Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tài liệu Liên Hiệp Quốc - ESCAP: Hội thảo tập huấn về hỗ trợ và xúc tiến đầu tư docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.85 KB, 10 trang )

Hội thảo Tập huấn về Xúc tiến và Hỗ trợ Đầu tư,
Bài 1 Trang 1
Liên Hiệp Quốc – ESCAP

Hội thảo tập huấn về Hỗ trợ và Xúc tiến Đầu tư

Bài 1

“Bối cảnh: Xu hướng đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới, Cạnh tranh và
Chức năng Xúc tiến Đầu tư”



Trình bày

Asia Policy Research Co., Ltd., 2003



1. Xu hướng Kinh doanh và Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) trên thế giới và trong khu vực;
Vai trò của Hiệp định Mậu dịch Tự do Asian (AFTA): Những ảnh hưởng đối với Khu
vực Đông Dương

Dưới cả hai quan điểm kinh doanh và chính trị, bất kỳ chiến lược xúc tiến đầu tư nào cũng phải
được thiết lập để thích ứng với những xu hướng kinh tế và thương mại hiện tại trong khu vực và
trên toàn thế giới. Và bất kỳ nỗ lực thúc đẩy tính cạnh tranh nào cũng phải liên quan đến việc tạo ra
môi trường kinh doanh cạnh tranh. Đánh giá sau đây về các xu hướng kinh doanh có ảnh hưởng
nhất trong khu vực và toàn cầu sẽ đưa ra bối cảnh trong đó sẽ thực hiện cuộc vận động tăng cường
các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đông Dương.

Toàn Cầu Hoá. Quá trình toàn cầu hóa, mức độ phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn của các nền kinh tế,


và sự tiến bộ trong kỹ nghệ truyền thông và vận tải là nguyên nhân của những tác động bên ngoài
lên các nền kinh tế, hệ thống chính trị, và xã hội. Những nền kinh tế không tham gia vào nền kinh tế
toàn cầu có nguy cơ bị bỏ lại đằng sau trên các phương diện tiềm năng tăng trưởng, khả năng tiếp
cận với công nghệ và đổi mới, bao gồm quá trình quản lý và phát triển dây chuyền sản xuất mới.
Toàn cầu hoá cũng đang tác động đến các hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp trên toàn thế
giới từ lâu đã ý thức về tầm quan trọng của các thị trường nước ngoài và tiếp cận các nhân tố sản
xuất nước ngoài để mở rộng và nâng cao hoạt động kinh doanh của họ. Tuy nhiên, sự thay đổi nhanh
chóng trong thị trường toàn cầu buộc các doanh nghiệp phải gia tăng quy mô, tiến độ, và tăng cường
các mối liên kết kinh tế toàn cầu để thể duy trì được tính cạnh tranh và vị thế trên thị trường.

Tự Do Hóa. Các quốc gia trên thế giới đang dần chấp nhận nhu cầu mở rộng thị trường của họ cho
các hàng hóa và dịch vụ nước ngoài để gia tăng hiệu quả qua việc giảm giá thành sản phẩm do sản
xuất với số lượng lớn, và có thể tiếp cận tốt hơn các nhân tố sản xuất cần thiết. Các hàng rào thuế
quan đang dần được tháo dỡ trong bối cảnh của hệ thống thương mại đa phương và theo lịch trình
của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), và các hiệp định thương mại khu vực như Khu vực Tự
do Mậu dịch ASEAN (AFTA), Hiệp Định Thương Mại Tự Do Bắc Mỹ (NAFTA), và các hiệp định
khác. Tự do hoá mang lại cả cơ hội lẫn thách thức. Cơ hội mở rộng thị trường, thu hút các công nghệ
mới, gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) cũng đem đến cạnh tranh khốc liệt hơn ở các thị
trường trong nước. Hoặc là các công ty nội địa phải thay đổi để trở nên cạnh tranh hơn trên thị
trường trong nước và toàn cầu hoặc là họ sẽ mất đi vị thế trước các công ty và sản phẩm từ nước
ngoài.

Các Thay Đổi Trong Xu Hướng Đầu Tư. Do thương mại thế giới bị đình trệ vào năm 1999, các
hoạt động của các công ty xuyên quốc gia đã gia tăng đáng kể, cụ thể là trong các cuộc sáp nhập và
mua lại (M&As), làm đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành động lực chính trong việc hội nhập kinh
tế quốc tế. Tuy nhiên, các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn cầu giảm khoảng 41% trong
năm 2001, và giảm tiếp 21% trong năm 2002 đến mức 351 tỷ đô la Mỹ. Thị phần của dòng đầu tư
Hội thảo Tập huấn về Xúc tiến và Hỗ trợ Đầu tư,
Bài 1 Trang 2
trực tiếp nước ngoài chảy vào của các quốc gia phát triển giảm từ 30-40% vào nửa đầu những năm

1990 xuống còn 25% trong năm 2002.

Để tranh thủ được các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nền kinh tế ở Đông Dương sẽ phải điều
chỉnh các nhân tố quyết định mới tác động dòng ĐTNN. Theo truyền thống thì các dòng đầu tư nước
ngoài bị hấp dẫn bởi các thị trường nội địa rộng lớn (thường được bảo vệ bằng các hàng rào thuế
quan cao), các nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, nhân công rẻ mạt với tay nghề trung bình hoặc
không có kỹ năng. Các xu hướng kinh doanh và kinh tế toàn cầu hiện tại cho thấy rằng các nhân tố
truyền thống này trong việc quyết định địa điểm của dòng đầu tư nước ngoài đã không còn quan
trọng như trước đây nữa, và thay vào đó là một loạt những nhân tố mới.

Tiếp cận các thị trường nội địa rộng lớn nay đã trở nên ít quan trọng hơn với quyết định đầu tư, đó là
kết quả của việc dỡ bỏ các rào cảng thương mại và yêu cầu nội địa tại nhiều nước, mặc dù trong một
số trường hợp thì những sản phẩm chỉ sẵn sàng đến tay người tiêu dùng thông qua đầu tư trực tiếp,
các thị trường nội địa rộng lớn vẫn giữ được sự hấp dẫn của nó (như Trung Quốc, Việt Nam) trong
khi sự tác động của yêu cầu nội địa đã giảm sút là kết quả của những cam kết trong khu vực và toàn
cầu (ví dụ: TRIMS). Việc tiếp cận với các nguồn tài nguyên thiên nhiên là nhân tố chính trong việc
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đã giảm sút đáng kể (ngoại trừ dầu lửa và khí đốt) vì sự lớn
mạnh của nền kinh tế tri thức và nền kinh tế giá trị gia tăng dẫn đến sự giảm sút vai trò của các sản
phẩm sơ cấp. Tương tự như vậy, lao động giản đơn với chi phí thấp không còn giữ vị trí quan trọng
như trước đây trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vì thậm chí các hoạt động sử dụng nhiều lao
động giản đơn vẫn đòi hỏi phải nâng cấp các kỹ năng và công nghệ mới với định hướng sản xuất
thiên về người tiêu dùng và các thị trường phức tạp hơn.

Vì vậy, các nhân tố quyết định mới của vị trí dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài đang thay đổi và trở
nên thiết yếu với quá trình tự do hóa kinh tế mạnh mẽ trong một khung pháp lý ổn định, tiến bộ kỹ
thuật nhanh chóng trong các lĩnh vực vận tải, truyền thông, thông tin, các kỹ thuật quản lý và tổ
chức công ty mới. Khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước Đông Dương trong
hiện tại và tương lai sẽ phụ thuộc rất lớn vào khả năng cung cấp các kỹ năng, cơ sở hạ tầng tốt, các
hệ thống tài chính, pháp lý ổn định và hiệu quả cao, những nhà cung cấp có khả năng, và các tổ chức
có khả năng trang bị kỹ thuật tốt.


Dây chuyền Cung cấp Toàn cầu. Các công ty xuyên quốc gia tạo ra một xu hướng cơ bản khác, đó
là sự xuất hiện các hệ thống sản xuất toàn cầu theo chiều rộng và chiều sâu. Các công ty xuyên quốc
gia đang xây dựng những cầu nối gần hơn với các công ty trên khắp thế giới, cả với các công ty
xuyên quốc gia và các công ty nội địa, theo đó, việc thiết lập các hệ thống cung ứng toàn cầu là để
các công ty khác bao gồm các công ty nội địa như các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đảm nhận
nhiều họat động khác nhau trong các quá trình sản xuất và dịch vụ. Những dây chuyền cung cấp
hiệu quả được xem là yếu tố quan trọng của hoạt động kinh doanh hiện đại, và các công ty xuyên
quốc gia tìm kiếm các nhà thầu phụ, các nhà cung cấp đáng tin cậy và có năng lực ở trong và ngoài
nước thông qua “dịch vụ mua ngoài”. Những liên kết trước đây phát sinh từ các hệ thống cung ứng
toàn cầu, khi các công ty nước ngoài có được hàng hóa và dịch vụ từ các công ty nội địa, mang lại
nhiều lợi ích cho các công ty có liên quan (kể cả công ty trong nước và công ty nước ngoài) và nước
chủ nhà. Các công ty trong nước có được kỹ thuật tiến bộ, nâng cao kỹ năng, tiến bộ công nghệ, và
đôi khi có thể tiếp cận tốt hơn với các nguồn tài chính, trong khi các công ty nước ngoài thu được lợi
ích từ việc liên kết thông qua giảm chi phí và tăng cường khả năng tiếp cận với các tài sản địa
phương. Nước chủ nhà thu được lợi ích từ việc tiếp cận các tiêu chuẩn công nghệ và kỹ năng mới,
mà sau đó được lan truyền ra cả nước, và có được quan niệm tốt từ phía các nhà đầu tư nước ngoài
về khả năng của nước chủ nhà và tăng sự nhạy cảm của các nhà cung cấp.

Các chính phủ của những quốc gia ở Đông Dương có thể đóng vai trò chính yếu trong việc xúc tiến
quan hệ với dây chuyền cung cấp toàn cầu bằng cách hạ thấp chi phí thành lập những quan hệ như
vậy, tạo điều kiện khen thưởng cho các mối quan hệ, và khuyến khích môi liên hệ sâu sắc hơn giữa
các đối tác sẵn có. Một số ví dụ về khuyến khích các quan hệ này là: miễn thuế giá trị gia tăng cho
các đối tượng xuất khẩu; giảm thuế đánh vào chi phí của các mối liên hệ này; quy định đặc biệt về
hợp đồng mua bán của chính phủ; dịch vụ thông tin và đầu mối liên hệ; ưu đãi kỹ thuật nâng cấp
Hội thảo Tập huấn về Xúc tiến và Hỗ trợ Đầu tư,
Bài 1 Trang 3
doanh nghiệp địa phương; cung cấp thông tin về các doanh nghiệp địa phương cho các nhà đầu tư
nước ngoài tìm kiếm đối tác liên doanh, khuyến khích hội các nhà cung cấp, v.v...


Sản xuất và công nghệ. Hai xu hướng quan trọng nhất trong sản xuất và công nghệ là vòng đời của
sản phẩm và công nghệ đang bị thu ngắn dần lại, sự thay đổi nhanh chóng trong công nghệ thông tin
và kỹ nghệ truyền thông. Những sự thay đổi đang tăng áp lực lên nhu cầu hợp tác trong vùng trong
khi chuẩn bị công cụ để đón đầu các thay đổi này. Tuy nhiên các quốc gia đang phát triển hiểu rõ
nhu cầu phải cải thiện năng lực của họ trong việc tiếp nhận và hấp thụ công nghệ thông tin và kỹ
nghệ truyền thông, họ thấy rằng họ không thể bắt kịp những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực này.

Quản lý. Các nguyên tắc quản lý như tính minh bạch, khả năng giải trình kế toán, khả năng dự
đoán, công bằng và dân chủ đang ngày càng được chấp nhận rộng rãi trên phạm vi thế giới. Đặc biết
là cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á nâng cao nhận thức về sự cần thiết của hệ thống quản lý hiệu
quả và khả năng giải trình kế toán, các nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức đa phương đang xem xét
các quốc gia có địa điểm đầu tư tiềm năng kỹ càng hơn nữa trong những khu vực này trước khi ràng
buộc các nguồn lực của họ vào đây. Vì vậy, các quốc gia muốn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
phải chấp nhận thay đổi hệ thống quản lý doanh nghiệp phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và phù
hợp với cơ cấu lĩnh vực nhà nước và tư nhân và năng lực thực thi của chính họ.

Sự tăng trưởng của các nhóm trong khu vực và các nhóm phụ cận. Cùng với các xu hướng thiên
về tự do thương mại toàn cầu trong phạm vi WTO, khuôn khổ hợp tác kinh tế trong vùng và vùng
phụ cận đã xuất hiện một cách nhanh chóng trên toàn cầu. Các nhóm bao gồm những thoả thuận
chung chính thức như SAARC và hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN và các hình thức ít
trang trọng hơn như tổ chức diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình (APEC), BIMST-EC (Tổ
chức Hợp tác Kinh tế giữa các quốc gia Bangladesh, India, Myanmar, Sri Lanka, ThaiLand) và Tổ
chức Hợp tác Kinh tế Vùng Đồng bằng Sông Mekông. Thông thường thì các hiệp định này cung cấp
những cơ chế hiệu quả các nền kinh tế nhỏ hơn trong nỗ lực hòa nhập vào thị trường toàn cầu và cho
cả những nền kinh tế lớn hơn trong việc tạo ra cơ hội để tận dụng lợi thế quy mô của các nền kinh tế
trong khu vực và vùng phụ cận. Đặc biệt liên quan đến các quốc gia ở Đông Dương, đó là việc thành
lập Khu vực Tự Do Thương mại ASEAN và Khu vực Đầu tư ASEAN mà dự kiến sẽ tạo nên sự thu
hút lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và cho phép các quốc gia tương đối nhỏ có như
Campuchia và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có thể mở rộng thị trường của họ và đẩy mạnh đầu
tư nước ngoài ở một diện rộng hơn.


Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Trung Quốc đã hòan tất chặng
đường cuối cùng của mình sau 15 năm phấn đấu để trở thành thành viên của WTO và việc kết nạp
của Trung Quốc vào tổ chức thương mại toàn cầu này đã diễn ra vào năm 2002. Sự gia nhập của
Trung Hoa vào tổ chức thương mại thế giới cũng tạo ra cả những cơ hội và thách thức cho các nền
kinh tế của các quốc gia Đông Dương. Một khi thị trường Trung Quốc được tự do hóa thì có thể cải
thiện những cơ hội xuất khẩu cho các quốc gia Đông Dương, nhưng cùng một lúc họ có thể đối mặt
với sự cạnh tranh đang gia tăng từ các hàng hóa của Trung Quốc trong các thị trường thứ ba, trong
khi đó những hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể sẽ bị chuyển hướng từ Đông Dương
sang Đại lục. Việc Trung Quốc trở thành thành viên của WTO đã xóa tan những tác động của chính
sách kinh tế của các quốc gia tại Đông Dương vốn cần có các cuộc cải cách kinh tế ổn định tốc độ
và gia tăng hợp tác trong khu vực và trên thế giới.

Các thị trường mới xuất hiện tại Nam Á. Kinh tế lớn mạnh dần lên của các quốc gia Nam Á, đặc
biệt là Ấn Độ, cũng là một xu hướng phát triển chính trong khu vực. Những kinh tế vốn có truyền
thống thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu này giờ đây đang gia tăng việc mở ra thị trường bên
ngoài, và Nam Á trở thành một thị trường tiềm năng mới trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài và đồng thời cũng xuất hiện đối thủ cạnh tranh ở những sản phẩm sử dụng nhiều lao động.

Hội thảo Tập huấn về Xúc tiến và Hỗ trợ Đầu tư,
Bài 1 Trang 4
2. Ảnh hưởng và lợi ích của ĐTNN: Tạo thế cạnh tranh và củng cố hệ thống cung ứng

ĐTNN mang lại các lợi ích sau:

Tạo việc làm - những lợi ích phổ biến đi kèm với đầu tư trực tiếp nước ngoài là tăng việc làm và bảo
vệ người lao động làm việc trong một môi trường tốt hơn. Cùng với việc tạo ra công ăn việc làm
mới, thì thu nhập thêm và sức mua của người dân địa phương sẽ tăng thêm do đó tăng nguồn thuế
đóng cho chính phủ.


Lợi ích thu nhập từ thuế - Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mở rộng cơ sở thu thuế địa phương và
đóng góp vào thu nhập từ thuế cho Chính phủ. Thậm chí trong trường hợp các nhà đầu tư nước
ngoài được miễn hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp, thì Chính phủ cũng có thể tạo ra được
nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân và các lọai thế gián thu khác.

Những tác động tích cực lên đầu tư địa phương – Các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sẽ
khuyến khích sự phát triển của đầu tư trong nước vì các công ty địa phương có thể tiếp cận với các
nguồn phân phối, trở thành những nhà cung ứng và/hoặc là phản ứng lại sự cạnh tranh từ các công ty
nước ngoài.

Chuyển giao công nghệ - Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tạo cơ hội cho một quốc gia tiếp cận
với và phát triển công nghệ thông qua việc chuyển nhượng quyền sở hữu, liên doanh, mậu dịch địa
phương và thành lập các trung tâm nghiên cứu và phát triển ở địa phương

Nâng cao trình độ chuyên môn cho công nhân – Lao động địa phương có thể được tiếp cận với kỹ
thuật chuyên môn và quỹ năng quản lý. Điều này sẽ kích thích năng suất, tinh thần doanh nghiệp và
đẩy mạnh chất lượng giáo dục địa phương.

Cải thiện tình hình xuất khẩu – Đa số đầu tư trực tiếp nước ngoài đều chú trọng xuất khẩu. Với
khả năng tiếp cận dễ dàng của họ với các thị trường nước ngoài và hệ thống phân phối toàn cầu, các
công ty nước ngoài có thể xuất khẩu hiệu quả hơn các công ty nội địa. Nếu như đầu tư trực tiếp nước
ngoài được quản lý một cách đúng đắn, thì nhiều quốc gia có thể sử dụng nó như là một phương tiện
để gia tăng mức xuất khẩu và cải thiện thu nhập ngoại hối.

Nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của các công ty địa phương – Dựa trên sự tác động qua lại
giữa các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty địa phương có thể nâng cao chất lượng và độ
tin cậy, do đó, sẽ trở nên cạnh cạnh hơn trong thị trường quốc tế. Đại thể hơn, đầu tư trực tiếp nước
ngoài có thể cải thiện khả năng tăng trưởng kinh tế toàn diện nhờ tăng cạnh tranh trong các lĩnh vực
mà một số lượng nhỏ các công ty địa phương chiếm ưu thế. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thị trường
thế giới phát triển quá nhanh chóng như được mô tả ở trên, thì những thách thức lớn nhất của việc

xúc tiến đầu tư quốc gia có thể được xác định thành hai lĩnh vực chính: Thứ nhất, là việc tạo ra một
môi trường kinh doanh có thể kết hợp những mối quan tâm ở tầm vi mô của công việc kinh doanh
với những mối quan tâm ở tầm vĩ mô của các nhà làm chính sách để xây dựng tính cạnh tranh; và
thứ hai, là để liên kết các quốc gia với các dây chuyền cung cấp toàn cầu.

2.1. Xây dựng khả năng cạnh tranh

Cũng phải nhấn mạnh rằng các mục tiêu cuối cùng luôn luôn thay đổi vì quy mô cạnh tranh phát
triển và trở nên phức tạp hơn. Nói chung, những môi trường vĩ mô trên toàn cầu đều có chung một
điểm do các xu hướng tự do hóa toàn cầu thúc đẩy (ví dụ: WTO), và các nhân tố vi mô đang trở
thành những nhân tố có tính quyết định trong việc chọn địa điểm được thực hiện bởi các công ty tư
nhân. Cụ thể, do tỷ lệ thuế quan đang giảm xuống và việc khuyến khích đầu tư hội tụ lại tại hầu hết
các quốc gia trên thế giới, những quyết định đầu tư ngày càng dựa trên các nhân tố khác như chất
lượng của nhà cung cấp địa phương, khả năng hoạt động dễ dàng tại các quốc gia, chi phí kinh
doanh thấp, hệ thống pháp lý ổn định, và các nhân tố khác.

Các chính sách kinh tế vĩ mô là yếu tố cần chứ không phải là yếu tố đủ cho sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Một môi trường vĩ mô được cải thiện sẽ không tạo ra được nhân tố cần thiết cho sự
Hội thảo Tập huấn về Xúc tiến và Hỗ trợ Đầu tư,
Bài 1 Trang 5
tăng trưởng bền vững nếu như không có nền tảng vi mô tiềm ẩn vững mạnh. Và cuối cùng, một môi
trường trong đó chấp nhận đổi mới không ngừng là nhân tố quyết định để liên tục tăng trưởng sản
lượng và được sử dụng như một nguyên tắc cơ bản để tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế vi mô.

Giáo sư Michael Porter (Báo cáo về Cạnh tranh Toàn cầu WEF, 1998) đã chỉ ra rằng sự cạnh tranh
của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào ba yếu tố: (a) chính trị, pháp lý, và hoàn cảnh kinh tế vĩ mô;
(b) chất lượng của môi trường kinh doanh kinh tế vi mô; và (c) sự phức tạp của các hoạt động và
chiến lược của công ty. Quan niệm đơn giản này đưa ra một hệ thống cơ bản trong việc xem xét tất
cả các biện pháp về chính sách, các cơ chế và trong việc phát triển một sự hợp lý mới có liên quan

đến việc xây dựng môi trường hoạt động (nhân tố a) cho các công ty trong phạm vi các nền kinh tế
thuộc Đông Dương, cho cả những cá nhân lẫn tập thể được gọi là “nền tảng kinh tế vi mô” (đó là các
nhân tố b và c) có thể phát triển mạnh.

Một mục tiêu chính của phát triển được chấp nhận rộng rãi là tạo ra “điều kiện cho sản lượng tăng
nhanh và liên tục”, cơ sở nói trên cho phép xem xét rõ ràng nền tảng vĩ mô luôn đòi hỏi được phát
triển, và nền tảng vi mô phản ánh các mối quan tâm và các vấn đề của các đơn vị hoạt động kinh
doanh (ví dụ, các doanh nghiệp) tạo ra của cải trong nền kinh tế. Do đó, không hạ thấp tầm quan
trọng của những vấn đề vĩ mô, một cá nhân có thể kiểm tra chi tiết các nhân tố vi mô cần được xem
xét để hỗ trợ các hoạt động của cộng đồng kinh tế; cụ thể là cơ sở hạ tầng, những định chế tiên tiến,
và nguồn nhân lực cần thiết cho các công ty phát triển những chiến lược kinh doanh phức tạp hơn.

Giáo sư Porter mô tả đặc điểm kinh doanh của của môi trường vi mô bằng bốn ảnh hưởng có liên
quan tới nhau:

 Điều kiện nhân tố (đầu vào): Chất lượng và sự chuyên môn hóa của các đầu cơ bản mà các
công ty rút ra được trong cạnh tranh.

 Điều kiện cầu: Sự phức tạp của nhu cầu trong nước và áp lực phải đổi mới từ những người
mua địa phương.

 Những ngành công nghiệp có liên quan và những ngành công nghiệp hổ trợ: Sự sẵn có và
chất lượng của những nhà cung ứng địa phương và các ngành công nghiệp có liên quan.

 Bối cảnh cho chiến lược công ty và sự cạnh tranh: Bối cảnh hình thành đầu tư công ty,
những loại chiến lược được sử dụng, và cường độ cạnh tranh địa phương.

Để hiểu sâu sắc về (và có ảnh hưởng tới) môi trường kinh doanh kinh tế vi mô với mục đích tăng
cường tính cạnh tranh và duy trì sự bền vững, các yếu tố trên cần được xem xét kỹ lưỡng.


Một sự thách thức đang lớn dần đối với các nền kinh tế mới là một trong những việc phát triển năng
lực đổi mới để mở rộng và thương mại hóa công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, và các quá trình mới. Đổi
mới có thể được nhận định là “động lực của mức độ tăng năng suất trong dài hạn và thúc đẩy cạnh
tranh tương lai” (xem Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu WEF, 1999). Trong khi đó mối quan tâm về
việc đổi mới có thể xuất hiện vượt ra bên ngoài những mối quan tâm trước mắt của các nền kinh tế
Đông Dương, những yếu tố trong hiện tại có liên quan đặc biệt với những yêu cầu sẽ được nhấn
mạnh trong tương lai trở nên rất quan trọng. Điểm cần nhấn mạnh là một doanh nghiệp phải xem xét
tất cả các yếu tố, từ vi mô đến vĩ mô, của môi trường hoạt động. Phát triển trong tương lai phải được
tập trung, và quyết định đầu tư được coi là có hiệu quả khi được nhận định dưới tầm nhìn tương lai.

2.2 Các dây chuyền cung cấp toàn cầu

Một quan niệm dần dần hình thành về cạnh tranh, đó là dây chuyền cung cấp. Dây chuyền cung cấp
và các vấn đề liên quan đến hậu cần ngày càng trở thành công cụ kinh doanh hữu hiệu hình thành và
duy trì tính cạnh tranh của công ty, hỗ trợ việc thâm nhập vào thị trường mới, gần đây hơn, khai thác
tính năng của công nghệ truyền thông và Internet. Để lấy một ví dụ về việc dây chuyền cung cấp có
thể đẩy mạnh tính cạnh tranh một cách đặc biệt, một người chỉ cần so sánh tỉ lệ Chi phí hậu

×