LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp cuối khóa. Ngồi sự cố gắng
nỗ lực của bản thân tơi nhận được sự giúp đỡ chu đáo, nhiệt tình của
các thầy, cô giáo trong hội đồng khoa học khoa Giáo dục Chính trị,
các thầy, cơ giáo trong tổ bộ mơn tư tưởng Hồ Chí Minh, của gia
đình, bạn bè, của tập thể sinh viên lớp 48 A khoa Giáo dục Chính trị.
Đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình, chu đáo, sâu sắc của thầy giáo
hướng dẫn Th.S Thái Bình Dương - Người đã trực tiếp chỉ bảo,
hướng dẫn tôi hồn thành khóa luận này.
Tất cả những tình cảm đó là nguồn động lực tinh thần vô cùng lớn lao
để cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Nhờ đó mà tơi hồn thành
khóa luận của mình.
Qua đây cho phép tơi được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới tất cả
sự giúp đỡ quý báu đó, đặc biệt là sự biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
hướng dẫn Th.S. Thái Bình Dương. Kính chúc các thầy cơ và các bạn
lời chúc sức khỏe, thành công trong cuộc sống.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 05 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Thị Quỳnh
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức của
Người có tầm quan trọng đặc biệt, bởi chính Người đã đề ra và thực
hiện một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở nước ta.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có vai trị rất quan trọng
đối với q trình hình thành nhân cách, lối sống của con người. Giáo
dục đạo đức, xây dựng lối sống tốt đẹp theo các chuẩn mực đạo đức
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là yêu cầu cơ bản, thường xuyên của
sự nghiệp cách mạng, vừa là nhiệm vụ cấp bách hiện nay, nhằm khơi
dậy và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống và các tệ nạn
xã hội, hình thành và phát triển các giá trị đạo đức mới, từng bước
xây dựng con người Việt Nam có nhân cách cao đẹp, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, lối sống lành mạnh, quan hệ xã hội nhân văn,
tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức mẫu mực, sáng
ngời, tiêu biểu cho các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
rất cần thiết. Dù Người đã đi xa nhưng để lại cho dân tộc ta di sản
tinh thần to lớn, những tư tưởng vô giá và giá trị nhân văn cao cả. Vì
vậy, tồn Đảng, tồn qn và tồn dân ta nguyện suốt đời học tập đạo
đức, tác phong và lối sống của Người.
Vào tháng 11 - năm 2006, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc vận
động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong
tồn Đảng, tồn quân và toàn dân, đây là đợt triển khai sâu rộng
trong xã hội về học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh trong đó có
thanh niên xã Cẩm Hưng.
Thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, là yếu tố nội lực
quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt
ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con
người. Chăm lo, phát triển giáo dục thanh niên vừa là mục tiêu, vừa
1
là động lực, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển đất nước. Mặt
khác, trong xu thế hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực
thúc đẩy xã hội phát triển vẫn có những mặt hạn chế, tiêu cực: Đó là
lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, là tình trạng suy thối đạo
đức, tha hóa nhân cách... của khơng ít người trong xã hội, đặc biệt là
của thanh niên.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của thanh
niên xã Cẩm Hưng nhằm trang bị cho thanh niên nhận thức sâu sắc về
những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu
dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu
rộng trong thanh niên, nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống và các tệ nạn xã hội... mà quan trọng là phải thơng qua
chính những hành vi, những việc làm cụ thể được tiến hành trong
toàn bộ hoạt động thực tiễn của thanh niên. Sự thống nhất giữa tư
tưởng, hành vi, động cơ, và hiệu quả; giữa lí luận thực tiễn đã trở
thành một đặc trưng nổi bật của Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc học
tập đạo đức Hồ Chí Minh phải đi đơi với việc làm theo tấm gương
đạo đức của Người.
Nhưng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh của thanh niên ở xã Cẩm Hưng chỉ được tiến hành qua các bài
giảng, bài nói, kể chuyện, cịn việc làm theo hoặc được thể hiện bằng
những việc làm cụ thể thì thanh niên xã chưa làm được nhiều. Vì vậy,
cần phải có những giải pháp để những bài giảng, nói, kể chuyện về
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành những việc làm, những
hành động cụ thể của mình, có làm được như vậy thì chúng ta mới
thực hiện được lời căn dặn của Bác Hồ: "Học đi đôi với hành, lời nói
đi đơi với việc làm".
Để góp phần khắc phục hạn chế đó, tạo ra những chuyển biến lớn
trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho
thanh niên, tơi chọn đề tài: "Nâng cao hiệu quả thực hiện cuộc vận
động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh
2
niên ở xã Cẩm Hưng" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp - vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn nhằm đào tạo họ thành những
chủ nhân tương lai của đất nước, có đủ đức, đủ tài để kế tục sự
nghiệp cách mạng của cha anh, đúng như Bác Hồ hằng mong muốn.
2. Tình hình nghiên cứu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thanh niên là một lĩnh vực
đã có nhiều nhà khoa học với nhiều cơng trình, bài viết đề cập đến:
- Đảng cộng sản Việt Nam (2006), chỉ thị số 06 - CT/TW về tổ
chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh". Hà Nội.
- Ban tư tưởng - Văn hóa trung ương (2008), đẩy mạnh học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
- Chỉ thị số 2516/CT - BGD và ĐT ngày 18 tháng 05 năm 2007,
"về việc thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh".
- Đồn Nam Đàn (2005),"vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục và đào tạo thanh niên ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sỹ
triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đặng Xuân Kỳ: Bác Hồ với vấn đề giáo dục thanh niên, tạp
chí Thanh niên số 5 - 1985.
- Th.S.Thái Bình Dương (2005), Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn
đề giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên - Tạp chí giáo dục lí
luận, học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện chính trị
khu vực I, số 9 (102). 2005.
- Th.S.Thái Bình Dương (2008). "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên ở trường Đại học
Vinh hiện nay" - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thanh niên
trong những năm gần đây đã được các nhà khoa học quan tâm. Các
công trình trên đều tập trung nghiên cứu đạo đức của thanh niên qua
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện cuộc vận động học tập
3
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên, nhất là
trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thanh niên
là nịng cốt cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Nhưng
họ đang chịu tác động hiệu ứng của nền kinh tế thị trường, đạo đức
đang bị xói mịn, xuống cấp, cần phải nâng cao hiệu quả học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên góp phần
đào tạo họ thành những người vừa hồng, vừa chun, kế tục sự
nghiệp của cha anh. Chính vì vậy, đề tài mà chúng tôi lựa chọn là cần
thiết, vừa có ý nghĩa lí luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, cũng
khơng trùng với các cơng trình trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Khi chọn vấn đề "Nâng cao hiệu quả thực hiện cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên
ở xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp, mục đích của đề tài là:
Đề tài đưa ra một số phương hướng, giải pháp chủ yếu để nâng
cao hiệu quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
cho thanh niên xã Cẩm Hưng trong thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài tập trung giải quyết các vấn đề chủ yếu sau:
- Làm rõ nội dung cơ bản của cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
- Làm rõ nội dung học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.
- Thu thập số liệu, điều tra, phỏng vấn, khảo sát quá trình thực
hiện cuộc vận động của đồn xã Cẩm Hưng.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên
xã Cẩm Hưng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi thanh niên ở xã
Cẩm Hưng (Cẩm Xuyên) Hà Tĩnh.
4
Đề tài tập trung nghiên cứu một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho
thanh niên xã Cẩm Hưng hiện nay.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu.
* Cơ sở lí luận:
Nghiên cứu nội dung cơ bản của cuộc vận động.Vận dụng các
kết quả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Tìm hiểu và qn triệt chủ trương, đường lối về giáo dục đạo
đức cho thanh niên của Đảng và Nhà nước ta.
* Cơ sở thực tiễn:
Điều tra, khảo sát q trình đồn xã Cẩm Hưng thực hiện cuộc
vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng
bản thiết kế, bằng nghiên cứu tài liệu, hồ sơ lưu trữ, lấy ý kiến trực
tiếp.
* Kết hợp kết quả nghiên cứu về lí luận và thực tiễn để đề xuất một
số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên xã Cẩm Hưng hiện nay.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lơ gíc là hai phương pháp
chính mà chúng tơi sử dụng, kết hợp với các phương pháp khác như:
Điều tra, khảo sát, thu thập số liệu, phân tích - tổng hợp, so sánh... để
nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài:
Đề tài góp phần vào việc nâng cao hiệu quả thực hiện cuộc vận
động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh
niên nói chung và thanh niên xã Cẩm Hưng (Cẩm Xuyên) nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tư liệu tham
khảo và vận dụng vào việc nâng cao hiệu quả thực hiện cuộc vận
động cho thanh niên ở xã Cẩm Hưng nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài gồm có 2 chương:
Chương1: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
nội dung cơ bản trong cơng tác chính trị, tư tưởng của Đồn thanh
5
niên cộng sản Hồ Chí Minh ở xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh
Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2: Phương hướng và những giải pháp cơ bản để nâng cao
hiệu quả thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh cho thanh niên ở xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên,
tĩnh Hà Tĩnh.
6
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO
ĐỨC HỒ CHÍ MINH LÀ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG CƠNG
TÁC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CỦA ĐỒN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH Ở XÃ CẨM HƯNG, HUYỆN CẨM
XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1.1. Nội dung cơ bản của cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh".
1.1.1. Chủ trương của Đảng về cuộc vận động "H ọc tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài
sản tinh thần vơ giá của Đảng và nhân dân ta, là tấm gương sáng để
mọi người Việt Nam học tập và noi theo.
Trong hơn ba năm qua, thực hiện chỉ thị 23 - CT/TW, ngày
27/03/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, toàn Đảng,
toàn dân ta đã tổ chức đợt học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để quán
triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đợt học tập đã thu được
nhiều kết quả tốt.
Trước yêu cầu tăng cường cơng tác tư tưởng trong tình hình mới,
Hội nghị lần thứ mười hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa
IX đã quyết định triển khai chỉ đạo điểm cuộc vận động "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong cán bộ, Đảng viên
và nhân dân, đúc rút kinh nghiệm để tiến hành cuộc vận động lớn
trong toàn Đảng kể từ sau Đại hội X của Đảng. Đây là một chủ
trương lớn của Đảng vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được qua đợt làm điểm ở một
số cơ quan Trung ương và địa phương, cùng với việc triển khai thực
hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, Bộ Chính trị tổ chức
cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
7
Minh" trong toàn Đảng, toàn dân từ ngày kỉ niệm 77 năm ngày thành
lập Đảng (03/ 02/2007) tới hết nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng.
Bộ Chính trị ra chỉ thị 06 - CT/TW mở cuộc vận động trong toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân, đây là đợt triển khai sâu rộng trong xã
hội về học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Cuộc vận động có ý
nghĩa vơ cùng to lớn làm cho tồn Đảng, tồn dân nhận thức sâu sắc
về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý
thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh sâu rộng trong xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh... Nâng cao đạo đức
cách mạng, cần, kiệm, liêm. chính, chí cơng vơ tư, đẩy lùi sự suy
thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, và các tệ nạn xã hội,
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Yêu cầu phải tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" sâu rộng, thiết thực, hiệu quả trong cả
hệ thống chính trị và trong tồn xã hội, khơng phơ trương, hình thức.
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn liền
với việc triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ X
của Đảng, với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện
tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, với các phong trào thi đua yêu nước. Phải gắn tính tự
giác học tập, rèn luyện của mỗi cá nhân với sự đôn đốc, kiểm tra,
giám sát của tổ chức Đảng và nhân dân.
Nội dung cuộc vận động triển khai tổ chức nghiên cứu, học tập
và làm theo tư tưởng đạo đức trong các tác phẩm "Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", "Di chúc" và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; tập trung vào các phẩm chất "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư", ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm, ý
thức phục vụ nhân dân, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu,
tham nhũng, lãng phí. Mỗi người phải tự phê bình, tự liên hệ, kiểm
điểm cá nhân; tổ chức để quần chúng ở nơi công tác và nơi cư trú góp
ý cho cán bộ, đảng viên. Các cơ quan, đơn vị xây dựng tiêu chuẩn
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để phấn đấu thực
8
hiện phù hợp với tình hình từng cơ quan, đơn vị; xây dựng chương
trình hành động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, yếu kém; xử lý các sai phạm
được phát hiện theo đúng kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đồngthời tổ chức tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin
đại chúng về cuộc vận động.
Chủ trương phát động cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong tồn Đảng, tồn dân, bắt đầu từ
ngày 03/ 02/2007 và tổng kết vào ngày 03/02/2011, có sơ kết hàng
năm vào dịp sinh nhật Bác (19/5). Ở cấp Trung ương, thành lập Ban
chỉ đạo cuộc vận động do đồng chí Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng làm trưởng ban. Ban chỉ đạo Trung ương thống nhất sự
chỉ đạo cuộc vận động trong toàn Đảng, toàn dân. Cán bộ, ban,
ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội ở Trung ương và các tỉnh,
thành phố, thành lập ban chỉ đạo do đồng chí bí thư cấp ủy, đảng,
đồn, phạm vi ngành, địa phương, đơn vị. Giao cho Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo, phối
hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn triển khai cuộc vận động,
biên soạn tài liệu, chuẩn bị đội ngũ giảng viên phục vụ cuộc vận
động, giúp Ban chỉ đạo theo dõi, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện chỉ
thị, định kỳ báo cáo Bộ chính trị, Ban bí thư.
1.1.2. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.
1.1.2.1. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam
trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo
đức được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng. Người nhấn mạnh
phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định. Đó là những vấn đề đạo
đức Ngưòi rút ra từ cuộc đời thực của con người và xã hội Việt nam,
khái quát thành tư tưởng, lý luận đạo đức, nhằm cải tạo con người,
làm biến đổi hiện thực xã hội. Từ đó, Người khái quát thành những
phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại
9
mới. Nói cách khác đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo
đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam.
Về những phẩm chất đạo đức của người Việt Nam, quan điểm
đạo đức Hồ Chí Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con
người trong xã hội, bao gồm:
Một là, "trung với nước, hiếu với dân".
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức
truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn
nhất, và cũng là phẩm chất đạo đức bao trùm, quan trọng nhất, được
Hồ chí Minh sử dụng và đưa vào đó nội dung mới. Trước kia là trung
quân, là trung thành với vua; trung thành với vua cũng có nghĩa là
trung thành với nước, vì vua với nước là một, vua là nước, nước là
nước của vua. Cịn hiếu lại thu hẹp trong phạm vi gia đình là con cái
phải có hiếu với cha mẹ. Tư tưởng này của Người không những kế
thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn
vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Trung với nước là trung
thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành
độc lập dân tộc và làm cho đất nước "sánh vai với cường quốc năm
châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, cho nên "trung với
nước" là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, "bao nhiêu quyền hạn
đều của dân"; "bao nhiêu lợi ích đều của dân"...
Hiếu với dân có nghĩa là cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước không
chỉ là người lãnh đạo ma còn là "đầy tớ trung thành của dân", phải
"tận trung với nước, tận hiếu với dân".
Trung với nước, hiếu với dân có một tầm quan trọng đặc biệt. Nó
là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên
phải "tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân".
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là
điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung với nước, hiếu với dân
là phải gắn bó máu thịt với dân, gần dân, dựa vào dân và lấy dân làm
gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi
của người làm chủ đất nước, quyền thì được hưởng, cịn trách nhiệm
thì phải làm trịn. Có được cái đức ấy thì người cách mạng, người
10
lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo ra
được sức mạnh to lớn cho cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện
quan điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân
với cộng đồng, với đất nước.
Hai là, "yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình".
u thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ
nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Người
coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu
thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân
trong quan hệ xã hội.
Đó là tình cảm u thương rộng lớn. Trước hết dành cho những
người lao động, những người cùng khổ. Tình yêu thương con người
còn được thể hiện bằng “ham muốn tột bậc là làm cho đất nước được
độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”. Người cho rằng, nếu khơng có tình u thương
con người thì khơng thể nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình yêu thương con người còn được thể hiện trong mối quan
hệ bạn bè, đồng chí, với mọi người trong quan hệ hằng ngày. Nó địi
hỏi mọi người phải ln chặt chẽ và nghiêm khắc với mình, độ lượng,
rộng rãi với người khác. Nó địi hỏi thái độ tôn trọng con người, biết
cách nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp, càng không phải
vùi dập, đè nén người khác, đặc biệt đối với những người lạc lối,
lầm đường, mắc sai lầm, khuyết điểm thì phải tìm cách để họ nhận ra
sai lầm của mình và tìm biện pháp khắc phục, sửa chữa. Đồng thời
yêu thương con người phải tin vào con người, yêu thương con người
là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, cao đẹp hơn. Yêu thương
con người phải thực hiện phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa
khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Với tấm lòng bao dung, rộng lượng của một người cha, Người căn
dặn chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện ác ở trong lòng. Ta phải
làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
11
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với
những người có thói hư, tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và
nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện
trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho
tơi bời” [11, tr.558].
Người dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê Nin là phải sống với nhau
có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống khơng có tình
có nghĩa thì sao gọi là hiểu Chủ nghĩa Mác - Lê Nin được”. Trước lúc
đi xa, trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: "Phải có tình
đồng chí thương u lẫn nhau".
Ba là, “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là nền tảng của đời sống
mới, là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mọi
người. Phẩm chất này có hay khơng có, nhiều hay ít đều được thể
hiện qua hoạt động thực tiễn, trong đời công hay đời tư, trong sinh
hoạt cũng như trong cơng việc người đó làm, những cương vị mà
người đó đảm nhiệm.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư trong tư tưởng đạo đức
của Hồ Chí Minh là mối quan hệ "với tự mình".
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính
của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương mà người
giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng
tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không
lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là
nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền
của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ;
“khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi, khơng phơ trương
hình thức” ...
Liêm là “ln ln trọng giữ gìn của cơng và của dân’’, “khơng
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”;
“không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng,
khơng tham người tâng bốc mình”... Vì vậy mà quang minh chính đại,
12
khơng bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham
tiến bộ.
Chính là khơng tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình khơng
tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm
để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với
người khơng nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc cơng
lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao việc gì quyết làm cho
kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy
cũng tránh”.
Chí cơng vơ tư là đem lịng chí công vô tư đối với người, với
việc, là công bằng, cơng tâm, khơng thiên tư, tư thù, ân ốn cá nhân.
“Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng
thụ thì mình nên đi sau”; “Phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”
[10, tr.311].
Cần, kiệm, liêm, chính, có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí
cơng vơ tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư. Ngược
lại đã chí cơng vơ tư, một lịng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định
sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Bốn là, “tinh thần quốc tế trong sáng”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đồn kết quốc tế là sự
mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra
phạm vi tồn thế giới, vì Người khơng chỉ là “Người Việt Nam nhất”
như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định, mà cịn là “nhà văn
hóa lớn của thế giới”, “chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc
tế”.
Tinh thần quốc tế trong sáng là tinh thần đồn kết quốc tế vơ
sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản
đều là anh em”; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động các nước, mà Bác đã dày công vun đắp bằng hoạt
động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và sự nghiệp cách mạng
của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân ta với tất cả những
người trên thế giới vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết
ấy nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc,
13
dân chủ, và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước,
các dân tộc.
Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa
yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là
yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ
quốc gia, dân tộc. Không phải đối với bất cứ lúc nào cũng thấy được
tinh thần quốc tế có hay không, trong sáng hay không trong sáng,
nhưng việc giáo dục của Đảng và rèn luyện của cá nhân mỗi người về
tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Trong vấn đề này, đường lối
chính trị của Đảng lãnh đạo và những chủ trương chính sách cụ thể
của Nhà nước có ý nghĩa định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng
tinh thần quốc tế ở mỗi người.
1.1.2.2. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức
mới trong xã hội và chính Người đã suốt đời tự rèn luyện mình, là
tấm gương về giữ gìn, rèn luyện đạo đức. Người cũng không ngừng
giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện.
Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới trong tư tưởng Hồ Chí
Minh thể hiện:
Một là, nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã giáo dục mọi người
và chính bản thân Người đã thực hiện nói đi đơi với làm một cách
nghiêm túc và đầy đủ nhất. Người nói ít nhưng làm nhiều, có những
vấn đề đạo đức Bác chỉ làm mà khơng nói. Do đó, chỉ có đi sâu vào
hành vi đạo đức của Hồ Chí Minh, chúng ta mới thấy được những bản
chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đối với mỗi người,
lời nói phải đi đơi với việc làm mới đem lại hiệu quả thiết thực cho
chính bản thân mình và có tác dụng đối với người khác.
Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự nêu gương
của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên... là rất
quan trọng. Người yêu cầu cha mẹ làm gương cho các con, anh chị
làm gương cho các em, ông bà làm gương cho các cháu, lãnh đạo làm
gương cho nhân viên... chúng ta phấn đấu cho một xã hội khơng cịn
14
những kẻ đạo đức giả “Hãy làm theo tơi nói, đừng làm theo tôi làm”
càng không cho phép những kẻ đạo đức giả ấy đi dạy giỗ người khác
về đạo đức. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chủ nghĩa xã hội
một phần quan trọng phụ thuộc vào vấn đề này.
Từ đó chúng ta thấy rằng khơng ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu
gương lại được đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì
đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với những
người em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy cơ đối với
học sinh; trong tổ chức, tập thể là tấm gương của người phụ trách,
lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm
gương người này đối với người khác, những tấm gương “người tốt,
việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã phát hiện để mọi người học tập noi
theo. Việc xây dựng đạo đức mới là một nguyên tắc rất cơ bản, là sự
nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh
- một tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời của một cuộc đời trọn
vẹn.
Trong xã hội, tấm gương của thế hệ đi trước đối với các thế hệ
sau là hết sức quan trọng. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm của mình,
nhưng thế hệ đi trước bao giờ cũng có trách nhiệm rất lớn đối với thế
hệ sau trong việc giáo dục, bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức.
Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước
mặt quần chúng khơng phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho
người ta bắt chước” [8, tr. 552].
Các tấm gương đạo đức phải được hiểu theo một nghĩa rộng chứ
không thể bó hẹp trong một khn mẫu nào đó. Có những tấm gương
riêng và chung, nhỏ và lớn, gần và xa. Trên cơ sở một cái nền rộng
lớn, vững chắc để xây dựng một nền đạo đức mới. Chỉ có như vậy thì
những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực đạo đức mới trở thành
hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong tồn xã hội. Và chính
những tấm gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người
tốt, việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho xã hội ngày càng tốt đẹp, văn
minh hơn.
15
Hai là, xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm
chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái,
xấu xa, không phù hợp với những yêu cầu đạo đức mới. Tuy nhiên,
việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức vơ cùng khó khăn và vất
vả, vì trong đời sống hằng ngày, những hiên tượng tốt - xấu, đúng sai, cái có đạo đức và vơ đạo đức vẫn thường đan xen nhau, đối chọi
nhau, thông qua hành vi của từng con người. Thậm chí có thể đối với
người này với một hành vi đạo đức nào đó thì được coi là đúng nhưng
đối với người khác thì đó là trái đạo lý. Đó là vì “chủ nghĩa cá nhân”.
Xây đi đơi với chống, muốn xây thì phải chống, chống nhằm mục
đích xây.
Vấn đề xây dựng đạo đức mới trước hết được tiến hành bằng việc
giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong
gia đình đến nhà trường, tập thể và tồn xã hội. Những phẩm chất
chung nhất phải được cụ thể hóa sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng.
Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ thể các phẩm
chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm
xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo
đức lành mạnh ở mọi người, để mỗi người tự giác nhận thức được
tránh nhiệm đạo đức của mình. Trong đấu tranh chống lại các tiêu
cực, lạc hậu phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Trong quá trình xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức
mới, phải luôn chú ý chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn
thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Vấn đề đáng quan tâm là
cần phải phát hiện sớm, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự
trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Mặt khác, cần phải thấy trước
những gì có thể xảy ra để phịng, ngăn chặn.
Để xây và chống đem lại hiệu quả thì phải tạo thành phong trào
quần chúng rộng rãi. Nhìn vào q trình hoạt động thực tiễn của Hồ
Chí Minh, chúng ta đã thấy Người phát động rất nhiều phong trào có
sức lan tỏa rộng rãi. Năm 1952, có phong trào thi đua thực hành tiết
kiệm, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu; năm 1963 có cuộc vận động
16
“nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính,
cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”, gọi tắt là cuộc
vận động “ba xây, ba chống”. Điều đáng chú ý là có phong trào, có
cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng giới. Thơng qua đó đã lơi
cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây gì, chống gì rất cụ thể,
rõ ràng, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn
đấu tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Qua
thực tiễn đã chứng minh cho chúng ta thấy những cuộc vận động đó
đã mang lại những kết quả to lớn.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở là mỗi người phải thường
xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hằng ngày, và phải
xem đó là cơng việc phải làm kiên trì, bền bỉ suốt đời, khơng người
nào có thể chủ quan, tự mãn. Người khẳng định, đạo đức cách mạng
phải qua đấu tranh, rèn luyện mới thành. Người viết: “Đạo đức cách
mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bĩ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong” [9, tr.293]. Vì khơng chú ý điều
ấy, nên có những người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành,
không sợ nguy hiểm, cực khổ, không sợ quân thù nhưng đến khi có ít
quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, tham ơ, lãng phí,
quan liêu, hách dịch, cửa quyền... Từ đó, Hồ Chí Minh đi đến một kết
luận sâu sắc: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hơm
qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày
mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta
kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, làm cho
văn minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái
xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người” [11,
tr.557-558].
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai
trị rất quan trọng. Người khẳng định đã là người thì ai cũng có chỗ
hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình.
Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, khơng tự lừa dối,
17
huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ
cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.
Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện
trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như đời công, sinh
hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong mối quan hệ xã hội, gia
đình, nhà trường; quan hệ bạn bè, đồng chí, anh em, đồng nghiệp...
Và cả trong mối quan hệ quốc tế. Trong cuộc sống, mỗi người có
nhiều cương vị, nhiều vai trò khác nhau đòi hỏi phải điều chỉnh hành
vi của mình và phẩm chất đạo đức của mỗi người được thể hiện rất cụ
thể, phong phú, đa dạng. Có rèn luyện cơng phu như vậy, con người
mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp, và những phẩm chất ấy ngày
càng được bồi đắp, nâng cao.
1.1.2.3 Về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một vĩ
nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng
đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người chân chính, bình
thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, để làm theo, để trở thành
một người cách mạng, một công dân tốt hơn trong xã hội. Điều này
thể hiện trong các điểm sau:
Một là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn
đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
Ngay từ thủơ thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách
rõ ràng mục tiêu phấn đấu cho cả cuộc đời mình vì nước, vì dân.
Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài và gian khổ, Người
đã chấp nhận mọi sự hi sinh, không quản gian nan, kiên định, dũng
cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, “thắng
khơng kiêu, bại khơng nản”, “giàu sang khơng thể quyến rũ, nghèo
khó khơng thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục” nhằm thực
hiện bằng được mục tiêu đó. Người nói: “Bài học chính trong đời tơi
là tuyệt đối hồn tồn cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng
và thống nhất đất nước, giải phóng giai cấp cơng nhân và dân tộc bị
áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, cho sự hợp tác anh em
và hịa bình giữa các dân tộc”; “một ngày đồng bào còn chịu khổ là
18
một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên” [7, tr.419]. Đến lúc phải
rời thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người là “không phục
vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Tấm gương vì nước, vì dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người của Hồ
Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế thừa nhận và
kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và trang trọng nhất để ca
ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nhà cách mạng triệt để”, “nhà hoạt
động quốc tế thần thoại”, “một nhân vật nổi bật trong thời đại của
chúng ta”, “một tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng và
nhân đạo cao cả nhất. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ
phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, gan dạ, quên mình, kiên nghị và
dũng cảm một cách phi thường như vậy [12, tr.76].
Hai là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị
lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục
đích.
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm
tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án
tử hình, có giai đoạn hoạt động rất sôi nổi, được đánh giá rất cao, có
giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kỵ, khơng được giao nhiệm vụ…Song,
nhờ ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh,
kiên cường, chủ động vượt qua mọi thử thách gian nguy, kiên trì mục
đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách
người cộng sản. Người tự răn mình:
“Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao” [6, tr.265]
Dũng cảm, quyết tâm, bền bĩ, bất khuất là những đặc trưng
trong nhân cách Hồ Chí Minh. Một tờ báo nước ngoài đã viết: “Đằng
sau cái cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là một ý chí sắt thép. Dưới cái
bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng khơng có gì uy
hiếp nổi”.
Ba là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng
vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lịng, hết sức
phục vụ nhân dân.
19