Wei Pan và Mark D.Newmeyer [26] đã áp dụng mô hình lý thuyết
phát triển xã hội nghề nghiệp (SCCT, Lent, Brown và Hackett, 1994) để khảo sát
các yếu tố tác động đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của HS trung học. Những
phát hiện của nghiên cứu này đã chứng minh tầm quan trọng của các yếu tố như:
kinh nghiệm học tập, tự đánh giá năng lực nghề nghiệp, lợi ích và kết quả mong đợi
trong quá trình phát triển nghề nghiệp của học sinh trung học. Mối quan hệ của các
yếu tố này có tính chất động. Vì vậy, để can thiệp thành công cần phải xem xét mối
quanhệ phức tạp giữa các yếu tố và kết hợp một loạt các biện pháp can thiệp ở mức
độ đa hệ thống. Các nhà tư vấn nên góp phần vào sự phát triển và thực hiện một
chương trình phát triển nghề nghiệp toàn diện giúp HS phát triển năng lực nghề
nghiệp thông qua hoạt động học tập thiết thực.
Nghiên cứu của Bromley H. Kniveton [23] được tiến hành trên cơ sở khảo
sát 384 thanh thiếu niên (trong đó có 174 nam và 174 nữ) từ 14 đến 18 tuổi đã đã
đưa ra kết luận: Cả nhà trường và gia đình đều có thể cung cấp những thông tin và
hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của
thanh niên. Giáoviên có thể xác định những năng khiếu và khả năng qua đó khuyến
khích học sinh tham gia các hoạt động ngoại khoá, tham gia lao động hướng nghiệp
9
hoặc tham quan những cơ sở sản xuất. Phụ huynh HS có ảnh hưởng rất lớn đến việc
cung cấp những hỗ trợ thích hợp nhất định cho sự lưa chọn nghề nghiệp, ngoài ra
còn cósự tác động của anh chị em trong gia đình, bạn bè.
Michael Borchert [22], trên cơ sở khảo sát 325 học sinh trung học của trường
Trung học Germantown, bang Wisconsin đã đưa ra nhận xét: trong ba nhóm yếu tố
chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp là: Môi trường, cơ hội và đặc điểm
cá nhân thì nhóm yếu tố đặc điểm cá nhân có ảnh hưởng quan trọng nhất đến sự
chọn lựa nghề nghiệp của HS trung học.
2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, giáo dục hướng nghiệp tuy được xếp ngang tầm quan trọng với
các mặt giáo dục khác như đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục nhưng bản thân nó lại
rất non trẻ, mới mẻ cả về nhận thức, lý luận và thực tiễn, rất thiếu về lực lượng,
không mang tính chuyên nghiệp. Vì vậy, việc thực hiện không mang lại nhiều hiệu
quả. Vấn đề hướng nghiệp chỉ thực sự nóng lên và được xã hội quan tâm khi nền
kinh tế đất nước bước sang cơ chế thị trường với sự đa dạng của các ngànhnghề và
nhu cầu rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực.
Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác hướng nghiệp.Điều này
được thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, văn kiện, các nguyên lý giáodục của Đảng
và nhà nước. Có thể lấy ví dụ như nghị định 126/CP ngày 19/03/1981 của Chính
phủ về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông vàviệc sử dụng hợp lý HS
các cấp THCS và THPT tốt nghiệp ra trường.Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
IX đã ghi rõ “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học,
chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”.
Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Giáo dục THPT nhằm giúp cho
học sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học vấn để tiếp
tục học đại học, cao đẳng, trung học nghề nhiệp, học nghề, và đi vào cuộc sống
laođộng”. Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001 - 2010 đã xác định rõ “Thực
hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ
thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy
10
năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng
hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi tiếp sau khi tốt nghiệp”.
Về mặt nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở Việt Nam, theo các chuyên gia
thì ngành hướng nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ vào những
năm 1970, 1980. GS.TS. Phạm Tất Dong là người có những đóng góp rất lớn cho
GDHN Việt Nam. Tác giả này đã dày công nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực
tiễn cho GDHN như xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hướng nghiệp; hứng
thú, nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên tắc hướng
nghiệp, các nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục hướng nghiệp Điều này
được thể hiện ở rất nhiều các báo cáo, bài báo, sách, giáo trình của ông như bài viết:
“Hướng nghiệp cho thanh niên”, đăng trên tạp chí Thanh Niên số 8 năm 1982; báo
cáo: “Một con đường hình thành lý tưởng nghề nghiệp cho học sinh lớn”; các tác
phẩm như: “Nghề nghiệp tương lai - giúp bạn chọn nghề” hay cuốn “Tư vấn hướng
nghiệp - sự lựa chọn cho tương lai”. Trong một công trình nghiêncứu gần đây, tác
giả đã chỉ ra rằng: “Công tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc chọn nghề của
thanh niên theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế”. Bởi vì theo tác giả, đất nước
đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-
HĐH), cơ cấu kinh tế sẽ chuyển theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng
công nghiệp, dịch vụ. Xu hướng chọn nghề của thanh niên phù hợp với xu hướng
chuyển cơ cấu kinh tế là một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
GS.TS. Nguyễn Văn Hộ cũng là một trong những người rất tâm đắc và
nghiên cứu chuyên sâu về GDHN. Trong luận án tiến sĩ của mình, tác giả đã đề cập
đến vấn đề: “Thiết lập và phát triển hệ thống hướng nghiệp cho học sinh Việt
Nam”. Tác giả đã xây dựng được luận chứng cho hệ thống GDHN trong điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Gần đây, ông cũng đã xuất bản cuốn sách:
“Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và giảng dạy kĩ thuật trong trường THPT”
(2006). Cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống về cơ sở lí luận của GDHN, vấn
đề tổ chức GDHN trong trường THPT và giảng dạy kĩ thuật ở nhà trường THPT
trong điều kiện kinh tế thị trường và sự nghiệp CNH - HĐH đất nước hiện nay.
Trong thời gian gần đây, nhằm hiện thực hoá những phương hướng, mục tiêu mà
11
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra về GDHN và phân luồng học sinh phổ
thông, đã có rất nhiều những nghiên cứu về hướng nghiệp ở nhiều cách tiếp cận
khác nhau tạo nên một giai đoạn mới với sự đa dạng trong nghiên cứu khoa học
hướng nghiệp ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của giảng viên Khoa Tâm lý - trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã rút ra kết luận: (1) Các hình thức hướng nghiệp trong nhà trường phổ
thông hiện tại chưa thực sự phong phú và chưa được tổ chức thường xuyên. Nhiều
hình thức hấp dẫn, có sức thuyết phục cao như tham quan thực tế các cơ sở sản xuất
địa phương, nghe các nghệ nhân nói chuyện về nghề … ít được quan tâm thực hiện;
(2) Nhu cầu tìm hiểu nghề là nhu cầu chính đáng của học sinh, nhưng khi tìm hiểu
về nghề thì các em gặp phải rất nhiều khó khăn như nhà trường ít tổ chức hướng
nghiệp, các nội dung hướng nghiệp thực hiện không đồng bộ; (3) Do vai trò tác
động của nhà trường trong việc hướng nghiệp chưa cao nên các thông tin về nghề
mà học sinh thu nhận được khi chọn nghề phần lớn từ các kênh ngoài nhà trường
như từ cha mẹ, người thân, từ những người đang làm trong nghề đó hay từ các sách
báo hoặc phương tiện thông tin đại chúng khác.
Nghiên cứu của tác giả Lê khắc Thìn (1996) về vấn đề “Tìm hiểu thực trạng
lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở trường
THPT”. Đã nhấn mạnh đến nguyện vọng chọn nghề của học sinh. Do nước ta mở
cửa phát triển kinh tế nhiều thành phần, hợp tác kinh tế với nhiều nước trên thế giới,
vì vậy các em có xu thế hướng vào các trường thuộc lĩnh vực kinh tế, công nghệ
tiên tiến. Như vậy, sự định hướng của học sinh vào các trường cũng phát triển theo
xu thế phát triển của xã hội. Tuy nhiên, có nhiều em chọn nghề theo rung cảm từ
nhỏ, từ mẫu người lý tưởng, có em chọn nghề theo sự vui thích của cá nhân, theo
yêu cầu của cha mẹ Do đó có thể có sự không phù hợp giữa sở thích và nguyện
vọng. Hầu hết các em đều cho rằng nghề các em thích là phù hợp sở thích và khả
năng của bản thân, hoặc yêu thích nghề vì phù hợp với nguyện vọng được xã hội coi
trọng. Có 7,38% học sinh cho biết là chưa hiểu rõ về nghề nên không biết thích cái
gì. Bên cạnh đó, sự hiểu biết của học sinh về nghề định chọn là rất ít, chưa sâu sắc,
không rõ ràng, cụ thể. Những nguồn thông tin quan trọng nhất (cha mẹ, thầy cô, các
12
phương tiện thông tin đại chúng) để giúp cho các em có nhận thức đúng đắn về
nghề nghiệp thì chưa phát huy hết tác dụng. Công trình nghiên cứu của tác giả Lê
Khắc Thìn đã phản ánh khá đầy đủ các khía cạnh của hoạt động chọn nghề của HS.
Đặc biệt, dựa trên các nghiên cứu định lượng, định tính và các phương pháp tiếp cận
xã hội học đặc biệt là phương pháp thử nghiệm tác động đối với các em HS, tác giả
đã phân tích khá rõ vấn đề nhận thức nghề và dự định chọn nghề của HS THPT.
Đề tài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường đại
học của học sinh phổ thông trung học” của nhóm tác giả Trần Văn Quý và Cao Thi
Hào Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc Gia TP.Hồ Chí Minh. Nghiên cứu
đã xác định, đánh giá tác động của các yếu tố then chốt ảnh hưởng đến quyết định
chọn trường đại học của học sinh THPT. Kết quả phân tích 227 bảng hỏi đối với
học sinh lớp 12 năm học 2008 – 2009 của 5 trường THPT tại Quảng Ngãi đã cho
thấy 5 yếu tố bao gồm: (1) cơ hội việc làm trong tương lai, (2) đặc điểm cố định của
trường đại học, (3) bản thân cá nhân học sinh, (4) cá nhân có ảnh hưởng đến quyết
định của học sinh và (5) thông tin có sẵn, ảnh hưởng đến quyết định chọn trường
Đại học.
Tác giả Phan Thị Tố Oanh nghiên cứu với đề tài: “Nghiên cứu nhận thức nghề và dự
định chọn nghề của học sinh phổ thông trung học” (Luận án Phó Tiến Sĩ khoa học sư phạm –
tâm lý – 1996) [4] tiến hành nghiên cứu trên 497 học sinh 4 trường thuộc nội ngoại thành
thành phố Hà Nội và Huế đã cho rằng: HS ở các nhóm nghề đã có nhận thức về nghề nghiệp
nhưng ở mức độ chưa cao, chưa sâu sắc và đầy đủ. Trong ba mặt nhận thức về nghề HS
nhận thức nhu cầu của xã hội đối với nghề nghiệp mình định chọn cao hơn so với nhận thức
về thế giới nghề nghiệp – yêu cầu đặc trưng của nghề và nhận thức về đặc điểm cá nhân (
tương ứng là 0,98; 0,55; 0,375 điểm ). Điều đó chứng tỏ những yếu tố khách quan của nghề
nghiệp đối với cá nhân được HS nhận biết dễ hơn những yêu cầu của nghề nghiệp về các đặc
điểm tâm lý cá nhân.
Và trong ba trình độ nghề thì đa số HS dự định chọn trình độ cao: có tới 80,4% dự định
thi đại học; 36,9% dự định thi trung cấp; 7,3% thi vào sơ cấp và 5,5% không thi vào hệ nào.
Trên cở sở phân tích các yêu cầu của đề tài, tác giả đã đưa ra những nhận xét:
13
Nhận thức nghề đang dừng lại ở những biểu hiện bên ngoài chưa đi sâu tìm hiểu
đặc trưng riêng của nghề và đối chiếu yêu cầu đó với những đặc điểm thể chất và tâm lý của
mình.
Đa số HS chọn đại học, vào những nghề xã hội đánh giá cao, có khả năng tìm việc
ổn định và cần thiết xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Vân Hạnh cũng có bài viết về “Nhu cầu học nghề của
học sinh trung học phổ thông” đăng trên tạp chí Khoa học giáo dục số 16, tháng
1/2007. Bài viết của tác giả đã khẳng định rằng phần đông HS có nhận thức đúng
đắn rằng vào đại học không phải là con đường duy nhất để thành đạt (70% ý kiến
được hỏi), nhưng lại có tới 70% lựa chọn con đường này sau khi tốt nghiệp THPT.
Theo bài viết này, các nhóm nghề được HS lựa chọn nhiều nhất là công nghệ thông
tin, điện, dệt may. Sự lựa chọn này phản ánh tương đối chính xác xu hướng phát
triển của thị trường lao động. Những nghề này, nhất là dệt may đang có nhu cầu lớn
về lao động kĩ thuật, HS những ngành này ra trường hầu hết tìm được việc ngay.
Tác giả Nguyễn Thị Vân Hạnh cũng chỉ ra rằng: đặc điểm giới tính có ảnh hưởng
đến dự định chọn nghề của nam và nữ, và nhận thức nghề và dự định chọn nghề của
HS chưa có sự phù hợp cao, chọn nghề theo ý muốn chủ quan.
Luận văn thạc sĩ của Trần Đình Chiến (2008) về “Xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 trường THPT dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường” (khảo sát tại tỉnh Phú Thọ) đã chỉ ra được thực trạng về xu hướng nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 dưới sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường. Tác giả
đã nhận thấy đa số học sinh chịu ảnh hưởng một cách thụ động, không nhận thức
được sự phù hợp của bản thân với nghề. Học sinh lớp 12 chủ yếu có xu hướng,
nguyện vọng thi vào các trường ĐH – CĐ và lựa chọn những ngành nghề đang
được xã hội quan tâm, đánh giá cao, những nghề có thu nhập cao và dễ tìm việc
làm. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tác giả đã đề ra một số biện pháp cụ
thể nhằm hình thành xu hướng lựa chọn nghề nghiệp tích cực, phù hợp của học sinh
lớp 12 dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường hiện nay.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Phương Toàn (2011) về “ Khảo sát các yếu tố
tác động đến việc chọn trường của học sinh lớp 12 trung học phổ thông trên địa bàn
14
tỉnh Tiền Giang”. Đề tài tiến hành nghiên cứu trên 450 học sinh lớp 12 thuộc 8
trường THPT trên địa bàn tỉnh Tiền Giang. Đề tài đã cho thấy có 5 yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định chọn trường đại học của học sinh từ mạnh đến yếu như sau:
(1) yếu tố về mức độ đa dạng và hấp dẫn ngành đào tạo; (2) yếu tố về đặc điểm của
trường đại học; (3) yếu tố về khả năng đáp ứng sự mong đợi sau khi ra trường; (4)
yếu tố về đặc điểm của trường đại học; (5) yếu tố danh tiếng của trường đại học. Đề
tài nghiên cứu cho kết quả có sự khác biệt giữa nhóm học sinh theo đơn vị trường
THPT, theo giới tính và theo học lực trong sự đánh giá tầm quan trọng của các yếu
tố khi quyết định chọn trường đại học để dự thi.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng chọn nghề
của học sinh THPT (lý do chọn nghề, động cơ chọn nghề, nguyện vọng chọn nghề,
các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh, nhận thức về nghề nghiệp
của học sinh), nêu lên được thực trạng tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường THPT
hiện nay cùng với nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh ở năm học cuối cấp.
Đồng thời, các công trình nghiên cứu này cũng tổng hợp được ý kiến của học sinh
với mong muốn trong nhà trường có ban tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong
việc chọn nghề cho tương lai.
Tóm lại, nghiên cứu về đề tài định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT có
nhiều tác giả đã nghiên cứu, những kết quả đó làm tiền đề để chúng tôi tiếp tục
nghiên cứu vấn đề này vào thời điểm hiện tại. Vấn đề nghề nghiệp luôn đổi mới và
phát triển theo xu hướng của thế giới, cho nên nghiên cứu về vấn đề này vẫn luôn
cần được cập nhật mới mẻ.
Nhưng nghiên cứu về đề tài chọn trường thi CĐ – ĐH của học sinh THPT là
chưa nhiều. Với địa bàn nghiên cứu tác giả chọn là một trường THPT thuộc tỉnh
trung du miền núi phía Bắc mà cụ thể chúng tôi tiến hành khảo sát tại trường THPT
Việt Yên 1 – Bắc Giang, là điểm mới để chúng tôi tìm hiểu những nhận thức và nhu
cầu của học sinh tại địa bàn có điểm gì khác so với các em học sinh THPT tại khu
vực ở thành phố lớn và các địa bàn khác trên cả nước. Chúng tôi chọn đề tài này để
tìm hiểu nhận thức, nhu cầu của học sinh lớp 12 về lựa chọn trường CĐ - ĐH và tìm
hiểu xem những yếu tố nào tác động đến lựa chọn trường thi của HS. Đó là lý do mà
15
chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài này.
3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1 Ý nghĩa khoa học
Đề tài nghiên cứu nhằm vận dụng phạm trù, khái niệm, phương pháp nghiên
cứu và lý thuyết Xã hội học vào mô tả, giải thích thực trạng nhận thức, nhu cầu và
các yếu tố tác động đến lựa chọn trường CĐ, ĐH của học sinh THPT hiện nay. Dựa
trên kết quả thu được, nghiên cứu cũng mong góp phần làm giàu thêm tri thức xã
hội học trong lĩnh vực cụ thể làvấn đề chọn trường thi CĐ - ĐH của học sinh.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học, chúng tôi mong muốn nắm bắt kịp
thời nhận thức, nhu cầu đúng đắn/ sai lệch về lựa chọn trường CĐ - ĐH của học
sinh THPT. Từ đó đưa ra những khuyến nghị và giải pháp thiết thực nhằm tác động
tích cực đến nhận thức của học sinh THPT Việt Yên 1 trong việc lựa chọn trường
CĐ- ĐH. Trong một chừng mực nào đó khuyến nghị đó có thể suy rộng ra cho học
sinh các trường THPT nói chung về nhận thức nghề nghiệp trong tương lai từ đó có
sự chọn lựa trường thi CĐ - ĐH phù hợp.
4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động đến lựa chọn trường CĐ - ĐH
của học sinh THPT
4.2 Khách thể nghiên cứu
300 Học sinh lớp 12, phụ huynh học sinh và thầy cô giáo tại trường THPT
Việt Yên 1.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
+Phạm vi không gian : Trường THPT Việt Yên 1
+Phạm vi thời gian : Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11/2013 đến tháng
05/2014
+Vấn đề nghiên cứu: Nhận thức, nhu cầu và các yếu tố tác động đến lựa
chọn trường CĐ - ĐH của HS THPT
16
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhận thức, nhu cầu và những yếu tố tác động đến lựa
chọn trường CĐ – ĐH của học sinh THPT. Từ đó có thể đề xuất một số khuyến
nghị về giải pháp giúp học sinh THPT có sự định hướng nghề nghiệp, lựa chọn
trường thi CĐ – ĐH một cách phù hợp với năng lực và nguyện vọng của mình.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1)Tìm hiểu nhận thức của học sinh về vấn đề chọn trường thi CĐ - ĐH.
Nhận thức của HS về sự cần thiết xác định trường dự thi CĐ - ĐH, thời điểm HS
suy nghĩ về việc lựa chọn trường CĐ - ĐH, tự đánh giá cơ hội và khả năng thi đỗ
CĐ - ĐH của HS THPT
(2) Chỉ rõ những nhu cầu của HS trong việc chọn trường thi CĐ - ĐH
(3) Phân tích những yếu tố chính tác động đến lựa chọn trường CĐ – ĐH của
học sinh THPT.
6. Câu hỏi nghiên cứu
● Học sinh THPT hiện nay nhận thức như thế nào về lựa chọn trường CĐ - ĐH?
● Học sinh có nhu cầu gì trong quá trình lựa chọn trường CĐ - ĐH?
● Những yếu tố nào tác động đến lựa chọn trường CĐ - ĐH của học sinh
THPT hiện nay?
7. Giả thuyết nghiên cứu
(1) Phần lớn học sinh THPT hiện nay đều có nhận thức tương đối đầy đủ và
đúng đắn về việc lựa chọn trường CĐ - ĐH để dự thi.
(2) Học sinh THPT đều có nguyện vọng dự thi vào các trường CĐ - ĐH, HS
THPT hiện nay có nhu cầu cao về việc được luyện thi CĐ - ĐH, tìm hiểu thông tin thi
CĐ - ĐH, các hoạt động hướng nghiệp phục vụ mục đích lựa chọn trường CĐ - ĐH.
(3) Có rất nhiều yếu tố tác động đến việc lựa chọn trường CĐ - ĐH của học
sinh THPT ngoài bản thân mỗi cá nhân HS còn có các yếu tố như : gia đình, bạn bè,
nhà trường, truyền thông đại chúng, đặc điểm của trường CĐ - ĐH.
17
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lấy lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm nền tảng cơ sở để nhìn nhận vấn đề nghiên cứu trong một bối
cảnh lịch sử xã hội cụ thể và trong sự vận động biến đổi, tác động qua lại của nó với
các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của ngành giáo dục nói
riêng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhìn các hiện tượng xã hội trong mối quan
hệ nhân quả. Theo đó, mọi hiện tượng trong xã hội không tồn tại độc lập mà luôn
tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu bất kỳ một hiện tượng,
một vấn đề xã hội nào chúng ta cũng cần đặt chúng trong một bối cảnh xã hội cụ
thể, trong một môi trường xác định, nghĩa là cần xem xét hiện tượng, vấn đề xã
hội đó trong mối quan hệ tương tác với các hiện tượng, vấn đề xã hội khác.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhìn các hiện tượng xã hội trong một quá trình,
nghĩa là mọi hiện tượng trong xã hội không tồn tại một cách bất biến mà luôn
luôn vận động, có sự hình thành, phát triển và tiêu vong. Do đó, khi nghiên cứu
một hiện tượng, vấn đề xã hội nào thì cần xem xét nó trong một quá trình và đặt
nó trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Những nguyên tắc và quan điểm của xã hội học Mác - Lênin được xác định
là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình nghiên cứu của đề tài, do đó nó trở thành phư-
ơng pháp luận của đề tài.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề nhận thức, nhu cầu và các yếu
tố tác động tới lựa chọn trường thi CĐ – ĐH của HS được nhìn nhận trong mối
quan hệ qua lại tác động với các yếu tố của môi trường xã hội chung (gia đình, nhà
trường, bạn bè, các phương tiện truyền thông đại chúng) và trong mối quan hệ với
các yếu tố cá nhân của học sinh như (giới tính, học lực)
8.2 Phương Pháp thu thập thông tin
8.2.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phân tích một số tài liệu liên quan
đến vấn đề nghiên cứu như sách báo, tạp chí nghiên cứu chuyên sâu và một số công
18
trình nghiên cứu về nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu đã xuất bản và công
bố. Qua đó, bổ sung thêm cho những thiếu sót trong việc phân tích các số liệu định
lượng thu được từ điều tra thông qua bảng hỏi.
8.2.2 Phương pháp trưng cầu ý kiến
Phiếu trưng cầu ý kiến sẽ được sử dụng nhằm mục đích thu thập những
thông tin định lượng cho đề tài nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn theo
phương pháp ngẫu nhiên, có cân nhắc đến một số yếu tố như giới tính, kết quả học
tập, nghề nghiệp của bố mẹ.
Chúng tôi tiến hành phát 325 phiếu khảo sát đối với học sinh khối 12 thu và
về 300 phiếu với cơ cấu mẫu như sau:
Bảng 1: Phân bố mẫu nghiên cứu theo giới tính, kết quả học tập của học sinh,
nghề nghiệp của cha mẹ và kinh tế gia đình
Tiêu chí phân loại
Số ngƣời
Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam
138
46,0
Nữ
162
54,0
Kết quả học tập
Giỏi
17
5,7
Khá
201
67,0
Trung bình
80
26,7
Yếu
2
0,7
Nghề nghiệp của
bố mẹ
Viên chức NN
52
17,3
Nông nghiệp
77
25,7
Lao động tự do
47
15,7
Kinh doanh
90
30,0
Nghề khác
34
11,3
Kinh tế gia đình
Giàu có
19
6,3
Khá giả
72
24,0
Trung bình
152
50,7
Cận nghèo
35
11,7
Nghèo
22
7,3
19
8.2.3 Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Để có được cái nhìn khách quan và chính xác hơn về vấn đề nhận thức, nhu
cầu và các yếu tố tác động đến lựa chọn trường thi CĐ - ĐH của HS THPT chúng
tôi tiến hành phỏng vấn sâu 14 người gồm: 10 học sinh, 2 giáo viên, 2 phụ huynh
học sinh. Thông tin phỏng vấn sâu mang tính chất định tính, tập trung vào các khía
cạnh liên quan đến lựa chọn nghề, chọn trường thi, công tác giáo dục hướng nghiệp
trong trường THPT hiện nay nhằm bổ sung những thông tin mà phương pháp định
lượng không thực hiện được.
9. Khung lý thuyết
Điều kiện KT - XH
Nhà
trƣờng
Gia
đình
Cá
nhân
Bạn bè
Truyền
thông
đại
chúng
Đặc
điểm
trƣờng
CĐ- ĐH
Nhận thức
- Thời điểm xác định
trƣờng thi CĐ - ĐH
- Đánh giá về cơ hội,
khả năng đỗ CĐ - ĐH
- Lựa chọn trƣờng thi
CĐ - ĐH
Quyết định
lựa chọn
trƣờng
CĐ - ĐH
Nhu cầu
- Luyện thi CĐ - ĐH
- Tìm hiểu thông tin
thi CĐ - ĐH
- Hoạt động hƣớng
nghiệp và cung cấp
thông tin thi CĐ - ĐH
20
NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Các khái niệm công cụ
1.1.1 Khái niệm nhận thức
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình
phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính
tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy
và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng – 1994, “Nhận thức là quá
trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện thực tiễn vào trong tư duy, quá trình con
người nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan hoặc kết quả quá trình đó nhằm nâng
cao nhận thức. Có nhận thức đúng, có nhận thức sai”.[14]
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (Hoàng Phi chủ biên) nhận thức được
định nghĩa là quá trình hay kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy.
Là quá trình con người nhận biết, hiểu biết thế giới quan hay kết quả của quá trình
đó. Nhận thức là nhận ra và hiểu biết được, hiểu được về một ai đó, một vấn đề hay
một hiện tượng nào đó.
Nhận thức là quá trình phức tạp tiếp nhận, xử lý và phân tích thông tin giúp
con người hiểu biết ngày càng đầy đủ, chính xác về thế giới xung quanh.
Trong khuôn khổ của luận văn chúng tôi chỉ tìm hiểu xem nhận thức của học
sinh về xác định trường thi CĐ - ĐH thời điểm học sinh xác định việc chọn trường
thi, học sinh đánh giá về cơ hội và khả năng thi đỗ CĐ - ĐH nhưng lựa chọn về
trường CĐ - ĐH của học sinh.
1.1.2 Khái niệm nhu cầu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia : Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của
con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh
thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những
đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.
21
Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả
năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu đồng
nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận thức có
sự chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự thoả mãn nhu cầu).
Nhu cầu của một cá nhân, đa dạng và vô tận. Về mặt quản lý, người quản lý
chỉ kiểm soát những nhu cầu có liên quan đến hiệu quả làm việc của cá nhân. Việc
thoả mãn nhu cầu nào đó của cá nhân đồng thời tạo ra một nhu cầu khác theo định
hướng của nhà quản lý, do đó người quản lý luôn có thể điều khiển được các cá nhân.
Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt hay mất
cân bằng của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu
tối thiểu hay còn gọi là nhu yếu đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại,
phát triển và tiến hóa.
Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của
con người nói riêng. Nhu cầu được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và
sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, xã hội.
Trong luận văn này, chúng tôi tôi hiểu nhu cầu về luyện thi CĐ – ĐH của
học sinh, nhu cầu được tìm hiểu thông tin thi CĐ - ĐH, các hoạt động hướng nghiệp
cung cấp thông tin phục vụ mục đích chọn trường thi CĐ - ĐH của học sinh.
1.1.3 Khái niệm lựa chọn
Lựa chọn tức là nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính toán để quyết định sử
dụngphương tiện hay cách thức tối ưu trong số những điều kiện hay cách thức hiện
có để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực. Cách hiểu này lúc
đầu mang nặng ý nghĩa kinh tế học vì nhấn mạnh yếu tố lợi ích vật chất (lãi, lợi
nhuận, thu nhập) nhưng sau này các nhà xã hội học mở rộng phạm vi của mục tiêu
bao gồm các yếu tố lợi ích xã hội và tinh thần.[1, tr 354]
Áp dụng vào đề tài nghiên cứu có thể thấy HS THPT khi lựa chọn ngành
nghề, chọn trường dự thi cho tương lai của mình cũng phải suy nghĩ để lựa chọn
ngành nghề, chọn trường phục vụ lợi ích bản thân. Mặc dù có thể có sự tác động
của nhiều yếu tố như gia đình, bạn bè, thầy cô, hướng nghiệp trong nhà trường, đặc