Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Một số giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tại các trung tâm học tập cộng đồng huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.01 KB, 121 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HOÀNG SỸ VINH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TẠI CÁC TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG
HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.05

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN NGỌC HỢI

NGHỆ AN, NĂM 2012


2
LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm vinh dự tham gia học tập, nghiên cứu chương trình thạc sỹ
khoa học giáo dục tại Trường Đại học Vinh, học viên được tiếp cận nhiều góc
nhìn mới trong kho tàng kiến thức về lĩnh vực giáo dục - Sự nghiệp được
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm và xác định là quốc sách hàng đầu.
Q trình học tập, tơi nhận được nhiều sự quan tâm từ gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, và sự hỗ trợ nhiệt tình của tập thể các giảng viên nhà trường. Có được
kết quả ngày hơm nay, học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành:
- Hội đồng Khoa học chuyên ngành Quản lý giáo dục, Khoa Đào tạo
sau Đại học Trường Đại học Vinh, các thầy giáo, cô giáo đã tham gia quản lý,


giảng dạy, động viên giúp đỡ trong thời gian học tập và nghiên cứu;
- Các đồng chí lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh, Huyện Ủy,
HĐND, UBND huyện Nghi Xuân, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Nghi
Xuân, các Trung tâm Học tập cộng đồng, Phịng Thống kê huyện, các đơn
vị có liên quan trong quá trình nghiên cứu đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
trong việc cung cấp số liệu và tư vấn khoa học.
- Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ khích lệ tơi
trong q trình nghiên cứu
Đặc biệt xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đối với Phó Giáo sư - Tiến sỹ
Nguyễn Ngọc Hợi - Người thầy trực tiếp hướng dẫn khoa học cho tơi trong
suốt q trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Do thời gian tập trung cho đề tài chưa được nhiều và kiến thức có hạn,
nên việc nghiên cứu viết luận văn mặc dù đã có nhiều cố gắng song chắc chắn
khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được những ý kiến góp
ý, chỉ dẫn của các quý thầy, cô giáo cùng các đồng nghiệp.
Nghệ An, tháng 9 năm 2012
Tác giả


3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

CBQL

:

Cán bộ quản lý

QLGD


:

Quản lý giáo dục

CBQLGD

:

Cán bộ quản lý giáo dục

CSVC

:

Cơ sở vật chất

GD

:

Giáo dục

GD&ĐT

:

Giáo dục và Đào tạo

UBND


:

Ủy ban nhân dân

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

PCGD

:

Phổ cập giáo dục

KT-XH

:

Kinh tế - xã hội

CNH-HĐH

:

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

HTCĐ


:

Học tập cộng đồng

TTHTCĐ

:

Trung tâm học tập cộng đồng

GDCQ

:

Giáo dục chính quy

GDKCQ

:

Giáo dục khơng chính quy

GDPCQ

:

Giáo dục phi chính quy

XMC


:

Xóa mù chữ


4

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bước vào thế kỷ XXI, một trong những nhân tố quyết định thúc đẩy
quá trình hội nhập quốc tế là chất lượng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia.
Chính vì thế, sự thách thức đối với mỗi nước là phải trở thành một xã hội học
tập và phải đảm bảo cho công dân của mình được trang bị kiến thức, kỹ năng
và tay nghề cao. Giáo dục thường xuyên đã trở thành công cụ để mở rộng tạo
cơ hội học tập cho mọi người và xây dựng xã hội học tập. Việt Nam không
thể nằm ngồi xu thế chung đó; Trong hoạch định chiến lược phát triển kinh
tế - Xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến nhân tố con người, coi sự
phát triển con người vừa là mục tiêu vừa là động lực chính của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Giáo dục và Đào tạo được xem là cơ sở của sự phát triển
nguồn nhân lực, con đường cơ bản để phát huy nguồn lực con người.
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010 chỉ rõ quan điểm:
Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình
độ được học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Báo cáo chính trị tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: “Đẩy
mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính
quy và khơng chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành
một xã hội học tập”.
Thực tế cho thấy nhu cầu học tập thường xuyên đã trở thành thiết yếu
đối với nhiều người. Các loại hình Giáo dục - Đào tạo và hình thức học được
đa dạng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu học ngày càng tăng của xã hội. Trung tâm

học tập cộng đồng, một trong những loại hình của giáo dục thường xuyên
được hình thành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người trong cộng đồng
tại các xã, phường được học tập, được trang bị kiến thức về nhiều mặt góp


5
phần tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, làm lành mạnh các quan hệ
xã hội trong cộng đồng. Các trung tâm HTCĐ này đã thực sự trở thành trường
học của nhân dân lao động, là công cụ thiết yếu để xây dựng xã hội học tập từ
cơ sở. Điều đó cho thấy việc phát triển các trung tâm HTCĐ là cần thiết và đã
trở thành xu thế tất yếu của xã hội.
Nhiệm vụ đặt ra cho các trung tâm HTCĐ trong giai đoạn mới này là
bên cạnh với việc phát triển về số lượng, cần phải kiện toàn về mọi mặt: Cơ
cấu tổ chức, cơ chế quản lý và quy chế về hoạt động để đảm bảo sự phát triển
bền vững của các trung tâm HTCĐ. Sau 8 năm xây dựng và phát triển, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, trung tâm HTCĐ cũng bộc lộ những hạn chế
nhất định. Một số trung tâm HTCĐ hoạt động chưa hiệu quả, nội dung hình
thức hoạt động cịn nghèo nàn, cơ sở vật chất yếu kém, kinh phí duy trì các
hoạt động thường xun cịn hạn hẹp, cơ cấu tổ chức bộ máy chưa hợp lý, cơ
chế vận hành còn nhiều lúng túng. Đặc biệt là khả năng điều hành, quản lý
của chủ nhiệm trung tâm và đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên còn nhiều bất
cập. Từ những tồn tại trên đây việc tìm ra giải pháp quản lý phát triển bền
vững các trung tâm HTCĐ đang là một đòi hỏi cấp bách cần phải giải quyết.
Nghi Xuân là miền quê giàu truyền thống văn hóa, người dân ở đây
hiếu học, nhiều người đỗ đạt cao. Tuy nhiên, đang là một huyện nghèo, tỷ
trọng nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế cao, công nghiệp dịch vụ phát
triển chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là lao động trong độ tuổi.
Bởi vậy, sự hiện diện đóng góp nói chung và các trung tâm HTCĐ nói riêng
có ý nghĩa nhất định.
Là một cán bộ cơng chức tại cơ quan hành chính cấp huyện, khơng trực

tiếp tham gia công tác giảng dạy, nhưng qua thực tiễn quá trình cơng tác, tơi
nhận thức được vai trị quan trọng trong việc phát triển học tập cộng đồng.
Đây là một đề tài khá mới mẻ, từ trước đến nay ở Nghi Xuân chưa có ai khai


6
thác chủ đề này. Vì vậy, chúng tơi chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý
nâng cao hiệu quả hoạt động tại các trung tâm HTCĐ huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh” để nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng hoạt động của các
TTHTCĐ, từ đó đề xuất một số giải pháp quản lý có tính khả thi nhằm phát
triển các trung tâm HTCĐ các xã, thị trấn tại huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động các TTHTCĐ.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động các trung
tâm HTCĐ huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Hiện nay, hoạt động của các trung tâm HTCĐ còn nhiều bất cập,
chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội, do đó nếu đề xuất được một số giải
pháp quản lý phù hợp sẽ phát triển bền vững các trung tâm HTCĐ, góp
phần đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh.
5. NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết ba nhiệm
vụ chính sau đây:
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý các trung tâm HTCĐ.

5.1.2 Khảo sát các thực trạng quản lý các trung tâm HTCĐ ở huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.


7
5.1.3 Đề xuất một số giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động các
trung tâm HTCĐ huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
5.2 Giới hạn nghiên cứu
Đối với trung tâm HTCĐ, khả năng điều hành quản lý của chủ nghiệm
trung tâm và năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên là
những yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững của các trung tâm HTCĐ.
Đề tài nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp quản lý cụ thể nhằm phát triển
bền vững các trung tâm HTCĐ trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
(tập trung vào các mặt nâng cao năng lực quản lý của chủ nhiệm, bồi dưỡng
năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên, tổ chức hiệu quả
các hoạt động của trung tâm HTCĐ...)
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Sưu tầm sách báo, tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của
đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
6.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ khác
Xử lý số liệu thu thập được bằng thống kê tốn học.
7. NHỮNG ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN VĂN
7.1. Đóng góp về phần lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận của vấn đề quản lý

các TTHTCĐ, một phương thức giáo dục thường xuyên còn khá mới mẻ trên
địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.


8
7.2. Đóng góp về phần thực tiễn
Luận văn đã góp phần xây dựng và đề xuất một số giải pháp khả thi để
áp dụng vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
TTHTCĐ trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Kiến nghị, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Chương 3. Một số giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động của
các TTHTCĐ huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.


9

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Sự phát triển trung tâm học tập cộng đồng ở một số quốc gia trên
thế giới
- Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những nước có lịch sử lâu đời về giáo dục khơng
chính quy. Vào thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 ở Nhật Bản đã có khoảng 15.000
trung tâm HTCĐ ở tại các thơn, xã, gọi là TERAKOYA (TERA là đình, chùa;
TERAKO là học viên học tại các lớp ở đình chùa, TERAKOYA là nơi học
tập quy mô nhỏ ở cộng đồng - Trung tâm HTCĐ).

Sau Thế chiến thứ II, Bộ Giáo dục Nhật Bản sáng tạo một mơ hình
cơ sở giáo dục mới, gọi là Kô-min-kan (Trung tâm HTCĐ). Ngày 5/7/1946,
Bộ Giáo dục đã có thơng báo khuyến khích thành lập Kơ-min-kan. Thơng
báo khẳng định tiếp: "Cần hình thành các Kơ-min-kan tại mọi làng, xã như một ngôi nhà của công dân - nơi mà nhân dân trong làng, xã có thể đến
bất cứ lúc nào; có thể là nơi đọc sách, trao đổi tranh luận; là nơi mà đơi lúc
có thể tiếp nhận sự giúp đỡ của người khác về các vấn đề sinh sống của cá
nhân hay các vấn đề liên quan đến cơng việc. Mọi người có thể thiết lập
mối quan hệ ngày càng mật thiết với nhau, tại đó, nơi mà cùng một lúc có
nhiều chức năng như là một trường học công dân, một thư viện, một nhà
bảo tàng, một hội trường, một nhà sinh hoạt cộng đồng của làng, xã. Đây
cũng là nơi sinh hoạt của nhiều tổ chức xã hội khác nhau như Đoàn thanh
niên, Hội phụ nữ,....".
Kô-mi-kan không những được thành lập do yêu cầu của dân mà còn
được dân tham gia quản lý. Về kinh phí hoạt động, ngồi sự hỗ trợ phần nào


10
của nhà nước, chủ yếu là do uỷ ban địa phương tự lo. Bên cạnh các văn bản
pháp quy để thể chế hố việc hình thành Kơ-mi-kan do Chính phủ ban hành,
cịn có phong trào quần chúng diễn ra trên cả nước để thành lập Kô - mi-kan
với khẩu hiệu: Lập Kơ-mi-kan trước tiên để xây dựng làng, xã. Chính nhờ chủ
trương đúng đắn trên và phong trào quần chúng sôi nổi ấy mà Kô-mi-kan đã
trở thành một hệ thống phát triển rộng khắp đất nước Nhật Bản. Hiện nay,
trên tồn quốc Nhật Bản có khoảng 18 nghìn Kơ-mi-kan, phủ khắp 90% tổng
số thành phố, thị trấn, làng, xã. Kô-mi-kan tại các thành phố, thị trấn, làng, xã
như là một trung tâm văn hoá tại địa phương.
- Thái Lan:
Từ năm 1977, Thái Lan thực hiện dự án phát triển giáo dục khơng
chính quy trong khn khổ của giáo dục suốt đời. Dự án đã xây dựng lại hệ
thống các cơ sở giáo dục khơng chính quy cho người lớn như sau:

Xây dựng 5 trung tâm nghiên cứu và phát triển tại 5 vùng.
Xây dựng mạng lưới các trung tâm giáo dục khơng chính quy cấp tỉnh
(6 tỉnh) và khoảng 700 trung trung tâm giáo dục khơng chính quy các huyện.
Xây dựng mạng lưới, gồm hơn 6.000 các trung tâm HTCĐ cấp xã hoặc
liên xã. Các TT HTCĐ cấp xã tại Thái Lan chịu sự quản lý của dân làng.
- Ấn Độ
Từ năm 1988, Chính phủ ấn Độ quyết định thành lập hàng loạt các trung
tâm học tập trong cả nước nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho sau XMC và GDTX.
Các trung tâm học tập này được coi là nơi triển khai chính thức
các chương trình sau XMC và GDTX. Cứ 4-5 làng (khoảng 5.000 dân)
có một 1 RHT.


11
- Myanmar
Mơ hình trung tâm HTCĐ được xây dựng tại Myanmar từ năm 1994.
Được sự trợ giúp của UNDP, UNESCO và các tổ chức phi chính phủ khác,
đến nay Myanmar đã có 480 trung tâm HTCĐ.
Trung tâm HTCĐ tại Myanmar được xác định là một cơ sở giáo dục tại
một làng xã, nằm ngồi hệ thống giáo dục chính quy, được thành lập và quản
lý bởi nhân dân địa phương, cung cấp cho nhân dân những cơ hội học tập đa
dạng nhằm phát triển và cải thiện chất lượng cuộc sống. Trung tâm HTCĐ là
của cộng đồng, cho cộng đồng và vì cộng đồng.
1.1.2. Sự phát triển trung tâm HTCĐ Ở Việt Nam
Tháng 4/1997, nhằm khuyến khích, huy động và tạo điều kiện cho toàn
xã hội tham gia phát triển giáo dục, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi lứa tuổi,
mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời, tiến tới một xã hội học
tập, Chính phủ Việt Nam chủ trương củng cố và mở thêm các cơ sở giáo dục
thường xuyên như Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm dạy nghề,
Trung tâm học tập cộng đồng…

Những trung tâm này sẽ có chức năng như một địa điểm phục vụ cho
nhiều mục đích khác nhau: dạy chữ, dạy kỹ năng sống và đào tạo kỹ năng tạo
thu nhập, cũng là Trung tâm học tập và sinh hoạt văn hoá.
Được Tổ chức UNESCO Nhật Bản và Bangkok nhiệt tình giúp đỡ.
Trung tâm XMC và GDTX thuộc Viện Khoa học giáo dục đã thử nghiệm tại
các xã Cao Sơn (Hồ Bình), Pú Nhung (Lai Châu), Việt Thuận (Thái Bình) và
An Lập (Bắc Giang). Sau thí điểm có kết quả, từ đầu năm 1999, Bộ GD&ĐT
đã mở rộng mơ hình trung tâm HTCĐ ở các tỉnh thành phố khác. Các tổ chức
quốc tế - như Hiệp hội Quốc gia và các tổ chức UNESCO Nhật Bản (NFUAJ)
đã giúp 2 tỉnh Lai Châu, Điện Biên xây dựng 40 trung tâm HTCĐ và 3 trung
tâm GDTX (2000 - 2003); giúp đỡ 8 tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn,


12
Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, Lào Cai và Sơn La mỗi tỉnh một trung tâm
HTCĐ. UNESCO Hà Nội giúp 5 tỉnh Tây Nguyên (Kông Tum, Gia Lai, Đắc
Lắc, Đắc Nơng, Lâm Đồng) và Bình Phước mỗi tỉnh 1 trung tâm HTCĐ. Các
trung tâm HTCĐ phát triển rất nhanh, từ 15 trung tâm năm 1999 đến tháng 8
năm 2008, cả nước đã có 9010 trung tâm HTCĐ/10933 xã, đạt tỷ lệ 82% xã,
bản, phường, thị trấn trong cả nước. Đặc biệt các tỉnh đạt 100% số xã,
phường, thị trấn có trung tâm HTCĐ (Thái Bình, Ninh Bình, Phú Thọ, Bắc
Ninh, Nam Định, Vĩnh Phúc, TP Đà Nẵng, Hải Dương và Đồng Tháp).
Qua thực tiễn hoạt động của các trung tâm HTCĐ trong cả nước
nhiều cấp uỷ Đảng, chính quyền ở các tỉnh, thành phố đã khẳng định rằng:
Trung tâm HTCĐ là cơng cụ quan trọng góp phần ổn định tình hình chính
trị, thúc đẩy cơng cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Trung tâm
HTCĐ đã và đang trở thành trường học của nhân dân lao động, là cơ sở
quan trọng để xây dựng xã hội học tập từ cơ sở. Trung tâm HTCĐ đã góp
phần đẩy mạnh việc củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
XHH - phổ cập giáo dục tiểu học, nâng tỷ lệ giáo dục tiểu học đúng độ tuổi

và tăng tỷ lệ người biết chữ.
Các trung tâm HTCĐ đã góp phần giúp người lao động biết cách xố
đói, giảm nghèo, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, phấn đấu làm
giàu chính đáng thơng qua việc truyền nghề và dạy nghề ngắn hạn
- Về chăn nuôi: Nhiều chuyên đề mới đã được ứng dụng và được thực
tiễn đúc rút thành những bài học quý như nuôi ba ba thịt, ba ba giống; ni
heo, bị, ong, cá bằng phương pháp áp dụng công nghệ mới ở tỉnh Đồng Nai.
Rất nhiều trung tâm HTCĐ đã giúp bà con nông dân ni tơm, lợn hướng nạc,
gà siêu trứng, bị sữa...
- Về trồng trọt: Phổ biến những tiến bộ kĩ thuật được cộng đồng chú ý
như giống mới, phương pháp phòng trừ sâu bệnh cho lúa, ngô, cây ăn quả.


13
Những giống lúa mới và phương pháp phun thuốc trừ sâu cho lúa được giới
thiệu tại trung tâm HTCĐ qua các hình thức tập huấn (như ở Nghĩa Thắng
-Nam Định, Quảng Xương, Tĩnh Gia - Thanh Hố). Có những cộng đồng
mạnh dạn trồng rau sạch cung cấp cho thành phố (Yên Dũng - Bắc Giang)
hoặc trồng mai vàng cung cấp cho cả nước (phường Thạch Lộc - Tp. Hồ Chí
Minh). Mỗi địa phương khác nhau, có cách làm, cách nghĩ khác nhau để nâng
cao hiệu quả cây trồng.
- Về nghề thủ công: Trung tâm HTCĐ tiếp thu học nghề để trở thành
chuyên gia về sản xuất mây tre đan; sản xuất muối tinh khiết với công nghệ
đơn giản nhưng giá trị gấp 3 lần muối thô (Tĩnh Gia - Thanh hoá); hướng dẫn
người khiếm thị dệt vải (quận 12 - Tp. Hồ Chí Minh). Trung tâm HTCĐ góp
phần thúc đẩy việc thực hiện của cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá" ở cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình xây
dựng và phát triển trung tâm HTCĐ cịn có nhiều khó khăn, yếu kém và bất
cập, cụ thể: đây là hình thức học tập mới được tổ chức tại nước ta, nên chưa

có danh mục để đầu tư từ ngân sách nhà nước. Đây là trở ngại rất lớn trong
quá trình xây dựng cơ sở vật chất, cung cấp tài liệu và trang thiết bị học tập.
Hoạt động của các trung tâm HTCĐ được duy trì chủ yếu dựa vào tinh
thần trách nhiệm của ngành GD&ĐT, của Hội Khuyến học và chính quyền
địa phương cũng như lịng nhiệt tình của người dạy và người học.Trung tâm
HTCĐ phát triển chưa đều, mới phát triển ở các vùng ven đô, đồng bằng và
trung du. Tại các thành phố, thị xã hoặc vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, các
trung tâm này chưa phát triển.
Một số trung tâm HTCĐ hoạt động chưa có hiệu quả, nội dung và hình
thức tổ chức học tập cho người lao động còn nghèo nàn. Mặt khác, do chưa có
cơ chế phối hợp, phân rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành từ trung ương


14
đến các đơn vị cơ sở nên nhiều ngành, tổ chức xã hội chưa có trách nhiệm hỗ
trợ cho các trung tâm HTCĐ hoạt động.
1.2 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Trung tâm học tập cộng đồng:
Trung tâm HTCĐ là cơ sở giáo dục thường xuyên trong hệ thống giáo
dục quốc dân, là trung tâm học tập tự chủ của cộng đồng cấp xã, có sự quản
lý, hỗ trợ của Nhà nước; đồng thời phải phát huy mạnh mẽ sự tham gia, đóng
góp của nhân dân trong cộng đồng dân cư để xây dựng và phát triển các trung
tâm theo cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Nhiệm vụ của TTHTCĐ:
+ Tổ chức thực hiện có hiệu quả cơng tác XMC và giáo dục tiếp tục sau
khi biết chữ, củng cố chất lượng PCGD; tăng cường công tác tuyên truyền,
phổ biến kiến thức nhằm mở rộng hiểu biết, nâng cao nhận thức và cải thiện
chất lượng cuộc sống của nhân dân trong cộng đồng; phối hợp triển khai các
chương trình khuyến cơng, khuyến nơng, khuyến ngư và các dự án, chương
trình tại địa phương.

+ Tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, TDTT, đọc sách
báo, tư vấn, khuyến học, giáo dục cho con em nhân dân phòng chống tệ nạn
xã hội.
+ Điều tra nhu cầu học tập của cộng đồng, xây dựng nội dung và hình
thức học tập phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nhóm đối tượng.
+ Quản lý tài chính, CSVC, trang thiết bị của trung tâm theo qui định
của pháp luật.
1.2.2. Các hoạt động giáo dục của TTHTCĐ.
Chương trình giáo dục, kế hoạch học tập:
+ TTHTCĐ thực hiện các chương trình giáo dục qui định tại khoản 1,
điều 4 của qui chế.


15
+ Giám đốc TTHTCĐ xây dựng kế hoạch dạy học và thời gian biểu cụ
thể phù hợp với từng chương trình giáo dục.
Tài liệu học tập: TTHTCĐ sử dụng tài liệu do các Bộ, Ngành, các cơ
quan chức năng có liên quan biên soạn; các tài liệu địa phương do Sở
GD&ĐT và các cơ quan chun mơn có thẩm quyền qui định hoặc tài liệu do
các nhà chun mơn có kinh nghiệm biên soạn.
Tổ chức lớp học:
+ Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, các lớp XMC, củng cố
chất lượng PCGD được tổ chức tại TTHTCĐ hoặc các thơn, xóm có đủ điều
kiện để tổ chức lớp học.
+ Các lớp học khác tùy theo nội dung chương trình giáo dục được tổ
chức tại các địa điểm và thời gian phù hợp.
Công nhận kết quả học tập.
+ Học hết chương trình XMC và giáo dục tiếp tục sau khi bết chữ qui
định tại khoản 1 Điều 4 của Quy chế, nếu đủ điều kiện theo qui định của Bộ
trưởng Bộ GD& ĐT thì được TTGDTX cấp huyện cấp chứng chỉ.

+ Học hết các chương trình khác qui định tại khoản 1 Điều 4 Quy chế
thì tùy theo nội dung, thời gian học, Giám đốc TTHTCĐ xác nhận kết quả
học tập.
1.2.3. Tính chất giáo dục của TTHTCĐ.
- Đây là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân đáp ứng nhu cầu “cần
gì học nấy”, “học để làm ngay”, “vừa học vừa làm” một cách thường xuyên,
liên tục, học suốt đời của cán bộ và các tầng lớp nhân dân.
- Đây là nền giáo dục phổ cập.
- Đây là nền GD hết sức đa dạng về nội dung, về hình thức tổ chức.
- Trong quá trình giáo dục ln diễn ra sự kết hợp hài hồ giữa giáo
dục và đời sống của người dân.


16
1.2.4. Mục tiêu của TTHTCĐ.
TTHTCĐ được thành lập nhằm cung cấp cơ hội học tập cho mọi người
trong xã, phường, thị trấn để: Phát triển nguồn nhân lực; cải thiện đời sống và
phát triển cộng đồng; xây dựng XHHT và góp phần thực hiện sự nghiệp phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Xã, phường, thị trấn là đơn vị
hành chính cuối cùng trong hệ thống tổ chức nhà nước, là cấp trực tiếp nhất,
gần dân nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nền tảng của mọi công
tác là cấp xã" [ 34.Tr. 458] và “ cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của
hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi ” [33.Tr.
371]. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nơi cụ thể hoá thực hiện các chỉ
tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ về các mặt chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc
phịng an ninh, trật tự an tồn xã hội. Ở đây mọi thành viên gắn bó mật thiết
bằng sinh hoạt cộng đồng, dịng họ, ln ln phát huy truyền thống cố kết, ý
thức tự lực, tự cường, lòng yêu quê hương đất nước, thực sự là nền tảng của
xã hội có tính bền vững cao.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới thu
được nhiều kết quả tốt đẹp đã làm cho bộ mặt nơng thơn có sự thay đổi đáng
kể về mọi mặt theo hướng hiện đại hoá. Tuy nhiên, một bộ phận nhân dân
trình độ thấp, năng lực cịn hạn chế, tư tưởng còn lạc hậu, chưa tiến bộ, đời
sống còn thấp kém. Việc bổ sung kiến thức, năng lực là việc làm cần thiết đặc
biệt là sự thay đổi trong nhận thức để tìm ra cách đi mới, cách làm mới cho
theo kịp thời đại.
Chương trình tạo thu nhập (TTN) là một loại chương trình GDTX giúp
người học tiếp thu hoặc nâng cao các kỹ năng nghề nghiệp để họ tiến hành
những hoạt động tạo thu nhập. Mục đích chính của chương trình TTN là cải


17
thiện chất lượng cuộc sống cho những người tham gia chương trình. Trọng
tâm của chúng ta là xố đói, giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực.
Các chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống có ý nghĩa đặc biệt vì
nó liên quan trực tiếp đến việc cải thiện, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần
cho người lao động; xây dựng môi trường trong sạch; tăng cường sức khoẻ
cho cá nhân, cho cả cộng đồng; tạo sự phát triển kinh tế - xã hội có kế hoạch.
Xây dựng XHHT là một xã hội mọi người đều được học hành bằng hình thức
giáo dục chính quy, khơng chính quy và tự học ở trong nhà trường và ngoài
nhà trường, học thường xuyên, học suốt đời, học chữ, học nghề, học làm
người, học để biết, học để làm việc, để chung sống, để phát triển cá nhân và
cộng đồng. Đồng thời, mỗi người đều có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp
phần xây dựng, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Góp phần thực hiện
sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương.
TTHTCĐ là nơi nhân dân ai cũng được đến đó để học chữ, học nghề,
được tập huấn kỹ thuật, nghe phổ biến các kiến thức phổ thông để ăn ở, vệ
sinh, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, gia đình sống hồ thuận hạnh phúc…
Học tập được kiến thức, thái độ và kỹ năng cần thiết để nâng cao chất lượng

cuộc sống của mình, góp phần nâng cao mức sống trong xã hội, làm giàu đẹp
cho quê hương.
1.2.5. Nội dung và phương pháp học tập ở các TTHTCĐ.
1.2.5.1 Nội dung.
Ở TTHTCĐ người dân học những nội dung gì? Đây là vấn đề khơng
nhỏ đặt ra cho mỗi trung tâm. Với phương châm “cần gì học nấy”, “ học để
làm ngay”, trên cơ sở thực tiễn của từng địa phương để có những lựa chọn nội
dung học tập cho phù hợp. Tuy nhiên, ta có thể khái quát vào năm nhóm chức
năng sau đây:


18
Nhóm thứ nhất là "học văn hóa" bao gồm học chương trình XMC, sau
XMC, bổ túc văn hóa.
Nhóm thứ hai là "chuyển giao" bao gồm bồi dưỡng, cập nhật những kiến
thức về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, chuyển giao cơng nghệ, chia sẻ kinh
nghiệm sản xuất.
Nhóm thứ ba là "cung cấp thông tin" bao gồm phổ biến thông tin thời
sự, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến và giải thích
Pháp luật.
Nhóm thứ tư là "nâng cao chất lượng cuộc sống" bao gồm sinh hoạt văn
hoá, văn nghệ, thể thao, tư vấn những vấn đề về sức khoẻ, nghề nghiệp, bảo
vệ mơi trường, cuộc sống,....
Nhóm thứ năm là "học nghề" chủ yếu nghề thủ công ( mây tre đan,
thêu ren, làm chiếu), nghề chăn nuôi (ni trâu, bị, dê, ni gà, ni vịt, ni
cá, trồng rừng, trồng cây công nghiêp ngắn ngày...).
Những nội dung trên phù hợp với nhu cầu học tập của các loại đối
tượng trong cộng đồng dân cư, đáp ứng nhu cầu hiểu biết để nâng cao chất
lượng cuộc sống. Trong chương trình đó, một người có thể học đồng thời
nhiều nội dung.

Nội dung học tập được thể hiện qua một số chương trình học tập sau:
Chương trình tương đương nhằm nâng cao trình độ văn hố ứng với các
lớp phổ thơng, nhằm cung cấp những kiến thức hành dụng để người học vận
dụng vào sản xuất, đời sống hàng ngày nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống,
góp phần thực hiện các mục tiêu KT - XH của cộng đồng, đất nước. Đó là các
chương trình XMC, BTVH tiểu học, THCS, tin học, ngoại ngữ thơng dụng.
Chương trình tạo thu nhập nhằm giúp người lao động biết cách xố đói,
giảm nghèo, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, phấn đấu làm giàu


19
chính đáng thơng qua việc tư vấn, chuyển giao khoa học cơng nghệ, truyền
nghề và dạy nghề ngắn hạn.
Chương trình học theo sở thích nhằm khuyến khích và tăng cường các
hoạt động học tập để làm tăng khả năng của mỗi người trong việc sử dụng
thời gian, cải thiện cuộc sống và tự khẳng định mình.
Chương trình định hướng tương lai nhằm cung cấp cho nông dân, công
nhân, các nhà chuyên môn, các nhà lãnh đạo, các doanh nhân, những người
lập kế hoạch... những kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật mới, làm cho họ thích ứng
được với những biến đổi nhanh chóng về cơng nghệ trong thời đại ngày nay.
1.2.5.2. Phương pháp học tập.
Giảng dạy ở TTHTCĐ thường tập trung cho đối tượng người lớn. Vì
vậy cần phải áp dụng các nguyên tắc học tập cho người lớn trong giảng dạy,
đó là phát huy tối đa những kinh nghiệm của học viên với sự tham gia tích
cực của người học trong q trình học tập. Cũng khơng nên q đề cao sự
tham gia của học viên mà coi nhẹ vai trị dẫn dắt, gợi ý của giảng viên. Điều
đó có nghĩa là cần có sự tương tác tích cực giữa người dạy và người có học
trong một mơi trường học tập năng động.
Khơng có phương pháp nào là tuyệt đối trong giảng dạy học tập cộng
đồng. Do vậy, việc giảng dạy tại TTHTCĐ, cần sử dụng nhiều phương pháp

khác nhau tuỳ theo mục tiêu học tập. Vì vậy trong cùng một thời gian cần
phối hợp nhiều phương pháp nhằm phát huy ưu điểm cũng như hạn chế tối đa
nhược điểm của từng phương pháp. Liên kết và phối hợp là phương thức hoạt
động chủ yếu của TTHTCĐ. Đối tượng đến học tập tại TTHTCĐ là mọi
người dân có thể là cá nhân hay một nhóm đại diện cho một tổ chức, thuộc
mọi tầng lớp xã hội, mọi trình độ văn hoá từ mù chữ đến sau đại học. Họ
tham gia các hình thức học tập tuỳ theo nhu cầu cá nhân,cần gì học nấy.
1.2.5.3. Hình thức học tập.


20
Phương thức hoạt động và đối tượng người học phong phú và đa dạng
như vậy, nên các hình thức tổ chức hoạt động của TTHTCĐ rất đa dạng, linh
hoạt, mềm dẻo để tạo điều kiện tốt nhất cho người học theo các hình thức sau:
Học tập khơng theo cấp lớp, trình độ văn hố, lứa tuổi, giới tính: Các
buổi nói chuyện; các lớp học theo chuyên đề; các lớp tập huấn chuyển giao
ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội, hướng nghiệp; Hội thảo đầu bờ (tại chỗ); các hội thảo, trao đổi kinh
nghiệm về các chủ đề khác nhau; các câu lạc bộ; Tham quan thực tế; tổ chức
hội thi, giao lưu văn hố,…
Các lớp học theo cấp, lớp, có qui chế chặt chẽ để lấy văn bằng, chứng
chỉ như: các lớp XMC, BTVH, học nghề, ngoại ngữ, tin học…
Các buổi tư vấn về giáo dục, khuyến học, tự học, giáo dục từ xa,
khuyến nông - lâm - ngư nghiệp... với những cá nhân, gia đình hay nhóm dân
cư có nhu cầu.
Tóm lại, việc học tập ở các TTHTCĐ với nhiều loại đối tượng, đa dạng
về nội dung, phong phú về hình thức học tập với mục tiêu cuối cùng là nhằm
trang bị cho học viên những kiến thức, thái độ và kỹ năng cần thiết để họ có
khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống của mình, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của toàn xã hội.

1.2.6 Giáo dục khơng chính quy
"Uỷ ban quốc tế về phát triển giáo dục năm 1972 đã đưa ra định nghĩa
giáo dục khơng chính quy như sau: "Giáo dục khơng chính quy có chức năng
đa dạng: Nó thay thế giáo dục ban đầu cho những người thất học, nó bổ sung
giáo dục cơ sở cho những người có trình độ văn hố thấp. Nó kéo dài thêm
thời kỳ học tập của những người học để đáp ứng những yêu cầu mới của cuộc
sống và sản xuất, nó hồn thiện thêm sự giáo dục cho những người có học vấn
cao, nó là phương thức phát triển và hoàn thiện nhân cách [1, tr125].


21
Theo Điều 40, mục 5 Luật Giáo dục Việt Nam (năm 1998), Giáo dục
khơng chính quy được hiểu: "Giáo dục khơng chính quy là phương thức giáo
dục giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, suốt đời nhằm hồn thiện
nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp
vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm và thích nghi với đời sống
xã hội".
Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trong khu vực:
Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia, Bangladesh, Pakistan, Campuchia
Nepal, Lào, và gần đây là ở Việt Nam, giáo dục khơng chính quy chỉ những
chương trình ngồi hệ thống giáo dục chính quy. Ở nước ta hiện nay trong các
văn kiện, thuật ngữ "Giáo dục khơng chính quy" cần được hiểu bao gồm cả
giáo dục phi chính quy.
Ở Việt Nam, thuật ngữ giáo dục chính quy - giáo dục khơng chính quy
được xem xét như sau:
BẢNG 1. MỘT SỐ NỘI DUNG KHÁC NHAU GIỮA GDCQ, GDKCQ
STT
1

2


3

4

Dấu hiệu
GIÁO DỤC CHÍNH QUY
so sánh
Học để thu nhận những kiến
Mục tiêu thức, kĩ năng sử dụng suốt đời
và lấy giấy chứng nhận
Đối
Quy định chặt chẽ theo lứa
tượng và
tuổi của từng bậc học, cấp
lứa tuổi
học, ngành học.
học
Học tập trung toàn bộ thời
Khung
gian ở nhà trường. Cần thời
thời gian,
gian dài để lấy giấy chứng
địa điểm
nhận.
Chương Có khung pháp lý ứng với cấp
trình trình độ, học vị.

GIÁO DỤC KHƠNG
CHÍNH QUY

Học để thu nhận những kiến
thức, kĩ năng sử dụng và lấy
giấy chứng nhận hoặc không
cần giấy chứng nhận.
Không quy định khung tuổi
cho các đối tượng của từng
bậc học, cấp học, ngành học
(đa dạng, không đồng đều)
Học có thể khơng tập trung.
Có thể học ở nhà trường, cơ
sở GDKCQ. Thời gian đứt
quãng, tiếp tục suốt đời.
Khơng có tính học vị nhưng
lại thích ứng với nhu cầu của
nhóm đối tượng, có tính hành
dụng. Cần gì học nấy.


22

5
6

7
8

Có tính thể chế chặt chẽ với
Phương
hệ quyền hành giữa giảng viên
pháp

và học viên
Có tính thể chế chặt chẽ với
Quy mô pháp chế nhà nước, chỉ tiêu
phân bổ.

Mềm dẻo, linh hoạt, đề cao tự
học tự nghiên cứu.

Mềm dẻo, linh hoạt thích ứng
cao với từng phương thức học
tập cụ thể.
Nhà nước bao cấp hoặc nhà
Tài chính
Nhà nước bao cấp: Đơn vị sự nước bao cấp một phần: Đơn
và cơ sở
nghiệp.
vị sự nghiệp, đơn vị sự nghiệp
vật chất
có thu.
Kiểm
Linh hoạt tùy tình huống
Quan hệ từ trên xuống dưới
soát
nhưng phần lớn là tự đề xuất.

1.2.7. Quản lý giáo dục
1.2.7.1. Quản lý
Trong quá trình xây dựng lý luận quản lý, định nghĩa quản lý được
nhiều nhà nghiên cứu lý luận, cũng như thực hành quản lý đưa ra. Khi nêu
ra các định nghĩa về quản lý, các tác giả thường gắn với các loại hình quản

lý cụ thể.
- Chẳng hạn W. Taylor, người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động
đã nêu: "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm
cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất".
- Nhà lý luận kinh tế người Pháp A. Fayon cho rằng: "Quản lý là đưa xí
nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất các nguồn lực (nhân, tài, vật lực)
của nó".
- Một số tác giả nghiên cứu về quản lý hệ thống tổ chức nhà nước lại
cho rằng: "Quản lý là quá trình vận hành của chính quyền".
1.2.7.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm
vi trách nhiệm của mình, tức là đưa cơ sở giáo dục vận hành theo nguyên lý


23
giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục
với thế hệ trẻ và với từng học sinh.
1.3. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG
ĐỒNG
1.3.1. Giáo dục thường xuyên
Giáo dục thường xuyên được hiểu một cách khái quát là "cung ứng cơ
hội cho mọi người để học tập suốt đời nhằm thúc đẩy tài nguyên con người
thông qua các chương trình xố mù chữ, chương trình tương đương, chương
trình nâng cao chất lượng cuộc sống, chương trình tạo thu nhập, chương trình
đáp ứng sở thích cá nhân, chương trình định hướng tương lai". Với quan niệm
này, giáo dục thường xuyên đồng nghĩa với giáo dục tiếp tục, tức là mở rộng
chủ yếu của xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học nhằm thúc đẩy tài
nguyên Người, giáo dục thường xuyên có chức năng thay thế, tiếp nối, bổ
sung và hồn thiện kiến thức cho giáo dục chính quy.
Giáo dục thường xuyên được xem xét như một bộ phận giáo dục quốc

dân bên cạnh giáo dục chính quy.
Giáo dục thường xuyên vẫn được sử dụng trong các văn bản chính
thống, tên gọi của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục như: Vụ Giáo dục
thường xuyên, Phòng Giáo dục thường xuyên...
Theo Uỷ ban Văn hoá - Khoa học giáo dục liên hợp quốc khu vực châu
Á - Thái Bình Dương - UNESCO: "Giáo dục thường xuyên là một khái niệm
rộng rãi bao gồm tất cả các cơ hội học tập cho mọi người có mong muốn và
nhu cầu sau xoá mù chữ cơ bản hoặc giáo dục Tiểu học". Theo quan niệm này
giáo dục thường xuyên là một khái niệm rộng, bao gồm cả giáo dục chính
quy, giáo dục khơng chính quy và giáo dục phi chính quy. GDTX khơng bao
gồm xố mù chữ cơ bản mà chỉ dành cho người lớn hoặc thanh niên đã biết
chữ và có nhu cầu học hỏi sau khi biết chữ hoặc tương đương tiểu học.


24
Chương trình giáo dục thường xuyên được sắp xếp thành 6 loại:
Chương trình sau xố mù; chương trình tương đương; chương trình tạo thu
nhập; chương trình đáp ứng sở thích cá nhân; chương trình nâng cao chất
lượng cuộc sống và chương trình hướng tới tương lai.
Đối tượng của giáo dục thường xuyên là rất lớn, bao gồm tất cả những
người đã, đang hoặc cả những người khơng có cơ hội ngồi trên ghế nhà
trường, miễn là người đó cần có nhu cầu học tập.
Giáo dục thường xuyên phải cung ứng một hệ thống giáo dục mềm dẻo
linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của người học.
Tại Hội thảo về chiến lược phát triển giáo dục thường xuyên đến
năm 2020, báo cáo của Vụ Giáo dục thường xuyên - Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã nêu: “Giáo dục thường xuyên được hiểu một cách khái quát là cung
ứng cơ hội cho mọi người để học tập suốt đời nhằm thúc đẩy tài nguyên con
người thông qua các chương trình xố mù chữ, chương trình tương đương,
chương trình nâng cao chất lượng cuộc sống, chương trình tạo thu nhập,

chương trình đáp ứng sở thích cá nhân, chương trình định hướng tương lai".
Với quan niệm này, GDTX đồng nghĩa với giáo dục tiếp tục, tức là mở
rộng chủ yếu của XMC và PCGDTH nhằm thúc đẩy sự phát triển tài nguyên
con người. GDTX có chức năng thay thế, tiếp nối, bổ sung và hồn thiện kiến
thức cho giáo dục chính quy.
1.3.2 Vị trí, vai trị của TTHTCĐ trong hệ thống giáo dục thường xuyên
Trước đây, khi nói tới giáo dục, chỉ đề cập đến "giáo dục chính quy''.
Chính quan niệm này làm cho người ta quá nhấn mạnh vào việc chính thức đi
học ở nhà trường và tương đối coi nhẹ "giáo dục khơng chính quy". Trên thực
tế "giáo dục chính quy" chỉ chiếm 20% thời gian học tập của một cuộc đời.
Những chương trình do các cơ quan GDCQ cung cấp chỉ là một trong những
nguồn có thể lựa chọn. Một số người có thể tiếp tục GDCQ một vài năm ngay


25
sau khi học xong tiểu học. Một số người muốn tìm kiếm giáo dục từ những
nguồn khác nhau như những chương trình tương đương của GDKCQ rồi trở
lại GDCQ. Một số người cịn có thể học rất muộn ở các cơ sở GDKCQ... Bởi
vậy, cần phải có cách nhìn rộng hơn về giáo dục, phải coi việc đi học ở nhà
trường chỉ là một trong nhiều cách lựa chọn và phải tiếp tục học tập suốt đời
Một trong những mục tiêu then chốt của "Giáo dục thường xuyên" là khuyến
khích phát triển giáo dục phi chính quy sao cho những người lớn có thể đề ra
và theo đuổi bất kỳ đề án giáo dục nào mà họ mong tiến hành, khơng bị lệ
thuộc vào những giáo trình hoặc chương trình chính quy hay khơng chính
quy, do những tổ chức hay trường học cung cấp. Nó cho chúng ta thấy mỗi
con người có thể thực hiện sự "giáo dục thường xuyên" một cách chính quy,
khơng chính quy hoặc phi chính quy tuỳ theo nhu cầu và điều kiện.
Giáo dục chính quy vẫn là một bộ phận quan trọng của việc học tập
suốt đời Nhưng chính các hệ thống giáo dục khơng chính quy và phi chính
quy mới tạo nên đại bộ phận kinh nghiệm học tập của người lớn.

Nhìn chung, người lớn dành thời gian cho giáo dục chính quy ít
hơn rất nhiều so với thời gian dành cho các hoạt động khác về giáo dục
thường xuyên.
Ngày nay con người, bất kể ai, khơng chỉ có học một lần, mà phải học
tiếp tục, học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Học để biết, để làm và để
hoà nhập vào cuộc sống chung. Đây cũng là một trong những tư tưởng chỉ
đạo phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hóa
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII đã khẳng định: "mọi người
đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học".
Với ý nghĩa trên, "Giáo dục thường xun" khơng chỉ cịn là quan niệm
mà đã trở thành tư tưởng của thời đại về giáo dục. Để tư tưởng "mọi người đi


×