Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.41 KB, 132 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ UYÊN THẢO

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THÔNG QUA
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 9
(QUA KHẢO SÁT TRƯỜNG THCS AN LẠC, QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ UYÊN THẢO

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THÔNG QUA
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 9
(QUA KHẢO SÁT TRƯỜNG THCS AN LẠC, QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)


Chun ngành: LL & PPDH bộ mơn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2012

LỜI CẢM ƠN


3

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài, tác giả luận
văn đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ và động viên. Xin được gửi những lời
tri ân sâu sắc của tác giả luận văn đến:
* Quý thầy, cô đã giảng dạy, tham gia quản lý và giúp đỡ tác giả trong
suốt quá trình học tập của Trường Đại học Vinh, khoa sau đại học, khoa Giáo
dục Chính trị và Trường Đại học Sài Gịn, Thành phố Hồ Chí Minh.
* Xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc và trân trọng đến PGS. TS. Nguyễn
Lương Bằng - Người hướng dẫn khoa học đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn và
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hồn thiện luận văn này.
* Ban giám hiệu trường THCS An Lạc, Phòng giáo dục và đào tạo Quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh cùng với các anh, chị học viên lớp cao
học K18 đã giúp đỡ, động viên, tạo những điều kiện thuận lợi trong học tập và
nghiên cứu giúp tác giả hoàn thành chương trình cao học ngành Lý luận và
phương pháp dạy học bộ mơn Giáo dục Chính trị.
* Q thầy cơ và các em học sinh trường THCS An Lạc đã nhiệt tình
trả lời phiếu khảo sát để cung cấp những số liệu quý báu và kinh nghiệm thực
tiễn trong công tác giúp tác giả hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Uyên Thảo

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
AN

Âm nhạc


4

BCH

Ban chấp hành

BGDĐT

Bộ giáo dục đào tạo

Đoàn TNCS

Đoàn thanh niên Cộng sản



Hội đồng

HP

Hiệu phó


HT

Hiệu trưởng

MT

Mỹ thuật

SC

Sơ cấp

SGK GDCD

Sách giáo khoa Giáo dục công dân

TC

Trung cấp

TD

Thể dục

THCS

Trung học cơ sở

THPT


Trung học phổ thông

TN

Tốt nghiệp

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .....................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................8


5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC CƠ SỞ THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
LỚP 9 ...............................................................................................................8
1.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh Trung học cơ sở thông qua dạy học môn Giáo dục công dân lớp 9 .........8
1.2. Nội dung, vị trí và mục tiêu của mơn Giáo dục cơng dân bậc Trung học
cơ sở ..............................................................................................................29
1.3. Cơ sở thực tiễn của việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh thông qua dạy học môn Giáo dục công dân lớp 9, trường Trung học cơ sở
An Lạc, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ........................................35
Kết luận chương 1 ..........................................................................................59
CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 9 ........60
2.1. Kế hoạch thực nghiệm .............................................................................60

2.2. Nội dung thực nghiệm .............................................................................60
2.3. Kết quả thăm dò mức độ nhận thức của học sinh Trung học cơ sở về các
giá trị đạo đức thông qua sách giáo khoa Giáo dục công dân lớp 9 ...............79
Kết luận chương 2 ..........................................................................................82
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THÔNG QUA
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 9 ..................................84
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh thông
qua dạy học môn Giáo dục công dân lớp 9, trường Trung học cơ sở An Lạc,
Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ......................................................84
3.2. Một số giải pháp nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua dạy
học môn Giáo dục công dân lớp 9, trường Trung học cơ sở An Lạc, Quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ...............................................................91


6

3.2.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị mơn Giáo dục cơng dân
trong việc rèn luyện, giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9, trường Trung học
cơ sở An Lạc, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ..............................91
3.2.2. Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua hệ thống kiến thức sách giáo
khoa giáo Giáo dục công dân nhằm nâng cao chất lượng đạo đức cho học sinh
lớp 9, trường Trung học cơ sở An Lạc, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh................................................................................................................96
3.2.3. Phối hợp gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục đạo đức cho học
sinh lớp 9, trường Trung học cơ sở An Lạc, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh ...................................................................................................... 102
3.2.4. Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9, trường Trung học cơ sở
An Lạc, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ..................................... 109

3.2.5. Tiếp tục đổi mới nội dung sách giáo khoa Giáo dục công dân lớp 9 phù
hợp với xu thế của thời đại trên cơ sở đảm bảo tính kế thừa và phát huy các
giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam .............................................. 111
Kết luận chương 3 ....................................................................................... 113
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...............................................................115
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................117
PHỤ LỤC ....................................................................................................122


7

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đang hòa vào dòng chảy của xu thế hội nhập quốc tế, nhằm mở
rộng quan hệ ngoại giao hữu nghị và hợp tác với các nước trên tất cả các lĩnh
vực khoa học cơng nghệ, góp phần xây dựng thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại với mục tiêu xây dựng đất nước dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa hội.
Đến nay nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, là một trong những thị
trường lớn thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và chất lượng cuộc
sống của người dân ngày được nâng cao.
Cùng với những thành tựu đạt được, nước ta vẫn cịn gặp nhiều khó khăn
và đối mặt với nhiều thách thức như diễn biến hòa bình của các thế lực thù
địch, mơi trường bị ơ nhiễm dẫn đến nảy sinh các dịch bệnh đe dọa đến tính
mạng con người. Đặc biệt khoảng cách và mức chệnh lệch giàu nghèo càng
càng lớn tác động đến vấn đề an sinh và trật tự, an toàn của xã hội. Một số
vấn đề tiêu cực như tham nhũng, lối sống không phù hợp của một số đảng
viên, cán bộ viên chức một phần tác động xấu dư luận xã hội. Bên cạnh đó lý
tưởng sống cao đẹp của một bộ phận thanh niên, học sinh, sinh viên đang dần

bị thu hẹp, hiện tượng sống ích kỉ chỉ biết hưởng thụ và khơng có trách nhiệm
với bản thân, gia đình, xã hội có biểu hiện phổ biến. Nói cách khác, nhân cách
con người ngày càng suy giảm và các giá trị đạo đức truyền thống khơng cịn
được xem trọng.
Vấn đề được đặt ra vì sao một đất nước có nhiều giá trị truyền thống tốt
đẹp lại có nhiều biểu hiện tiêu cực nêu trên? Có nhiều nguyên nhân nhưng
nguyên nhân chính yếu, cốt lõi nhất do một bộ phận cán bộ, thanh thiếu niên
sinh viên, học sinh đã trở thành nạn nhân chịu ảnh hưởng từ lối sống hiện đại,
những luồng tư tưởng, quan điểm và các giá trị chuẩn mực đạo đức không
phù hợp du nhập vào nước ta. Những biểu hiện tiêu cực này xâm nhập nước


8

ta với tốc độ nhanh và khơng thể kiểm sốt, chúng vào nước bằng những con
đường cùng với nhiều hình thức khác nhau. Nghiêm trọng hơn, chúng có sức
hút mãnh liệt và chi phối đến con người nhất là một bộ phận thuộc giới trẻ,
đây là nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng nhanh nhất, hưởng ứng và tiếp nhận
một cách vội vàng vì chưa có suy nghĩ chín chắn, chưa có khả năng “tự vệ”
trước những cám dỗ ngồi xã hội và có tâm thế háo hức đón nhận cái mới mà
khơng biết chọn lọc. Chính vì thế trong xã hội dần hình thành một lớp người
bị lệch chuẩn, nhân cách bị tha hóa, đạo đức con người ngày càng suy giảm từ
đó có nguy cơ phá vỡ và làm mai một các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền
thống của Việt Nam.
Trường THCS An Lạc Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh tọa lạc
trên địa bàn của khu vực “cây Da Xà”. Trước năm 1975, nơi đây từng là một
trong những “điểm đen” của Sài Gòn tập trung nhiều tệ nạn xã hội như ma
túy, mại dâm, trộm cắp, trấn lột, các băng nhóm thường xuyên thanh trừng lẫn
nhau để phân chia địa bàn hoạt động và tranh giành thế lực với nhau. Cho đến
nay các tàn tích trên vẫn còn tồn tại, chúng đã và đang tác động tiêu cực đến

quá trình hình thành, phát triển nhân cách của bộ phận thanh thiếu niên nơi
đây. Về phía gia đình, đa phần học sinh của khu vực này là người dân tộc Hoa
xuất thân gia đình lao động nghèo, phần lớn phụ huynh chú trọng việc mưu
sinh hơn chăm lo đến giáo dục nhân cách của con em trong gia đình. Làm thế
nào để giáo dục đạo đức học sinh trường THCS An Lạc trên địa bàn Quận
Bình Tân được phát triển đầy đủ, trọn vẹn và đi đúng hướng. Vấn đề nghiên
cứu tìm ra giải pháp giáo dục đạo đức học sinh đã có nhiều, tuy nhiên vẫn cịn
trong vịng luẩn quẩn của ba mơi trường giáo dục, mơi trường giáo dục của
gia đình – nhà trường – xã hội mà chưa đề ra hướng giải quyết một cách cụ
thể, hữu hiệu cho học sinh. Dưới góc độ là giáo viên bộ môn Giáo dục công
dân với nhiệm vụ truyền tải kiến thức cho học sinh và đảm bảo mục tiêu của
bộ môn yêu cầu giáo dục, bồi dưỡng và hình thành nhân cách cho học sinh,
thơng qua công tác giảng dạy tác giả chú trọng và đẩy mạnh giáo dục, rèn


9

luyện đạo đức cho học sinh đang theo học lớp 9 với mong muốn góp một
phần nhỏ vào lý luận giáo dục đạo đức đồng thời định hướng một số biện
pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận Bình Tân đạt hiệu quả
cao. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
học sinh Trung học cơ sở thông qua dạy học môn Giáo dục công dân lớp 9
(Qua khảo sát trường THCS An Lạc, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh)” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề cập đến vai trò của đạo đức, Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Có tài
mà khơng có đức thì là người vơ dụng”. Người coi trọng mục tiêu, nội dung
giáo dục đạo đức trong nhà trường với 5 điều: “Đoàn kết tốt”, “Kỷ luật tốt”,
“Khiêm tốn, thật thà dũng cảm”, “Con người cần có bốn đức: cần - kiệm liêm - chính, mà nếu thiếu một đức thì khơng thành người”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, trong đó nội dung cơ bản trong tư

tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh như trung với với nước, hiếu với dân; cần, kiệm,
liêm, chính và yêu thương con người của Hồ Chí Minh đã được PGS. TS
Thành Duy (chủ biên) trình bày chi tiết và cụ thể. Trên cơ sở đó, tác giả nêu
ra các nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức mới trong đó phải tu dưỡng đạo
đức bền bĩ suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng và nêu gương đạo đức, lời
nói đi đơi với làm đồng thời phải xây dựng đạo đức mới, đấu tranh chống
những hiện tượng phi đạo đức.
Tiếp đến, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng với đầu sách Hồ
Chí Minh về giáo dục và đào tạo trong đó chính là những câu nói bài viết của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước “Giáo dục - quốc sách hàng đầu,
tương lai của dân tộc” (Phạm Văn Đồng), “Phải đặc biệt coi trọng nghề thầy
giáo và chăm lo củng cố hệ thống trường sư phạm” (Lê Khả Phiêu), “Tư
tưởng Hồ Chí Minh với việc phát huy và sử dụng tốt nhân tố con người với tư
cách là động lực chính của sự phát triển kinh tế - xã hội” (Võ Nguyên Giáp)



10

Đầu sách Phát triển giáo dục – đào tạo trong giai đoạn hiện nay và một
số chính sách quy định mới của nhà giáo do nhà xuất bản lao động – xã hội
năm 2006 bao gồm ba nội dung, phần thứ nhất: Tạo sự chuyển biến cơ bản về
phát triển giáo dục đào tạo trong tình hình hiện nay; phần thứ hai: Đường lối,
chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục – đào tạo và xây dựng đội ngũ
nhà giáo; phần thứ ba; Những chính sách phát triển giáo dục – đào tạo và quy
định đối với nhà giáo” cùng với đầu sách Đổi mới giáo dục Việt Nam (sửa đổi
bổ sung) mới nhất về các đề án giáo dục, quy chế tài chính, quy chế tuyển sinh
năm 2010 của nhà xuất bản Lao động nêu thực trạng và một số định hướng,
giải pháp cho nền giáo dục của nước ta trong những năm tới.
Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn

Giáo dục công dân, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS
chu kì III (2004 – 2007) mơn Giáo dục công dân quyển 1 và quyển 2 nêu
những vấn đề chung về đổi mới giáo dục phổ thông, giới thiệu chương trình
sách giáo khoa Giáo dục cơng dân ở trường THCS, một số vấn đề giá trị và
năng lực của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một số luận án tiến sỹ, luận văn, tiểu luận đề cập đến công tác giáo dục
đạo đức cho học sinh từ bậc trung học cơ sở đến phổ thông, luận văn thạc sỹ
Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường.
Tác giả Võ Thế Anh trên cơ sở nêu sự cần thiết nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trong bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam đã đưa ra một phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông huyện Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Tác giả Nguyễn Văn Tâm với luận văn thạc sỹ “Giáo
dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên cao đẳng sư phạm kỹ thuật
Vĩnh Long trong giai đoạn hiện nay”, trong đó nêu cơ sở lý luận những nội
dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ triết học của
Đỗ Tuyết Bảo Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại


11

Thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay, tác giả đề ra bốn
định hướng và 5 điểm giải pháp cơ bản bao gồm: đổi mới nhận thức về giáo
dục đạo đức; đổi mới phương pháp giáo dục; đổi mới các hình thức tổ chức
hoạt động giáo dục đạo đức và xây dựng môi trường giáo dục đạo đức để giáo
dục đạo đức cho trẻ em; xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường những đảm bảo
vật chất cho giáo dục đạo đức và giải pháp cuối cùng là lãnh đạo và quản lý
công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường. Thực trạng tổ chức kiểm tra hoạt
động dạy học trên lớp của Hiệu trưởng trường THCS An Lạc Quận Bình Tân,

Thành phố Hồ Chí Minh của Phó hiệu trưởng Nguyễn Thị Hồng Châu nêu
những thuận lợi, khó khăn cũng như thực trạng cơng tác kiểm tra hoạt động
dạy học của trường THCS An Lạc.
Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 25 năm thành lập khoa giáo dục chính
trị - trường Đại học Vinh Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên Giáo dục
công dân trong giai đoạn hiện nay, Vinh 11 - 2011 do tập thể giảng viên bao
gồm các Tiến sĩ, Thạc sĩ và học viên cao học của trường đại học Vinh đã nêu
các giải pháp đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên Giáo
dục công dân trong giai đoạn hiện nay. Hàng loạt các giải pháp, những hiến
kế do chính từ những người trong cuộc bao gồm những nhà quản lý, trợ lý
thanh niên, giáo viên bộ môn Giáo dục công dân và học sinh của các trường
PTTH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết tình trạng đạo đức
bị xuống cấp Hội thảo nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong nhà
trường phổ thông TP. HCM, Sở giáo dục và đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh,
tháng 12 năm 2007. Tiếp theo, tháng 2 năm 2010 Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh phối hợp với sở giáo dục và đào tạo tổ chức hội thảo chuyên đề
Phòng chống bạo lực học đường, thơng qua hội thảo để có những giải pháp để
ngăn chặn và chống ‘vấn nạn” bạo lực học đường với hội thảo chuyên đề
Phòng chống bạo lực học đường.
Liên quan trực tiếp đến đề tài, tác giả Nguyễn Lương Bằng đã có một số
bài viết: Một số vấn đề đặt ra đối với môn Giáo dục công dân từ thực tiễn dạy


12

học bộ mơn ở Nghệ An, Tạp chí Giáo dục, Số 66 (2003). Tiêu chí đánh giá,
xếp loại đạo đức học sinh phổ thông - một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện
nay, Tạp chí Đại học Sài Gịn, số 8. 2012.
Các cơng trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo trên về cơ bản rất
có giá trị, nội dung nghiên cứu phong phú và đa dạng. Đồng thời, các cơng

trình đó cũng cung cấp cho tơi về mặt lý luận hữu ích trong đề tài nghiên cứu
của mình. Tuy nhiên, trên đây là những cái chung, trên bình diện rộng giúp tơi
về khía cạnh lý luận cịn vấn đề thực tiễn của trường chưa được đề cập đến
nên tôi nghiên cứu thông qua luận văn thạc sỹ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ khoa học
3.1. Mục tiêu
Nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh THCS thông qua môn Giáo dục
công dân lớp 9 qua khảo sát trường THCS An Lạc Quận Bình Tân, Thành phố
Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ khoa học
- Làm rõ cơ sở lý luận giáo dục đạo đức học sinh lớp 9;
- Phân tích và làm rõ thực trạng vấn đề đạo đức của học sinh lớp 9 tại
trường THCS An Lạc, Quận Bình Tân;
- Thực nghiệm sư phạm tại trường THCS An Lạc, Quận Bình Tân,
Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở đó kiểm chứng việc nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh THCS thông qua giảng dạy môn Giáo dục
công dân lớp 9.
- Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh
THCS thông qua dạy học môn Giáo dục công dân lớp 9 tại trường THCS An
Lạc Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh và góp phần hình thành nhân
cách của học sinh phát triển theo chuẩn mực xã hội.
4. Phương pháp luận nghiên cứu
Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và logic. Phương pháp nghiên cứu


13

lý luận: Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, điều tra xã hội học, trắc nghiệm

kết hợp phương pháp phân tích, tổng hợp các tư liệu về giáo dục đạo đức học
sinh trên địa bàn Quận Bình Tân và phương pháp tốn học để xử lý kết quả
thống kê, khảo sát.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9 thông qua dạy học môn Giáo dục
công dân tại trường THCS An Lạc, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
5.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đề tài tập trung vào điều tra, phân tích thực trạng đạo đức học sinh lớp
9 tại trường THCS An Lạc, Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua sách
giáo khoa giáo dục công lớp 9.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo công tác giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 9 trường THCS An
Lạc, Quận Bình Tân đạt hiệu quả sẽ làm mơ hình cho các trường THCS trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần đề xuất một số giải pháp nâng cao giáo dục đạo đức
cho học sinh THCS.
- Báo cáo của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên, học
sinh chuyên ngành Giáo dục công dân bậc THPT và bậc THCS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn được thể hiện trong 3 chương, gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở thông qua dạy học môn Giáo dục
công dân lớp 9;


14


Chương 2: Thực hiện thực nghiệm sư phạm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở thông qua dạy học môn Giáo dục
công dân lớp 9;
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
học sinh Trung học cơ sở thông qua dạy học môn Giáo dục công dân lớp 9.

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
CƠ SỞ THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 9
1.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh Trung học cơ sở thông qua dạy học môn Giáo dục công dân lớp 9
1.1.1. Khái niệm về đạo đức và giáo dục đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm về đạo đức


15

Đạo đức ra đời cùng với sự xuất hiện của con người. Từ khi ra đời cho
đến nay, đạo đức là một trong những vấn đề xuyên suốt được các nhà khoa
học, những người làm khoa học quan tâm nghiên cứu.
Qua mỗi giai đoạn lịch sử, vấn đề đạo đức được các nhà khoa học lý giải
khác nhau. Nhìn chung đều có cùng quan điểm về q trình hình thành và vai
trò của đạo đức. Đạo đức ra đời cùng với sự xuất hiện của lồi người và giữ
vai trị điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Trong đó, mỗi hành vi của từng cá
nhân phù hợp với xã hội theo nguyên tắc tự nguyện, tự giác thực hiện và được
điều chỉnh, phán xét của tòa án lương tâm và với dư luận của xã hội. Đạo đức
là sản phẩm tinh thần biểu hiện tính người cao nhất gắn liền trong cuộc sống

thực tiễn, biến đổi theo sự phát triển của con người và là một phạm trù phản
ánh nội dung khách quan của hiện tượng xã hội loài người. Xã hội lồi người
trải qua 5 hình thái xã hội phát triển từ thấp đến cao bao gồm hình thái xã hội
Công sản nguyên thủy, chế độ Chiếm hữu nô lệ, xã hội Phong kiến, chế độ
Chủ nghĩa tư bản và Xã hội chủ nghĩa. Mỗi hình thái xã hội có những nấc
thang giá trị đạo đức tương ứng với hình thái xã hội đó, cụ thể: đạo đức của
xã hội nguyên thủy không giai cấp với quan điểm “không được lấy phần của
người khác … việc ý thức được sự cần thiết phải có thái độ cơng bằng đối với
những người khác làm nảy sinh khát vọng công bằng, khát vọng này dần dần
trở thành thói quen; tình cảm đạo đức công bằng phát triển … Tương ứng với
điều này, sự bất cơng là thói xấu đầu tiên, điều ác đầu tiên” [15; 114]. Đối với
họ, quan niệm thiện và ác được quy định rõ ràng “Tất cả những gì có lợi ích
cho tập đồn, bộ lạc, dân tộc hoặc khối thống nhất xã hội thì được coi là điều
thiện, cịn cái gì có hại thì bị coi là điều ác”[15; 122]. Đến khi xã hội có giai
cấp, cụ thể là xã hội của chế độ chiếm hữu nơ lệ thì vấn đề đạo đức có sự thay
đổi và mang tính giai cấp “đó là đạo đức của nô lệ và đạo đức của chủ nô. Hai
nền đạo đức này đối lập nhau về căn bản. Ở trên chúng ta đã thấy rằng lao
động, chẳng hạn, - cơ sở của mọi đức tính - được coi là đạo đức của dưới con
mắt người nghèo nhưng bị coi nhục nhã dưới con mắt kẻ giàu”. Tuy vậy, quan


16

hệ giữa những ý thức đạo đức của những giai cấp đối kháng khơng chỉ có
những sự đối lập nêu trên. Ngồi những sự mâu thuẫn, cịn có sự khác biệt và
sự trùng hợp trong việc đánh giá hành vi: 1. Một số hành động hoặc một số
nét tính cách được xem là đạo đức theo quan điểm người nghèo (thói đạo đức
giả chẳng hạn) và ngược lại: cái có giá trị đạo đức đối với người nghèo không
được người giàu đánh giá như vậy (tính ngay thẳng chẳng hạn). 2. Một số và
hành động và tình cảm ít nhiều đều coi là có giá trị đạo đức với người giàu

cũng như người nghèo (chẳng hạn, lòng yêu nước, lòng tơn kính mẹ cha và
v.v…) [15; 132, 133].
Ở phương Tây, từ thời cổ đại con người đã đưa ra những tiêu chí để đánh
giá người có đạo đức. Một cá nhân được cộng đồng thừa nhận hoặc đánh giá
người có đạo đức dựa vào các biểu hiện hành vi của họ như tuân thủ đúng
những lề lối, tập tục của tập thể, xã hội và ngược lại những người không tn
thủ theo đó là những người khơng có đạo đức.
Ở phương Đông, Trung Quốc là một trong những quốc gia hình thành
các học thuyết tư tưởng đạo đức sớm và xuất hiện nhiều nhà tư tưởng lỗi lạc
tiêu biểu như Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử … Các nhà tư tưởng
này đưa ra nhiều luận giải về đạo đức và thường bắt đầu bằng “Đạo”. Ở góc
độ, hồn cảnh lịch sử khác nhau, mỗi người có quan điểm về đạo đức khác
nhau nhưng vẫn chủ yếu bắt đầu từ “Đạo”, “Đạo” là con đường, hướng đi, lối
làm việc, cách thức của việc ăn, ở, giao tiếp giữa con người với con người với
nhau trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi con người. Trong triết học, “Đạo”
đóng vai trị là con đường tự nhiên, con đường sống của con người trong xã
hội, điều hành mọi sự vận động biến hóa khơng ngừng của vạn vật và các sự
việc đang diễn ra xung quanh con người. “Đức” là biểu hiện của đạo, mức độ
tập trung của đạo và dùng để chỉ về đức tính con người. Một người có đức là
người hiểu đạo, sống có đạo nghĩa hay là người ln tn thủ theo những
ngun tắc ln lý. Vì thế, các học thuyết đạo đức của các ông thành tiêu chí
để mỗi cá nhân dùng để tu dưỡng, rèn luyện và làm thước đo để đánh giá


17

nhân cách con người. Đối với giai cấp thống trị, các giá trị chuẩn mực đạo
đức trên được xem là một trong những những công cụ đắc lực và hữu hiệu
nhất để cai trị đất nước, giữ vững nền thống trị của giai cấp mình và nó trở
thành nền tảng, cơ sở vững chắc cho việc xây dựng, phát triển đất nước.

Đạo đức là “Tất cả những gì tác động thuận lợi tới quan hệ tự nguyện, tự
giác giữa những con người đều có giá trị đạo đức” [15; 138] và đạo đức hình
thành từ những hành vi bộc phát một cách ngẫu nhiên của mỗi cá nhân trong
sinh hoạt hàng ngày. Các hành vi này được một số đông tập thể thừa nhận và
lập lại một cách thường xuyên dần dần trong cuộc sống thực tiễn nên dần trở
thành điều tất yếu buộc mỗi cá nhân phải thực hiện theo. Như vậy, đạo đức là
những hành vi do con người thực hiện một cách tự nguyện và tự giác điều
chỉnh hành phù hợp với yêu cầu chung của tập thể, của cộng đồng. Các hành
vi được thực hiện một cách tự nguyện, tự giác được phát triển hoàn thiện hơn
trở thành yêu cầu, quy tắc, nguyên tắc chung của xã hội. Như vậy, đạo đức là
những yêu cầu, quy tắc, nguyên tắc được hình thành trong cuộc sống mà con
người tự nguyện tuân theo. Do đó: “Đạo đức là hệ thống những quy tắc,
những chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân
mình” [17; 4]. Như vậy người có đạo đức có nghĩa là khơng hành động một
cách tùy hứng, tùy tiện hay tự do làm theo ý chủ quan của mình. Người có
đạo đức là người mà những hành động của từng cá nhân phải tương ứng với
“điều kiện cơ sở vật chất, là sự biểu hiện của đời sống vật chất và biến đổi
cùng với nó” [15; 49], muốn được như thế mỗi cá nhân phải ln tự điều
chỉnh hành vi của bản thân. Nói cách khác, “Đạo đức là toàn bộ những quy
tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với
nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên” [17; 4].
Từ các khái niệm, quan niệm về đạo đức nêu trên cho thấy đạo đức có
vai trị quan trọng trong đời sống xã hội. Đạo đức phản ánh tồn tại xã hội biểu
hiện bằng hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, quy tắc và là phương thức


18

điều chỉnh hành vi cá nhân phù hợp chuẩn mực xã hội. Nếu hệ thống các quan

điểm, nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực đạo đức tiến bộ, phù hợp với đời sống
xã hội và xu thế vận động chung thì sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Ngược lại các hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực đạo
đức lỗi thời, lạc hậu sẽ cản trở và có tác động tiêu cực đến xã hội nên đạo đức
là một hiện tượng xã hội. Đạo đức phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt
nguồn từ bản thân cuộc sống của con người. Trong cuộc sống, đạo đức ln
thống nhất của ba mặt ý thức, tình cảm và hành động thực tiễn tạo thành năng
lực phục vụ một cách tự giác tích cực, tự giác của cá nhân đối với lợi ích của
người khác và lợi ích của cộng đồng. Như vậy đạo đức là một hình thái của ý
thức xã hội, cùng biến đổi với tồn tại xã hội: “Đạo đức là hình thái ý thức xã
hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ nó con
người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh
phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân và xã hội” [17; 4], giúp con người không những tạo ra
hạnh phúc, nâng cao phẩm giá của mỗi cá nhân mà góp phần xây dựng, giữ
gìn và bảo vệ cho xã hội có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Nói cách khác,
“Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp
phần đồn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang
tạo ra xã hội mới, cộng sản chủ nghĩa” [48; 1], chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Như đã đề cập ở trên, đạo đức là một trong những phạm trù được bàn
luận từ rất sớm và nhiều nhất nên có rất nhiều quan niệm về đạo đức. Trong
đó, khái niệm thể hiện đầy đủ và trọn vẹn nhất đó là khái niệm của Mác Lênin “Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và
xã hội” [24; 3].


19


Trong bối cảnh hiện nay với sự phát triển vượt bật của các thành tựu
khoa học và tốc độ phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, mối quan
hệ giao tiếp giữa con người với con người mở rộng phạm vi con người với
mơi trường sống. Vì vậy, người có đạo đức khơng chỉ có trong phạm vi các
mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội mà được
mở rộng phạm vi giữa con người với tất cả môi trường sống, với thiên nhiên
xung quanh bằng một tinh thần lành mạnh để giải quyết các mâu thuẫn đang
tồn tại và thường phát sinh của con người. Do đó “Đạo đức theo nghĩa hẹp là
luân lý, là những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con
người. Nhưng trong điều kiện hiện nay, quan hệ của con người cũng đã mở
rộng và đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con
người với cho người, với công việc, với bản thân kể cả với thiên nhiên và môi
trường sống … Theo nghĩa rộng, đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù
chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách,
phản ánh bộ mặt nhân cách đã được xã hội hóa” [23; 66].
Như vậy, từ khi hình thành cho đến nay có rất nhiều quan điểm, khái
niệm khác nhau về đạo đức nhưng nội dung cốt lỗi của đạo đức vẫn là phản
ánh toàn bộ quan hệ của con người trên mọi phương diện trong đó con người
giữa vai trị chủ thể từ quan hệ với bản thân, với mọi người với cộng đồng,
công việc, môi trường và quan hệ với cả với lý tưởng sống của dân tộc và góp
phần giữ vững, ổn định chính trị để từ đó thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
Con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội, và “bản chất
con người không phải là một trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là sự tổng hòa những quan hệ xã
hội” [19; 216]. Bất kỳ mỗi cá nhân từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành
đều chịu sự ảnh hưởng và sự tác động từ những môi trường khác nhau trong
cuộc sống thực tiễn bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực. Vì thế, muốn mỗi cá
nhân được phát triển tồn diện thì cần phải được giáo dục bởi vì “bản chất của



20

hoạt động giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã
hội của các thế hệ nhằm duy trì và phát triển cộng đồng xã hội” [2; 50].
Thông qua các kênh giáo dục khác nhau như giáo dục từ gia đình, giáo dục từ
nhà trường và giáo dục từ xã hội để chăm lo giáo dục cho các thế hệ trẻ với
mục đích đào tạo và tạo ra một lớp người “thấm nhuần tổng số những kiến
thức nhân loại” [2; 21]. Mỗi con đường giáo dục đều có nội dung, hình thức
riêng nhưng tất cả đều hướng đến mục tiêu hình thành nhân cách, bồi dưỡng
và giáo dục đạo đức cho con người. Trong đó, giáo dục đạo đức “là một hoạt
động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu, nguyên
tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức đã được xã hội thừa nhận thành những phẩm
chất, giá trị đạo đức của cá nhân, nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi
cá nhân, định hướng đúng những hành vi đạo đức và thúc đẩy sự phát triển,
tiến bộ của xã hội, là giáo dục lý tưởng cao đẹp mà con người luôn mong
muốn” [35; 10, 11].
Giáo dục đạo đức đóng vai trị định hướng đúng những hành vi đạo đức,
góp phần thúc đẩy xã hội phát triển đặc biệt đối với đối tượng học sinh, vì
giáo dục đạo đức là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch rõ ràng đến
từng đối tượng người học nhằm giúp cho nhân cách của từng đối tượng được
phát triển đúng đắn, giúp cho người học có những hành vi ứng xử đúng mực
trong mối quan hệ cá nhân với xã hội, cá nhân đối với lao động, với mọi
người xung quanh và với chính mình. Do đó, giáo dục đạo đức khơng những
hình thành những quan niệm, cung cấp và trang bị các các giá trị, chuẩn mực
đạo đức cho con người, giúp con người có khả năng đánh giá các biểu hiện,
hành vi của người khác trong cộng đồng và bản thân có khả năng tự đánh giá
các suy nghĩ, hành vi của mình đồng thời là phương thức chuyển hóa các văn
hóa đạo đức của xã hội đến với mỗi cá nhân và trở thành văn hóa của cá nhân
đó. Nói một cách cụ thể hơn, giáo dục đạo đức là phương thức và là q trình

chuyển hóa các nguyên tắc, chuẩn mực, những giá trị chuẩn mực, những quan
điểm hoặc lý tưởng đạo đức của xã hội thành những phẩm chất đạo đức của


21

từng cá nhân. Trên cơ sở đó mỗi cá nhân hình thành cho riêng mình những
nhu cầu, tình cảm, niềm tin và tri thức, trách nhiệm gắn liền với nghĩa vụ, ý
chí và động cơ cá nhân, thành năng lực sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi
người. Chính vì thế “giáo dục đạo đức nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn
bộ hoạt động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội đề hình thành và
phát triển nhân cách. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của toàn
xã hội, là vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược GD - ĐT vì sự phát triển
con người và phát triển xã hội” [2; 52]. Trong đó giáo dục đạo đức cịn “có
thể được hình dung theo những phương diện khác nhau và trong lĩnh vực
khác nhau của hoạt động sống của con người tùy thuộc vào những tiếp cận
khác nhau tới đạo đức học. Giáo dục đạo đức có thể chú trọng nhiều tới việc
giáo dục và rèn luyện các đức tính, các phẩm chất đạo đức của cá nhân nếu
xuất phát từ sự biểu hiện của chủ thể đạo đức. Cũng có khi giáo dục đạo đức
được nhấn mạnh từ yêu cầu thực hiện các chuẩn mực đạo đức của xã hội. Lại
cũng có thể nhấn mạnh tới giáo dục truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy
những giá trị, bản sắc dân tộc trong truyền thống đạo đức đó như lịng u
nước, thương người, tính vị tha, bao dung trong văn hóa đạo đức Việt Nam”
[2; 59].
Tóm lại, giáo dục đạo đức là một hoạt động có mục đích nhằm biến
những nhu cầu, nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức đã được cộng đồng, xã
hội thừa nhận những phẩm chất, giá trị của cá nhân nhằm góp phần phát triển
nhân cách của mỗi con người.
1.1.2. Khái quát chung về giáo dục đạo đức học sinh Trung học cơ sở
1.1.2.1. Mục tiêu giáo dục đạo đức học sinh trung học cơ sở

Giáo dục đạo đức cho học sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc hình
thành nhân cách. Thơng qua giáo dục, các chuẩn mực đạo đức làm nền tảng
cho học sinh trau dồi, rèn luyện các phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn
mực của xã hội. Giúp học sinh tồn tại và phát triển một cách toàn diện, hội đủ


22

đức, trí, thể và mỹ. Trang bị cho học sinh các kỹ năng cơ bản để hình thành
nhân cách phù hợp với công cuộc xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức học sinh trung học cơ sở
Giáo dục đạo đức học sinh trung học cơ sở bao gồm những nội dung như
sau:
Một trong những nội dung cơ bản nhất là giáo dục đạo đức cho học sinh
THCS theo 5 điều Bác Hồ đã dạy: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; Học tập tốt,
lao động tốt; Đồn kết tốt, kỷ luật tốt; Giữ gìn vệ sinh thật tốt và Khiêm tốn,
thật thà, dũng cảm”. Đây là nội dung căn bản và giữ vai trò chủ đạo của quá
trình hình thành giáo dục và rèn luyện đạo đức cho học sinh.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ của nhà trường
ở bậc THCS chú trọng vào nội dung dạy học như sau “Trung học thì cần đảm
bảo cho học trị những tri thức phổ thơng chắc chắn thiết thực, thích hợp với
nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết
cho đời sống thực tế” [49; 64]. “Trước hết hình thành cho được ở mỗi người
tư cách đạo đức, tính cách cùng với năng lực và tài năng, nhân cách vừa hồng
vừa chuyên” [49; 118]. Do dó, nhiệm vụ của những nhà sư phạm phải chọn
lọc các giá trị, phẩm chất đạo đức phù hợp với thực tiễn của đất nước và cần
loại bỏ những phần nào không cần thiết nhằm đáp ứng với nhu cầu và tiền đồ
xây dựng đất nước.
Tiếp tục phát huy các giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc,
không ngừng học hỏi tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của nhân loại.

Trên cơ sở đó, góp phần vào q trình xây dựng hệ thống giá trị đạo đức mới
nhưng vẫn đảm bảo bản sắc của dân tộc. Đồng thời, cung cấp và giáo dục cho
học sinh có kiến thức cơ bản về Hiến pháp, pháp luật của nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam với các quyền và nghĩa vụ công dân.
Công tác giáo dục đạo đức là lĩnh vực đặc biệt trong việc xây dựng tâm
hồn, tư tưởng con người cho nên yêu cầu khơng những kết hợp hài hịa giữa
nhận thức với tình cảm đạo đức của giáo dục đạo đức cho học sinh mà còn


23

chú trọng vào nêu gương thuyết phục và thực hành đạo đức trong lối sống và
nếp sống hàng ngày.
1.1.2.3. Vai trò giáo dục đạo đức học sinh Trung học cơ sở
Giáo dục đạo đức cho học sinh THCS nhằm tiếp tục giáo dục và hình
thành nhân cách của người học để trở thành công dân đáp ứng với nhu cầu
của xã hội và góp phần xây dựng, phát triển đất nước.
Bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc đồng thời góp phần kế thừa và tiếp tục phát huy các truyền thống tốt
đẹp đó, đồng thời giúp học sinh biết vận dụng các phẩm chất đạo đức đó phù
hợp với cuộc sống thực tiễn.
Mặt khác, giáo dục đạo đức cho học sinh THCS có vai trị quan trọng
giúp cho học sinh có các kỹ năng cần thiết để giải quyết đúng đắn và kịp thời
những vấn đề, tình huống trong cuộc sống hàng ngày. Từ nội dung giáo dục
đạo đức cho học sinh THCS môn Giáo dục công dân giúp cho học sinh nắm
được các quyền, nghĩa vụ trách nhiệm về mặt pháp lý của người cơng dân và
có thái độ đúng đắn khi quyết định hành vi cũng như bảo vệ bản thân.
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng về giáo dục đạo đức
1.1.3.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục đạo đức

C. Mác cho rằng “Bản chất con người không phải là một trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
sự tổng hịa những quan hệ xã hội” [19; 216]. Đối với học sinh THCS ở lứa
tuổi “khi đầu người đàn ông đã xuất hiện ở con trai và những dấu hiệu người
thiếu nữ đã thức dậy trong tâm hồn các em gái thì đó là lúc đặc biệt cần đến
vai trò chỉ dẫn của nhà giáo dục ở ông bố, bà mẹ, các thầy giáo, cô giáo. Mọi
sự chậm trễ, muộn màng hoặc thiếu vắng vai trị giáo dục đó đều có thể dẫn
đến những hậu quả đáng tiếc, tai hại, thậm chí có thể gây ra những bi kịch
tinh thần” [2; 23]. Để tránh không xảy ra các trường hợp đáng tiếc phải tăng
cường giáo dục cho con người đặc biệt là coi trọng giáo dục đạo đức.


24

Theo quan điểm của Lênin, giáo dục và giáo dục đạo đức thuộc về kiến
trúc thượng tầng. Đạo đức và giáo dục đạo đức không những sẽ tác động trở
lại đối với cơ sở hạ tầng mà cịn có tác dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy xã hội
phát triển. Khi nói đến đạo đức phải đề cập đến ý thức đạo đức, giữa đạo đức
và ý thức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và phát triển không tách rời nhau.
Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo
đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức. Trong đó, tình cảm đạo đức giữ vai trị
quan trọng nhất vì tình cảm đạo đức giữ vai trị chuyển hóa từ nhận thức lý
tính sang hành vi đạo đức. Vì vậy, ý thức đạo đức khơng thể thiếu tình cảm
đạo đức. Đây là yếu tố quan trọng vì nếu khơng có tình cảm đạo đức thì
những khái niệm, phạm trù đạo đức và những tri thức đạo đức được thu nhận
bằng con đường lý tính khơng thể chuyển hóa bằng hình vi đạo đức.
Dưới góc độ phát triển của xã hội, ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội
dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi con người thông qua bằng hình thức
của dư luận xã hội, sự ý thức của lương tâm, danh dự, lòng tự trọng … Nói
cách khác, đó chính là phản ánh khả năng tự chủ của con người và thể hiện

một sức mạnh đặc biệt của đạo đức, đồng thời đây là nét cơ bản quy định mặt
đạo đức của con người biểu hiện bản chất xã hội của con người. Trong tiến
trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức, các giá trị đạo
đức là những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người, đóng
vai trị giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày
của con người. Do đó, các giá trị đạo đức là những hệ thống đạo đức gắn liền
với xã hội đó nhưng tồn tại ở mọi xã hội và mang tính nhân loại. Do đó, “ý
thức đạo đức là tồn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt xấu, lương tâm,
trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng … và về những quy tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong
xã hội” [6; 590].
Trong buổi nói chuyện với thanh niên về vấn đề học tập, Lênin nêu quan
điểm giáo dục đào tạo con người như sau “Đồn thanh niên và thanh niên nói


25

chung muốn tiến lên chủ nghĩa cộng sản, phải học tập chủ nghĩa cộng sản.
Chỉ có thể trở thành người cộng sản khi anh làm giàu trí nhớ của mình bằng
tất cả các kho tàng kiến thức mà loài người tích lũy được … chỉ có trong lao
động với cơng nhân và nơng dân thì mới có thể trở thành người cộng sản chân
chính” [50; 36, 37]. Như vậy, thơng qua con đường giáo dục con người mới
có thể trở thành người cộng sản chân chính “người ta chỉ có thể trở thành một
người cộng sản khi biết làm giàu trí tuệ của mình bằng cách thâu thái lấy tồn
bộ tri thức của nhân loại” [51; 354] nhưng muốn có được người cộng sản
chân chính phải giáo dục đạo đức cộng sản cho họ. Đạo đức cộng sản được
hình thành trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ đạo đức
cách mạng của giai cấp công nhân và được kết tinh từ đạo đức của nhân dân
lao động. Ngoài ra, nội dung của đạo đức cộng sản còn thể hiện của chủ nghĩa
yêu nước, chủ nghĩa quốc tế nên yêu cầu con người phải giác ngộ ý thức đoàn

kết dân tộc, đoàn kết và tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân các
dân tộc trên thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đặc biệt đạo đức cộng sản khơng những gắn liền với xã hội khơng có áp bức
và giai cấp người bóc lột người mà cịn phản ánh nền kinh tế của xã hội đó.
Một xã hội có sự phát triển hài hịa giữa cá nhân và tập thể, coi trọng sự phát
triển tự do và tồn diện của mỗi cá nhân và đặt lợi ích của con người làm vị trí
hàng đầu. Như vậy, đạo đức cộng sản kế thừa và phát huy những giá trị đạo
đức tốt đẹp của loài người, thể hiện chủ nghĩa nhân văn và nhân đạo cao nhất
đồng thời phản ánh bản chất của một xã hội mới. Theo Lênin, một xã hội mới
trước hết mọi người được công bằng như nhau thì trước hết phải tiến hành lật
độ ách thống trị của giai cấp bức bóc lột. Cụ thể là lật đổ chế độ tư bản chủ
nghĩa, giai cấp tư sản áp bức bóc lột giai cấp vơ sản, bởi vì “đối với chúng tơi,
cơng bằng phải phục tùng lợi ích của cơng cuộc lật đổ tư bản. Ngồi sự đồng
tâm hiệp lực của giai cấp vô sản ra, thì khơng có cách nào khác lật đổ được tư
bản” [48; 248]. Như vậy, Lênin không những là người mở đường dẫn lối cho
giai cấp vơ sản đấu tranh thốt khỏi ách áp bức của giai cấp tư sản mà từ đó


×