Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Nâng cao hiệu quả cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh trong đoàn viên, thanh niên thị xã cửa lò, tỉnh nghệ an luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.85 KB, 117 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HOÀNG VĂN HẢI

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CUỘC VẬN ĐỘNG "HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH"
TRONG ĐỒN VIÊN, THANH NIÊN THỊ XÃ CỬA LÒ,
TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2
NGHỆ AN - 2011

Lời cảm ơn!
Tác giả đề tài Nâng cao hiệu quả Cuộc vận động H
" ọc tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh"trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An xin
chân thành cảm ơn sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ tốt nhất của các thầy cô giáo trong
khoa Giáo dục Chính trị, khoa đào tạo Sau Đại học - Trường Đại học Vinh; quý cơ quan
Thị uỷ, Ban Tuyên giáo Thị ủy, Thị đồn Cửa Lị, các cơ quan, đơn vị, trường học trên
địa bàn Thị xã... Đặc biệt là sự hướng dẫn chu đáo, nhiệt tình, khoa học và đầy trách
nhiệm của TS. Bùi Văn Dũng đã giúp tác giả hoàn thành đề tài khoa học này.
Mặc dù tác giả đề tài đã cố gắng hết sức song khơng tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Tác giả kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý Hội đồng, các
thầy cô và quý cơ quan, đơn vị.
Xin chân thành cảm ơn!


Nghệ An, tháng 12 năm 2011
Tác giả đề tài

Hoàng Văn Hải


3

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Trang
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Tình hình nghiên cứu
3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
7
6. Giả thuyết khoa học
7
7. Đóng góp của đề tài
8
8. Bố cục của đề tài
8
B. NỘI DUNG
Chương 1: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

9
là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay
1.1. Sự cần thiết phải tiến hành Cuộc vận động “Học tập và làm
9
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
1.1.1. Vấn đề đạo đức trong xã hội hiện nay
9
1.1.2. Nội dung và giá trị của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 17
1.2. Nội dung Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
31
đức Hồ Chí Minh”
1.2.1. Văn bản chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
31
gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Đảng
1.2.2. Nội dung học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
34
Chí Minh
Chương 2: Thực trạng thực hiện Cuộc vận động "
Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"trong đồn viên, thanh niên 42
thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An hiện nay
2.1. Đặc điểm đoàn viên, thanh niên và thực trạng đạo đức đồn
42
viên, thanh niên thị xã Cửa Lị hiện nay
2.1.1. Đặc điểm, tình hình chung của thị xã Cửa Lị
42
2.1.2. Đặc điểm đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lị
45
2.1.3. Thực trạng đạo đức đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò hiện nay 47
2.2. Thực trạng thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong đồn viên, thanh niên thị
50
xã Cửa Lò hiện nay
2.2.1. Kết quả đạt được
50
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
66


4

2.3. Bài học kinh nghiệm từ thực tiễn triển khai thực hiện Cuộc
vận động "
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò
Chương 3: Phương hướng và gi ải pháp nâng cao hiệu quả Cuộc
vận động H
" ọc tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"trong
đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An
3.1. Phương hướng thực hiện Cuộc vận động "
Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"trong đồn viên, thanh niên thị
xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An
3.1.1. Dự báo nhân tố tác động đến đoàn viên, thanh niên
3.1.2. Phương hướng thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả Cuộc vận động H
" ọc tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"trong đồn viên, thanh niên
thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An

3.2.1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy Đảng các cấp, tổ
chức đoàn thanh niên Thị xã
3.2.2. Đẩy mạnh và đa dạng hóa các phương pháp tuyên truyền, giáo
dục tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
3.2.3. Gắn việc thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh"với thực hiện nhiệm vụ học tập và rèn
luyện của đoàn viên, thanh niên
3.2.4. Nâng cao hiệu quả việc học tập và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh trong các trường học trên địa bàn Thị xã
3.2.5. Xây dựng và phát huy những tấm gương điển hình trong việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong đồn viên,
thanh niên
C. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. PHỤ LỤC

A. MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

68

70

70
70
72
78
78
81
84

88
93
96
99
102


5

Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn của dân tộc và thời đại. Một trong
những di sản tinh thần vô giá mà Người để lại cho chúng ta là những tư tưởng
chiến lược về chăm sóc, đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức và phát huy các tiềm
năng to lớn của thanh niên vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người.
Hiện nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, điều
đó bên cạnh những tác động tích cực cũng đang kéo theo những hệ lụy ảnh
hưởng đến đạo đức, lối sống của một bộ phận đồn viên, thanh niên. Vì thế,
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan
trọng, bởi tồn bộ cuộc đời của Người là một pho sách lớn về đạo đức có sức
lan tỏa, thẩm thấu, trở thành giá trị văn hóa vĩnh hằng trong các thế hệ người
Việt Nam, là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa
văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta, là
tấm gương sáng ngời để mọi người Việt Nam học tập và noi theo, đặc biệt là
đối với thế hệ trẻ.
Đoàn viên, thanh niên hiện nay đã và đang trưởng thành nhanh chóng
và có những cống hiến xuất sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trên mặt trận lao động sản xuất, xây dựng đất nước, với tinh thần “đâu cần
thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”, hàng chục triệu đồn viên, thanh
niên đang xung kích, đi đầu trong cơng cuộc đổi mới, phát triển đất nước.

Trên mặt trận quốc phòng, an ninh, lớp lớp đoàn viên, thanh niên đã nêu cao
tinh thần anh dũng, ngoan cường, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cùng toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội và hăng hái thực hiện
nghĩa vụ quốc tế cao cả. Trên mặt trận văn hoá, giáo dục, khoa học và kỹ
thuật, đơng đảo đồn viên, thanh niên đã, đang hăng hái tham gia xây dựng


6

cuộc sống mới, nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Trình độ
học vấn của đồn viên, thanh niên khơng ngừng được nâng lên, góp phần
nâng cao vị thế của dân tộc Việt Nam trên trường Quốc tế. Tuy nhiên, trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, trước tình
hình và nhiệm vụ mới, cũng như trước sự chống phá điên cuồng của các thế
lực thù địch, đoàn viên, thanh niên nước ta bên cạnh những ưu điểm là cơ
bản, chủ yếu, đang bộc lộ một số điểm hạn chế, đó là: trình độ giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức và kỷ luật của một bộ phận
đồn viên, thanh niên cịn thấp. Khơng ít thanh niên chưa xác định đúng lý
tưởng cách mạng, động cơ, mục tiêu phấn đấu, ý thức làm chủ xã hội, làm chủ
bản thân còn kém. Đặc biệt, một bộ phận đồn viên, thanh niên giảm sút ý chí
phấn đấu, vươn lên, ngại khó, ngại khổ, chưa làm trịn nghĩa vụ của người
đoàn viên, thanh niên đối với Tổ quốc, địa phương và gia đình. Một bộ phận
đồn viên, thanh niên còn lười lao động, lười học tập, chạy theo lối sống thực
dụng, ích kỷ, bng thả, sa đọa, vi phạm pháp luật... Vì thế, để đồn viên,
thanh niên thực sự là người chủ tương lai của nước nhà, là cầu nối giữa các
thế hệ, họ phải là những người có đạo đức, có trí thức, có chí tiến thủ vươn
lên, trong đó vấn đề đạo đức là nền tảng để họ phát triển một cách toàn diện,
cả về đức, trí, thể, mỹ.
Riêng đối với đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò, trong những năm

gần đây, với tốc độ phát triển nhanh trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã
hội của thị xã thì đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò đang chịu sự tác động
nhiều chiều của đời sống xã hội, kể cả mặt tích cực và tiêu cực của nó. Chính
vì thế đã xuất hiện một bộ phận đồn viên, thanh niên chưa tích cực, ngại khó,
ngại khổ, thích đua địi, sống ích kỷ, thực dụng, thờ ơ với sinh hoạt chính trị,
khơng quan tâm đến đời sống cộng đồng, thích hưởng thụ nên đã sa vào các tệ
nạn xã hội và vi phạm pháp luật... Vì lẽ đó, bên cạnh nhiều biện pháp tuyên


7

truyền, giáo dục đang được triển khai, thị xã Cửa Lò đã chỉ đạo đẩy mạnh
việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm làm cho mỗi
đoàn viên, thanh niên nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản, giá trị to
lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó mỗi đồn viên, thanh niên nâng
cao được ý thức, vai trò, trách nhiệm của mình đối với bản thân, gia đình và
xã hội, góp phần xây dựng hình ảnh người đồn viên, thanh niên Cửa Lị năng
động, sáng tạo, có lối sống trong sáng, lành mạnh, là lực lượng nòng cốt đưa
thị xã ngày càng phát triển phồn thịnh, xứng đáng với vị thế, tiềm năng của đơ
thị du lịch biển Cửa Lị. Chính vì những lý do trên, tác giả luận văn nhận thấy
vấn đề: Nâng cao hiệu quả Cuộc vận động H
" ọc tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh"trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lị, tỉnh
Nghệ An là một vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa thiết thực để thế hệ trẻ Cửa
Lị thực sự vừa hồng, vừa chuyên, góp phần xây dựng thị xã ngày càng văn
minh, giàu đẹp.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Xung quanh vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, đã có nhiều
cơng trình khoa học nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau như: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức của Nguyễn Văn Trung [33]. Công trình này đã nêu lên

những quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân cách con người mới. Làm rõ đạo
đức Hồ Chí Minh là đạo đức hành động cách mạng, có sức cổ vũ, thuyết phục
bởi nó là một kiểu mẫu đạo đức thấm sâu tính nhân đạo cao cả, tính dân tộc
sâu sắc, tính hành động thực tiễn mạnh mẽ. Từ đó đặt ra những vấn đề cần
vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc nâng cao đạo đức cho cán
bộ, đảng viên, thanh niên, học sinh phổ thơng, trẻ em…
Cơng trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức do tác giả Thành Duy
chủ biên [8] đã khẳng định: Trong việc học tập, tu dưỡng và rèn luyện con
người mới, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng của xã hội Việt Nam


8

hiện nay, bởi lẽ, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa mang đậm tính dân tộc,
vừa mang đậm tính nhân bản, vừa mang những yếu tố của thời đại, vừa thể
hiện rõ tư tưởng đạo đức truyền thống được nâng lên và phát triển trong hoàn
cảnh lịch sử mới. Từ việc xác định viễn cảnh của đất nước và thế giới, tác giả
đặt ra nhiệm vụ phải khai thác di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để khắc
phục những hiện tượng tiêu cực của xã hội hôm nay và ngày mai, vì tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh làm cho nhận thức và hành động của con người có khả
năng thích nghi với những biến đổi nhất thời để giữ lấy “cái bất biến”.
Bên cạnh đó cịn có một số cơng trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức do PGS. TS. Đinh
Xuân Dũng chủ biên [9], Góp phần tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
của ThS. Văn Thị Thanh Mai [21]; Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay của Trần Minh Đồn [14].
Cơng trình nghiên cứu Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống - mấy vấn
đề lý luận và thực tiễn của PGS. TS. Lê Văn Tích [31] cũng trên cơ sở nghiên
cứu tình hình thực tế, đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức
của toàn xã hội về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cơng trình là sự dày cơng

nghiên cứu nhằm đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào tầng lớp học sinh, sinh viên.
Cuốn sách Học tập đạo đức Hồ Chí Minh của Bảo tàng Hồ Chí Minh [15].
Cuốn sách đã cung cấp các bài nói, bài viết về vị trí, vai trị của đạo đức,
những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam hiện nay. Biện pháp xây
dựng đạo đức. Ngoài ra còn cung cấp cho người đọc những mẩu chuyện về
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Cuốn sách Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, thiếu niên
và nhi đồng - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh do Trung
ương Đồn kết hợp với Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ biên soạn [32].
Cuốn sách đã nêu lên những quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ


9

và tập hợp những bài viết của các nhà nghiên cứu, các đồng chí cán bộ đồn
chủ chốt về giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế hệ trẻ.
Đặc biệt có cuốn sách Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương [3]. Đây là tài liệu
dành cho cuộc vận động, được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong đội ngũ
đảng viên và nhân dân. Tài liệu này gồm 3 chuyên đề, trong đó quan tâm nhất
là chuyên đề 1 nói về sự cần thiết đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay và nêu lên những nội dung chủ
yếu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chuyên đề 2 giới
thiệu tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
chuyên đề 3 giới thiệu tác phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó cịn có một số cơng trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh khá chất lượng như: Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học
sinh trung học phổ thông trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Nguyễn Văn Lục [19], Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng của Võ

Thị Hồng Lý [20]...
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh và việc giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh rất
phong phú. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về nâng cao chất
lượng Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh"trong đồn viên, thanh niên nói chung và đồn viên, thanh niên thị xã
Cửa Lị nói riêng. Vì vậy, luận văn này tác giả tập trung đánh giá thực
trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lị
trong những năm tiếp theo.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU


10

3.1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và
thực trạng triển khai thực hiện cuộc vận động trong đoàn viên, thanh niên thị
xã Cửa Lò, tác giả sẽ đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả Cuộc
vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"trong đồn
viên, thanh niên thị xã Cửa Lị những năm tiếp theo.
3.2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích đã đề ra, đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ sự cần thiết phải tiến hành Cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", nội dung học tập và làm theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Đi sâu phân tích thực trạng, hiệu quả, ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc thực hiện cuộc vận động đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho
đoàn viên, thanh niên thị xã Cửa Lị trong tình hình mới.
- Đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả học tập

và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho đồn viên, thanh niên thị xã
Cửa Lị trong tình hình mới.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Nội dung Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” do Trung ương Đảng phát động.
- Hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò.
4.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò từ năm 2007
đến nay.


11

5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về Cuộc vận động“Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong tồn Đảng, tồn qn,
tồn dân ta nói chung và trong đồn viên, thanh niên nói riêng.
Luận văn kế thừa có chọn lọc các cơng trình khoa học, các luận văn của
một số tác giả đã nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh; sử dụng các nghị
quyết, văn bản chỉ đạo, các báo cáo sơ kết, tổng kết, đánh giá về kết quả thực
hiện Cuộc vận động“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
của Thị ủy và Thị đồn Cửa Lị.
5.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp điều tra xã hội học, phương
pháp lịch sử và logic; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp thống
kê, phương pháp so sánh…
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu đề xuất được các giải pháp khả thi thì đề tài sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh"trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lị.

7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Đây là một đề tài chưa từng nghiên cứu trong đoàn viên, thanh niên
thị xã Cửa Lò nên kết quả của đề tài sẽ là sự đóng góp hết sức thiết thực
những cơ sở lý luận khách quan, khoa học và những giải pháp có tính khả thi


12

nhằm nâng cao hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lị những năm
tiếp theo.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở
các trường học, Trung tâm bồi dưỡng Chính trị Thị xã; làm tài liệu tham khảo
cho Thị uỷ, các cấp uỷ Đảng và Thị đồn Cửa Lị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” trong đồn viên, thanh niên Thị xã Cửa Lò.
8. BỐ CỤC ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục thì nội dung đề tài gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay

Chương 2: Thực trạng thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"trong đồn viên, thanh niên thị xã Cửa Lò,
tỉnh Nghệ An hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả Cuộc vận
động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"trong đồn viên,
thanh niên ở thị xã Cửa Lị, tỉnh Nghệ An

B. NỘI DUNG
Chương 1
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
LÀ YÊU CẦU CẤP THIẾT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


13

1.1. Sự cần thiết phải tiến hành Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
1.1.1. Vấn đề đạo đức trong xã hội hiện nay
* Những vấn đề chung về đạo đức
Về khái niệm đạo đức: Đạo đức được xem là khái niệm luân thường
đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt - xấu, đúng - sai, được sử dụng
trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng
phạt, đơi lúc cịn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hố, tơn giáo,
chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử
từ hệ thống này [15; 816].
Với tư cách là một bộ phận của triết học, những quan điểm về đạo đức đã xuất
hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Ở phương Tây, danh từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos,
moris - nghĩa là phong tục, tập qn. Đạo đức cịn có gốc từ tiếng Hy Lạp là
ethicos - cũng có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của

khái niệm, khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán hoạt
động và ứng xử của con người trong cộng đồng, trong xã hội.
Ở phương Đông, khái niệm “đạo đức” đầu tiên xuất hiện trong Kinh
văn đời nhà Chu và từ đó trở đi được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều.
Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã
hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung, đức là biểu hiện
của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những
yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: "Đạo đức thuộc hình thái ý
thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong


14

hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội" [15; 816].
Về cấu trúc của đạo đức: Đạo đức vận hành như một hệ thống tương
đối độc lập của xã hội. Cơ chế vận hành của nó được hình thành trên cơ sở
liên hệ và tác động lẫn nhau của những yếu tố hợp thành đạo đức. Khi phân
tích cấu trúc của đạo đức, người ta xem xét nó dưới nhiều góc độ. Mỗi góc độ
cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc xác định. Chẳng hạn, xét đạo đức
theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì hệ thống đạo đức hợp thành từ
hai yếu tố ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu xét trong mối quan hệ
giữa người với người thì người ta nhìn ra quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan
điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến, cái đặc thù với
cái đơn nhất thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
Về nguồn gốc của đạo đức: Trước C.Mác, Ph.Ăngghen, các nhà triết
học nhìn chung đều chưa đưa ra được những quan niệm hoàn toàn đúng đắn
và khoa học về vấn đề xã hội và đạo đức của con người. Họ đi tìm nguồn gốc

của đạo đức ở ngay chính bản tính của con người hoặc ở một bản thể siêu
nhiên bên ngoài con người, bên ngoài xã hội. Khác với các quan niệm đó,
C.Mác, Ph.Ăngghen quan niệm đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của đời sống xã
hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Sự hình thành, phát triển, hồn thiện
bản chất xã hội của đạo đức được quy định bởi trình độ phát triển và hoàn
thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con người. Những nguyên tắc,
những chuẩn mực đạo đức chỉ phù hợp với từng giai đoạn phát triển xã hội
nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Mặc dù, đạo đức có quy luật vận động nội tại,
có sự kế thừa, có sự lệch pha nào đó đối với cơ sở sản sinh ra nó nhưng về cơ
bản, tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đức
nhất định.


15

Như vậy, đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và
chủ quan, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của
con người. Cùng với sự phát triển điều kiện kinh tế - xã hội, nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức sẽ ngày càng hồn thiện thích ứng với sự tiến bộ xã hội.
* Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có vai trị rất quan trọng trong đời sống xã hội, trong đời sống
của con người. Đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và đòi hỏi giải
quyết nhằm đảm bảo cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng cùng tồn tại, phát
triển. Sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo
đức để tìm ra những con đường, những cách thức và phương tiện hoạt động
nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại,
phát triển của mình và cộng đồng.
Đạo đức với những chuẩn mực giá trị đúng đắn, là một bộ phận của nền
tảng tinh thần xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, qua đó thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
Vai trị của đạo đức được thể hiện rõ rệt trong các chức năng của đạo
đức, đó là chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng
nhận thức.
Về chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức là phương thức điều chỉnh
hành vi của con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Sự điều chỉnh
hành vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, đảm bảo quan hệ lợi
ích cá nhân và cộng đồng. Phương thức điều chỉnh của đạo đức là bằng dư
luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả ngăn cấm
và khuyến khích. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã
hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành


16

đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái, các hiện tượng xã hội
khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức.
Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó
điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp). Cách thức điều chỉnh
được biểu hiện là: lựa chọn giá trị đạo đức, xác định chương trình của hành vi
bởi chuẩn mực đạo đức, tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng,
tình cảm của đạo đức, kiểm soát, uốn nắn hành vi bởi dư luận xã hội.
Về chức năng giáo dục: Chức năng giáo dục của đạo đức được hiểu là
một mặt “giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa
cá nhân và cộng đồng, mặt khác là sự tự giáo dục ở các cấp độ cá nhân lẫn
cấp độ cộng đồng. Những chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng
chấp nhận tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, để mỗi cá
nhân tự giáo dục, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực
chung của xã hội. Khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác,
người nhận xét cũng tự điều chỉnh mình, tức là tự giáo dục và qua đó làm cho

chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh. Đó chính là sự
giáo dục lẫn nhau giữa các cá nhân và cá nhân với cộng đồng.
Về chức năng nhận thức: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
đạo đức có chức năng nhận thức thơng qua sự phản ánh tồn tại xã hội, phản
ánh những hiện thực đời sống xã hội. Chức năng nhận thức của đạo đức bao
gồm nhận thức và tự nhận thức, bởi vì nhận thức của đạo đức là quá trình vừa
hướng nội vừa hướng ngoại. Nhận thức hướng ngoại lấy những chuẩn mực,
giá trị đời sống đạo đức xã hội làm đối tượng, là quá trình cá nhân đánh giá,
tiếp thu hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tự nhận
thức là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức,
hành vi đạo đức của mình với chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Bằng
hai quá trình nhận thức ấy, con người đi đến sự nhận biết, phân biệt những giá


17

trị: đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác… hướng tới những giá trị bao quát đó là cái
chân, cái thiện, cái mỹ. Từ nhận thức này mà chủ thể hình thành và phát triển
thành các quan điểm về nguyên tắc sống của mình. Các chức năng của đạo
đức quy định vai trò to lớn của đạo đức trong việc duy trì trật tự, bình ổn và
phát triển xã hội. Xã hội càng phát triển, càng văn minh thì đạo đức càng
đóng vai trị quan trọng, thậm chí có thể giữ vai trò điều khiển xã hội, thay thế
chức năng quản lý của con người bằng pháp luật khi xã hội đạt đến trình độ
văn minh cao.
* Những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức xã hội hiện nay:
Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã
nêu: "Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn
nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" có diễn biến phức tạp" [12; 29]. Thực tiễn cho thấy,

mức độ suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân đang đặt ra những nguy cơ, thách thức mới cho đất nước ta, đó là:
chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, vụ lợi… có xu hướng ngày
càng phát triển. Một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện phai nhạt lý
tưởng, lợi dụng vị trí lãnh đạo và quyền lực để mưu lợi cá nhân, lo thu vén
cho bản thân và gia đình, coi nhẹ lợi ích tập thể, cộng đồng; chạy theo lợi ích
vật chất, trước mắt, coi nhẹ những giá trị tinh thần cao đẹp, dẫn đến vi phạm
tư cách đảng viên, trách nhiệm công dân; nạn tham nhũng, đưa và nhận hối lộ,
bịn rút, lãng phí của cơng… diễn ra ở nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều
lĩnh vực, trở thành “quốc nạn”; tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước
những khó khăn, bức xúc, những u cầu, địi hỏi chính đáng của nhân dân,
của doanh nghiệp... làm giảm niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước; Một bộ phận cán bộ, đảng viên có lối sống


18

thiếu trung thực, lời nói khơng đi đơi với việc làm, nói và làm trái với nghị
quyết của Đảng; nói một đằng, làm một nẻo, nói nhiều, làm ít; phát ngôn tùy
tiện, vô nguyên tắc... gây rối ren nội bộ, hồi nghi, bất mãn trong nhân dân,
mất uy tín trước quần chúng nhân dân.
Sự suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ giữa cá nhân
với xã hội. Việc tranh chấp tài sản trong gia đình, ngược đãi cha mẹ, ông bà,
lừa đảo bạn bè... tăng lên. Lối sống buông thả, hưởng thụ, thiếu lý tưởng, hồi
bão, thiếu quyết tâm và chí phấn đấu... tồn tại trong khơng ít người. Tệ nghiện
hút, cờ bạc, sa đọa có chiều hướng phát triển; đạo đức nghề nghiệp sa sút,
ngay cả trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh, như: y tế, giáo dục, bảo
vệ pháp luật, báo chí… Hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng lan rộng,
ảnh hưởng xấu đến thuần phong, mỹ tục và trật tự, an tồn xã hội.
Tính chất nghiêm trọng của sự suy thoái đạo đức, lối sống, nhất là tệ

quan liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng
viên, cùng với những tiêu cực trong xã hội được Đại hội XI của Đảng coi là
một nguy cơ, thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ.
* Nguyên nhân của sự suy thối đạo đức:
Tình trạng của sự suy thối đạo đức nêu trên có nhiều nguyên nhân,
trong đó có những nguyên nhân chủ quan và khách quan chính sau đây:
Về nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, là do sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang cơ chế thị trường đã có tác động không nhỏ đến đạo đức xã
hội. Mặt trái của kinh tế thị trường, với những ảnh hưởng tiêu cực của nó,
đang tác động vào ý thức xã hội, trong đó có đạo đức xã hội. Một mặt là thúc
đẩy mọi người chủ động, năng động trong sản xuất, kinh doanh, mặt khác
cũng kích thích chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thực dụng, chạy theo lợi ích vật


19

chất, bất chấp kỷ cương, đạo lý. Điều đó đã tác động xấu vào quan niệm đạo
đức của mỗi cá nhân và toàn xã hội.
Thứ hai, là sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, quá
trình tồn cầu hóa và bùng nổ mạng thơng tin tồn cầu đã tạo điều kiện đẩy
mạnh giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong
điều kiện đó, những mặt tiêu cực của văn hóa, lối sống tư sản phương Tây có
điều kiện tác động mạnh vào nước ta, nhất là khi những sản phẩm văn hóa
độc hại, bằng nhiều con đường đã tràn vào nước ta, đặc biệt ở các đô thị lớn,
trong khi chúng ta chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả. Mặt khác, các thế
lực thù địch cũng lợi dụng q trình tồn cầu hóa để tiến hành chiến lược
“diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, thực hiện cuộc “xâm
lăng” về văn hóa, đạo đức.
Thứ ba, là sự lạc hậu tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội,

trong xã hội ta hiện nay vẫn còn những tàn dư của đạo đức phong kiến, thực
dân. Những hành vi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, cục bộ, “địa phương
chủ nghĩa”… là di hại của những đạo đức cũ cùng với chủ nghĩa thực dụng,
đề cao, tuyệt đối hóa tự do, quyền tư hữu của lối sống phương Tây đang tác
động vào đời sống tinh thần của xã hội. Thực trạng đó làm xói mịn những giá
trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Thứ tư, là trong điều kiện phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm
vào thoái trào, cuộc đấu tranh giữa “diễn biến hịa bình” và “chống diễn biến
hịa bình” rất quyết liệt, phức tạp. Các thế lực thù địch, phản động đã và đang
chủ động tác động vào đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là với
các cán bộ có chức, có quyền và gia đình họ. Họ chủ động sử dụng các
phương tiện vật chất để mua chuộc, lôi kéo và bằng các biện pháp tinh vi kích
thích lối sống hưởng thụ, tác động vào tư tưởng, tình cảm, làm thay đổi quan


20

niệm đạo đức, lối sống; làm suy thoái tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng
của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh thiếu niên.
Về nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, là do chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ, sâu sắc về vai trò
nền tảng của đạo đức trong ổn định và phát triển xã hội; chưa gắn chặt phát
triển kinh tế với xây dựng văn hóa, đạo đức, lối sống. Một thời gian khá dài
đã có sự bng lỏng việc giáo dục, quản lý đạo đức, lối sống đối với cán bộ,
công chức; thiếu sự tổ chức, sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp
trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân.
Thứ hai, là do công tác tổ chức cán bộ, việc đánh giá, quy hoạch, lựa
chọn, bồi dưỡng, đề bạt, quản lý cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các
cấp chưa coi trọng. Đó là điều kiện để cho chủ nghĩa cơ hội phát triển, để tệ

nạn chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy dự án, bằng cấp... diễn ra, đến nay
vẫn chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu.
Thứ ba, là trong sinh hoạt, việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong
các cơ quan, đơn vị cịn bị xem nhẹ, có nơi tê liệt. Cơng tác thi đua, khen
thưởng, kỷ luật cịn hình thức, chưa nghiêm minh, chính xác.
Thứ tư, là một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có
quyền và gia đình họ chưa làm gương về đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân noi theo.
Thứ năm, là công tác giáo dục đạo đức, lương tâm nghề nghiệp chưa
được quan tâm đúng mức. Việc tuyên truyền những phẩm chất tốt đẹp của
con người Việt Nam trong thời kỳ mới không thường xuyên, chưa sâu sắc,
kém sức thuyết phục. Các quy định về đạo đức, lối sống trong các ngành, các
tổ chức chưa cụ thể và chưa được thực hiện nghiêm.



×