1
Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
______________________________________________________________
MS3: Báo cáo nghiên cứu cơ bản
Tên dự án
Giới thiệu những nguyên tắc GAP trên cây
có múi thông qua triển khai IPM áp dụng
dưới hình thức lớp Huấn luyện Nông dân
Cơ quan quản lý dự án của Việt Nam
Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn,
Cục Bảo vệ thực vật
Nhóm trưởng dự án của Việt Nam
Ông: Ngô Tiến Dũng
Cơ quan quản lý dự án của Úc
Trường Đại học Tây Sydney
Cán bộ thực hiện dự án của Úc
Oleg Nicetic, Robert Spooner-Hart, Elske
van de Flierd
Thời gian bắt đầu
Tháng 3 năm 2007
Thời gian kết thúc
Tháng 2 năm 2010
Cơ quan liên lạc
Tại Úc: Điều phối vi ên
Tên:
Oleg Nicetic
Telephone:
+61245701329
Chức vụ:
Nghiên cứu viên
Fax:
+61245701103
Tên cơ
quan:
Trường Đại học Tây Sydney
Email:
Tại Úc: Ng ười quản lý
Tên:
Gar Jones
Telephone:
+6124736 0631
Chức vụ: Director, Research Services Fax: +6124736 0905
Tên cơ
quan
University of Western Sydney
Email:
Tại Việt Nam
Tên:
Mr Ngô Tiến Dũng
Telephone:
+84-4-5330778
Chức vụ:
Điều phối viên chương trình
IPM qu
ốc gia
Fax:
+84-4-5330780
Cơ quan
Cục Bảo vệ thực vật
Email:
2
Nhiệm vụ được giao
Nhiệm vụ được giao trong kỳ này là bổ xung vào báo cáo điều tra cơ bản phía
Nam và kết quả mới điều tra ở phía Bắc của tất cả các thành phần tham gia để đánh
giá về định tính và định lượng, bao gồm:
1.
Thông tin về kiến thức, kỹ năng, thái độ và thực hành của các chuyên viên Cục
BVTV, SRPCC, Viện BVTV, CU, Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam, Hội
làm vườn Việt Nam, Hiệp hội trái cây Việt Nam và công ty thuốc trừ sâu Sài
Gòn về GAP và IPM lồng ghép GAP.
2.
Kiến thức và kỹ năng về GAP/GAP của 15 giảng viên chính, 90 giảng viên và
đại diên của 2880 nông dân tham gia.
3.
Thực hành GAP/IPM của đại diện nông dân tham gia ở các mức sản xuất và
phân tích tài chính về chi phí và đầu tư
4.
Bản phân tích của những siêu thị chính về yêu cầu GAP/IPM, nhu cầu và các lệ
phí.
5.
Tìm kiến cơ hội đầu tư cho dự án để có được hiệu quả kinh tế, xã hội và môi
trường cho người sản xuất.
Giới thiệu chung
Đây là dự án thứ 3 của AusAID CARD thực hiện trên cây ăn quả có múi ở Việt
Nam. Hai dự án trước tập trung chủ yếu về IPM. Tuy nhiên sử dụng thành quả của
IPM là thành phần chính (nội dung) để thực hiện GAP. Khi dự án kết thúc vào
2010 nó sẽ chỉ ra bứ
c tranh toàn cảnh về những gì đạt được bởi việc đầu tư hiệu
quả của dự án được thực hiện bởi AusAID CARD trong công nghệ trồng cây ăn
quả có múi ở Việt Nam so với mười năm trước. Để đánh giá ảnh hưởng (tác động)
của lớp huấn luyện nông dân (FFSs) và các hoạt động liên quan đến các nhà đầu tư
cho dự án, một hệ thống đánh giá tác động đã
được lên kế hoạch và kinh phí như là
một phần dự án 037/06 VIE. Đánh giá tác động đã không được tiến hành như là
một phần của dự án CARD thực hiện từ 2001 đến 2004 nhưng nó đã trở thành một
phần quan trọng trong giai đoạn hai của dự án 036/04 VIE thậm chí nó không có kế
hoạch và tài chính ngay từ ban đầu.
Sự nhấn mạnh của đánh giá tác động được tiến hành trong dự án 036/04 VIE là:
Kiến thức, thái độ
và thực hành (KAP) điều tra được tiến hành trước và sau khi
thực hiện các lớp FFS. Gần như tất cả nông dân (khoảng hơn 2000) tham gia trong
lớp FFSs đã hoàn thành điều tra của mình. Nhóm thực hiện dự án đã thu được
những bài học về đánh giá tác động. Điều tra theo KAP đã biết được hoạt động sản
xuất ở hai xã có lớp FFS của mỗi tỉnh. Nắm bắt quá trình sản xuất
đã được thực
hiện như là một phần của nghiên cứu thực địa bao gồm: Kỹ thuật trồng trọt, tỉa
cành tạo tán và thực hành bón phân, quản lý các đợt lộc, thu hoạch, hoạt động tưới
nước, quản lý dịch hại và ước lượng thu nhập trên một hecta. Phóng vấn cũng đã
được thực hiện với các cửa hàng bán thuốc BVTV. Trước khi kết thúc dự án phỏng
vấn ít nhấ
t 5 nông dân học lớp FFS của một tỉnh. Những đánh giá bổ xung này rất
chính xác do áp dụng phương pháp dạc tam giác, nhưng kinh phí dự án không có
cho hoạt động này, nhưng những người Việt Nam tham gia đã nhiệt tình đã thực
hiện tất cả các cuộc phỏng vấn dù không có tiền. Cuối dự án tất cả những người
3
tham gia chính sẽ hoàn thành điều tra và 3 người quản lý dự án sẽ viết báo cáo quan
sát của họ về tác động của dự án. Tác động của dự án được trình bày những vấn đề
không giống nhau như: Kinh tế, xã hội và tác động môi trường. Lợi ích kinh tế đã
được so sánh với giá của lớp FFS.
Phương pháp để đánh giá tác động của dự án 037/06 VIE đã được thảo luận, xây
dựng và thống nhất với nhóm qu
ản lý dự án ( Mr Ngô Tiến Dũng, Hồ Văn Chiến,
Lê Quốc Cường và Oleg Nicetic) tại cuộc họp tại Mỹ Tho ngày 31/05/2007 và tại
hội thảo ở Hà Nội ngày 26/09/07 và ở Mỹ Tho ngày 30/09/07. Hội thảo ở Hà Nội
gồm có: Chuyên viên của Cục BVTV, Trung tâm BVTV Vùng khu 4, các giảng
viên IPM của Chi cục BVTV Nghệ An và Hà Tây. Hội thảo ở Mỹ Tho gồm có:
Chuyên viên của Trung tâm BVTV Phía Nam, các giảng viên IPM của Chi cục
BVTV Tiền Giang và Cần Thơ. Các giảng viên tham gia hội thảo sẽ
trực tiếp tham
gia đánh giá dự án trong 2 năm.
Đánh giá tác động sẽ được tiến hành theo 2 hướng (đường): Bắt đầu và kết thúc của
dự án (B&E) phương pháp sử dụng giống như phương pháp dùng đánh giá dự án
036/04 VIE. Tiếp tục kiểm tra giám sát 2 nhóm nông dân: Nhóm nông dân đang
học ở lớp FFS và nhóm nông dân đối chứng. Đánh giá ảnh hưởng trước và sau
huấn luyện được tiến hành ở 13 tỉnh của dự án. Việc
đánh giá được dựa trên sự so
sánh theo chiều dọc (VD: trước và sau khi học lớp FFS) về thái độ của người dân
hướng theo GAP, thay đổi thực hành quản lý trên vườn cây ăn quả có múi, thay đổi
trong đời sống xã hội và thay đổi về điều kiện môi trường. Số liệu thu thập được sẽ
được đánh giá một cách độc lập bởi nông dân và những người khác của dự án. Hạn
chế của phươ
ng pháp là có thể thiên vị và cường điệu hoá lợi ích của lớp FFS. Tuy
nhiên, sự hạn chế này có thể sẽ được làm giảm tối thiểu bằng cách sử dụng mẫu lớn
và phân tích 3 chiều: KAP điều tra, phỏng vấn và quan sát đồng ruộng.
Giai đoạn nghiên cứu được tiến hành trong tháng 6 năm 2007 và đã trình bày trong
báo cáo này là phần đầy đủ của trước và sau đánh giá. Mốc nghiên cứu sẽ được
chuẩn bị
lại vào tháng 6 năm 2008 cho các lớp FFSs đã được huấn luyên trong năm
2008.
Đánh giá tác động với việc tiếp tục giám sát sẽ được đảm nhận với những nông dân
bắt đầu học lớp FFS trong năm 2008, số liệu thu thập đươc về đầu tư chăm bón, thu
nhập và các biện pháp quản lý vườn cây ăn quả có múi là xác thực và đáng tin cậy.
Giám sát đã bắt đầu từ tháng 2 năm 2008 trước khi lớp FFS b
ắt đầu và sẽ tiếp tục
suốt năm 2008 và một năm tiếp theo sau khi kết thúc lớp FFS. Tuy nhiên do không
có đủ kinh phí để tiếp tục hoạt động đánh giá cho cả 13 tỉnh tham gia dự án, hoạt
động giám sát chỉ được thực hiện ở 2 tỉnh phía nam (Tiền Giang và Cần Thơ) và 2
tỉnh phía bắc (Nghệ An và Hà Tây).
Hai giảng viên của mổi tỉnh được lựa chọn tham gia đánh giá có vai trò giám sát
hoạt động ghi chép lưu giữ s
ổ sách của nông dân, họ sẽ tiến hành quan sát thường
xuyên trên vườn cây ăn quả có múi. Tất cả nông dân tham gia đánh giá tác động sẽ
gặp nhau 2 lần/tháng. Ở mỗi tỉnh chọn 2 nhóm, mỗi nhóm 10 nông dân. Nhóm
nông dân tham gia học lớp FFS trong năm 2008 và nhóm nông dân không tham gia
lớp FFS (nhóm nông dân đối chứng). Các giảng viên có nhiệm vụ giám sát ghi
chép của nông dân về các chỉ tiêu kinh tế (chi phí sản xuất), xã hội và tác động của
4
môi trường. Phỏng vấn cuối cùng với những nông dân tham gia sẽ được tiến hành
vào tháng 11 năm 2009 cùng với UWS và chuyên viên Cục BVTV.
Báo cáo này sẽ trình bày những phát hiện trong nghiên cứu từ ngày 01 đến 28
tháng 6 năm 2007. Báo cáo này được sử dụng như điểm chuẩn tương phản tác động
của dự án sẽ được đánh giá. Kết quả nghiên cứu đã được thực hiện bởi sự kết hợp
với sự quan sát trên đồ
ng ruộng, phỏng vấn với nông dân trên đồng, điều tra của
các học viên lớp FFS, phỏng vấn và điều tra giảng viên, phỏng vấn những người
tham gia chính trong dự án, và phỏng vấn giám đốc Chi cục, giám đốc sở Nông
nghiệp.
Vật liệu và phương pháp
3.1 Điều tra cơ bản nông dân và giảng vỉên
Trong năm 2007, hai lớp huấn luyện nông dân (FFS) đã được tiến hành ở mỗi tỉnh
trong tổ
ng số 13 tỉnh (bảng 1). Các tỉnh được chia làm 3 vùng cho mục đích nghiên
cứu. Các vùng gồm: Đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre,
Đồng Tháp, Tiền Giang), Bắc Miền Trung và hai tỉnh Phía Nam Hà Nội (Hà Tĩnh,
Nghệ An, Hoà Bình, Hà Tây và vùng thứ 3 gồm các tỉnh ở Phía Bắc Hà Nội (Phú
Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang). Một trong 2 lớp FFS ở mỗi tỉnh được lựa
chọn ngẫu nhiên đảm nhận cho việc nghiên cứu. Trong thời gian thăm lớp FFS lựa
chọn cho nghiên cứu, các hoạt động sau đây đã được thực hiện:
3.1.1. Thăm chủ vườn cây chọn làm địa bàn học tập của lớp FFS, quan sát vườn
cây, kiểm tra việc ghi chép làm theo GAP và phỏng vấn nông dân.
3.1.2. Thăm các cửa hàng bán thuốc BVTV ở địa phương mở lớp FFS
3.1.3. Điều tra ngẫu nhiên 5 nông dân tham gia trong lớp FFS
3.1.4. Điều tra 2 giảng viên
Ở đồng bằng sông Cửu Long chủ vườn học tập của lớ
p đồng thời cũng cho lớp học
mượn nhà để học hành kỳ, trong khi ở các tỉnh Bắc Miền Trung và Phía Bắc Việt
Nam lớp học được tổ chức ngay tại nhà văn hoá của thôn, xóm. Phỏng vấn nông
dân thường được thực hiên ngay tại lớp học.
3.1.1. Phỏng vấn nông dân ngay tại vườn
Oleg Nicetic đã tiến hành tất cả các cuộc phỏng vấn thông qua người phiên dịch.
Những thông tin tìm kiếm chính là diện tích v
ườn cây ăn quả, giống, khoảng cách
giữa các cây, số lần ra lộc trong năm, số lần thu hoạch và thời gian của những lần
thu họạch đó, số lần phun thuốc, phương pháp áp dụng. Những thông tin này bao
gồm câu hỏi phỏng vấn nông dân, quan sát trên vườn cam, nơi cất giữ, nơi tiêu huỷ
thuốc BVTV. Các cây cũng được kiểm tra về dịch hại và bệnh hại. Cùng thời gian
đó kiểm tra nhanh sổ sách ghi chép c
ủa nông dân làm theo những yêu cầu của
EurepGAP. Thông tin đã được ghi lại trên trang 6 của (phụ lục 1)
3.1.2. Thăm cửa hàng bán thuốc BVTV
Sau khi thăm vườn cây ăn quả, thăm cửa hàng bán thuốc BVTV ở địa phương. Chủ
cửa hàng đã được Oleg Nicetic phỏng vấn thông qua người phiên dịch. Thông tin
tìm kiếm là 3 loại thuốc sử dụng thông thường nhất: Thuốc trừ sâu, thuốc trừ nhện
5
và thuốc trừ nấm và làm thế nào để chủ cửa hàng đã cung cấp thông tin và khuyến
cáo cho nông dân. Thông tin đã được ghi lại trên trang 6 của (phụ lục 1)
3.1.3. Điều tra ngẫu nhiên 5 nông dân
Đièu tra nông dân được thực hiện bởi các giảng viên với sự giúp đỡ hướng dẫn
giám sát của anh Cường ở Trung tâm BVTV phía Nam và anh Lộc ở Trung tâm
BVTV khu 4. Cuộc điều tra mất khoảng 20 phút cho một nông dân để hoàn thành
và kết quả đã được ghi lại ở
trang 10 (phụ lục 2).
Số liệu đã được tổng hợp cho từng tỉnh, vùng và kết quả được trình bày ở bảng 6
đến bảng 15.
Số liệu về nguồn giống cây trồng được trình bày ở bảng 6 đã được tăng thêm bằng
cách nhân số người phỏng vấn đã có tất cả cây giống từ 1 nguồn với 3, những
người có phần lớn giống cây từ một ngu
ồn với 2 và những người có một ít giống
cây từ một nguồn với 1. Tính toán điểm cho mỗi tiêu chí đã được chia bởi điểm tối
đa cho mỗi tỉnh để đạt được tỷ lệ cân xứng.
Số liệu về nhận thức tầm quan trọng của sâu và bệnh hại cho mỗi tỉnh ở bảng 7a và
cho mỗi vùng bảng 7b đã được tính toán bởi việc nhân số ng
ười phỏng vấn có nhận
thức dịch hại là rất quan trọng với 2, quan trọng với 1 và không quan trọng với 0.
Kết quả cho điểm đã được phân chia bởi số người phỏng vấn cho mỗi tỉnh. Dịch
hại có điểm trong phụ lục băng 0 được cho rằng là không quan trọng, từ 0,1 0,5 là
bình thường, từ 0,6 1,0 là trung bình, từ 1,1 1,5 là quan trọng và từ 1,6 đến 2,0 là
rất quan trọng.
Số liệ
u về mẫu và số lần phun thuốc trình bày ở bảng 8a thể hiện tỷ lệ phần trăm số
người phỏng vấn trong mỗi tiêu chí (ví dụ: phun phòng sâu hại, phun phòng bệnh
hại và phun trừ bệnh) cho mỗi tỉnh và mỗi vùng.
Số liệu về số lần sử dụng thuốc cho những sâu và bệnh hại chủ yếu của mỗi tỉnh
trình bày ở bảng 8b và cho mỗi vùng ở bảng 8c
đã được tính toán bằng cách nhân
số người phỏng vấn đã phun trên 3 lần trong năm với 5, những người phun (từ 1-3
lần) với 2 và không phun lần nào với 0. Kết quả cho điểm được phân chia bởi số
người phỏng vấn cho mỗi tỉnh. Phun thuốc không được thực hiện khi điểm số là 0;
phun thuốc rất ít được áp dụng bởi một số nông dân khi điểm số từ 0,1 1,0; phun
thu
ốc rất ít được áp dụng bởi số đông nông dân khi điểm số từ 1,1 2,0; phun
thuốc thường xuyên được áp dụng bởi một số nông dân khi điểm số từ 2,1 3,0;
phun thuốc thường xuyên được áp dụng bởi phần lớn nông dân khi điểm số > 3.
Số liệu về hoạt động quản lý dịch hại khác so với phun thuốc được trình bày ở bảng
9, tính tỷ lệ phần tră
m nông dân ở mổi tỉnh và vùng có thực hành hoạt động quản
lý dịch hại.
Số liệu về mức độ sử dụng quần áo bảo hộ lao động và các thiết bị bảo hộ khác
trong khi thực hiện biện pháp BVTV trình bày ở bảng 11, tính tỷ lệ phần trăm nông
dân cho mổi tỉnh và vùng có sử dụng trang bị bảo hộ hoặc quần áo.
Số liệu trình bày ở bảng 13 thể hiệ
n tỷ lệ phần trăm nông dân cho mổi tỉnh và vùng
đã trả lời chính xác về các yêu cầu của GAP (trình bày trong tiêu chí Hiểu về
những yêu cầu chính của GAP”), về sự quan tâm đến việc tiến hành các vấn đề của
6
GAP (trình bày trong tiêu chí sự hiểu biết về các vấn tiến hành) và tỷ lệ phần trăm
nông dân tin tưởng tiến hành theo GAP sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế (trình bày ở tiêu
chí tin tưởng về hiệu quả kinh tế)
Số liệu về mức độ kỹ năng mà nông dân tự đánh giá được trình bày cho mổi tỉnh ở
bảng 14 và cho mổi vùng bảng 15 số liệu được tính toán bằng cách nhân số nông
dân đã có khả nă
ng áp dụng chắc chắn những kỹ năng một cách độc lập và tự tin
với 3, số nông dân áp dụng kỹ năng một cách độc lập nhưng không tự tin với 2, số
nông dân áp dụng kỹ năng với sự giúp đỡ của những người khác với 1 và số nông
dân không thực hiện được các công việc với 0. Tổng số điểm cho mổi tỉnh được
chia theo tổng số nông dân phỏng v
ấn của tỉnh để có số điểm trung bình. Điểm tối
đa là 3. Điểm trên 2,5 là ở mức tự tin cao (trên 80% của tổng số điểm), điểm thấp
hơn 1,5 là thiếu tự tin trong số đông nông dân, điểm giữa 1,5 2,5 phần lớn nông
dân tự tin vào khả năng của họ nhưng cần giúp đỡ để tăng kỹ năng của họ cho tự
tin h
ơn.
3.1.4 Survey of trainers (Điều tra giảng viên)
Phỏng vấn các giảng viên được Mr Lê Quốc Cường, Trung tâm BVTV Phía Nam
và Mr Nguyễn Tuấn Lộc, Trung tâm BVTV khu 4 thực hiện, sau khi đã kết thúc
phỏng vấn nông dân. Thời gian phỏng vấn cho một giảng viên mất 15-20 phút và
kết quả được ghi lại ở trang 4 (phụ lục 3).
Số liệu đã được tổng hợp cho mỗi tỉnh, vùng và được trình bày ở bảng 16 đến bảng
18. Số liệ
u về lòng tin và thái độ của giảng viên đối với GAP ở bảng 16 cho thấy số
giảng viên của mổi tỉnh đồng ý với ý kiến đã trình bày.
Số liệu về kỹ năng (khả năng) của giảng viên, kỹ năng này do giảng viên tự đánh
giá được trình bày cho mỗi tỉnh ở bảng 17 và cho vùng ở bảng 18 số liệu được tính
toán bằng cách nhân số giảng viên có khả năng huấn luy
ện nông dân một cách độc
lập và tự tin với 3, số giảng viên có khả năng huấn luyện nông dân một cách độc
lập nhưng không tự tin lắm với 2, số giảng viên có kiến thức và kỹ năng nhưng
không thể huấn luyện nông dân với 1, số giảng viên có kiến thức nhưng không có
kỹ năng huấn luyện nông dân với 0. Tổng số điểm cho mổi tỉnh đã được phân chia
theo s
ố giảng viên phỏng vấn trong tỉnh để có số điểm trung bình. Điểm tối đa là 3.
Điểm trên 2,5 là ở mức tự tin cao (trên 80% của tổng số điểm), điểm thấp hơn 1,5
là thiếu tự tin trong số đông giảng viên, điểm giữa 1,5 2,5 phần lớn giảng viên tự
tin vào khả năng của họ nhưng cần giúp đỡ để tăng kỹ nă
ng của họ cho tự tin hơn.
Ở phía dưới của bảng 17 và 18 điểm về sự hiểu biết của giảng viên đã được thể
hiện. Đã có 5 câu hỏi mở để tìm hiểu về kiến thức của giảng viên (phụ lục 3). Với
mổi câu hỏi điểm 0 cho câu trả lời không chính xác, 0,5 cho trả lời đúng một phần
và 1,0 cho câu trả lời đúng. Điể
m của 2 giảng viên đã được cộng vào và trình bày ở
trong các bảng.
7
Bảng 1. Địa điểm của các lớp huấn luyện nông dân (FFSs) và loại cây ăn quả chính
Tỉnh Huyện Xã Vĩ độ Longitude Kinh
độ (m)
Cây
trồng
chính
Đồng bằng sông Cửu Long
Cần Thơ Phong Điền Nho 100018N 1053804E 10 Cam ngọt
Vinh Long Binh Minh My Hoa 100041N 1055057E 10 Bưởi
Ben Tre Ben Tre
City
Phu Nhuan 101311N 1062232E 7 Bưởi
Dong Thap Lai Vung Long Hau 101719N 1053656E 4 Quýt Tiều
Tien Giang Cai Be My Loi A 102115N 1060558E 5 Cam vua
Bắc Miền Trung
Ha Tinh Huong Son Son Truong 182814N 1052617E 25 Cam Bù
Nghe An Anh Son Dinh Son 190141N 1043809E 50 Cam Vân
Du
Hoa Binh Cao Phong Đội 6
Nông trường
Cao Phong
204337N 1051918E 203 Cam Vân
Du
Ha Tay Phuc Tho Van Ha 210858N 1053712E 23 Bưởi
Diễn,
Cam
Canh
Vùng núi Phía Bắc
Phu Tho Doan Hung Que Lam 213938N 1050513E 52 Bưởi
Đoan
Hùng
Yen Bai Yen Bai Dai Binh 214057N 1050427E 50 Bưởi và
Cam Sành
Tuyen Quang Ham Yen Tan Yen 220322N 1050240E 200 Cam Sành
và Cam
chanh
Ha Giang Vi Xuyen Viet Lam 224009N 1045542E 250 Cam Sành
3.2 Điều tra những cơ quan chính của Việt Nam
Tháng 11 năm 2007, Dr Zina O’Leary đã được mời tham dự Hội thảo của dự án
CARD project 037/06VIE vớí tư cách là nhà phê bình độc lập. Bà đã phỏng vấn
tổng số 6 vấn đề chính từ 26 tháng 11 đến 2 tháng 12, nhằm khám phá quan niệm
về thực hành nông nghiệp tốt (GAP). Cuộc phỏng vấn là thân mật tự nhiên và theo
kiểu đàm thoại. Đúng ra cuộc phỏng vấn phải tuân theo các câu h
ỏi đã được chuẩn
hoá, nhưng cuộc phỏng vấn đã giữ các thành viên trong cuộc đàm thoại dài về các
chủ đề liên quan đến kiến thức, giá cả và thực hiên GAP trên cây ăn quả có múi ở
các trang trại. Những thành phần tham gia đã đươci hỏi theo 6 chủ đề chính:
1. Quan niệm của họ về GAP trước khi bắt đầu dự án
2. Có hay không thay đổi quan niệm trước và sau khi dự án thực hiện
3. Những yế
u tố nào của GAP họ cám thấy không phù hợp trong sản xuất cây ăn
quả có múi của người việt
8
4. Những yếu tố nào họ cảm thấy dễ dàng chuyển đổi nhất cho nông dân theo
hướng có thể thay đổi một cách có hiệu quả thói quen (tập quán).
5. Vai trò của lớp huấn luyện nông dân (FFSs) trong chuyển giao những kiến thức
(hiểu biết) về GAP.
6. Lợi ích của việc chuyển giao những hiểu biết (kiến thức) về GAP đến nông dân
cho các nhà đầu tư, nhà tổ chức.
Mổi cuộc phỏng vấn m
ất 10-20 phút. Bài phỏng vấn được ghi lại như là bản tóm
tắt.
3.3 Đánh giá những thị trường chính cho GAP trái cây có múi
Thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm của cây ăn quả có múi là từ những cuộc
phỏng vấn thân mật được thực hiện với các chuyên viên Sở Nông nghiệp và tiến sỹ
Võ Mai phó chủ tịch Hội làm vườn Viêt Nam và chủ tịch Hiệp hội trái cây Việt
Nam.
Những cuộc phỏ
ng vấn thân mật đã được thực hiện với các giám độc Chi cục
BVTV tỉnh hoặc giám độc sở Nông nghiệp ở mổi tỉnh. Tiêu điểm của những cuộc
phỏng vấn là sản xuất cây ăn quả có múi và so sánh sản xuất cây ăn quả có múi với
các loại cây trồng khác được trồng tại tỉnh. Số liệu về diện tích trồng cây ăn quả có
múi và diện tích trồng lúa c
ủa mổi tỉnh đã được thu thập cùng với thu nhập bình
quân trên hecta Tiếp thị về cây ăn quả có múi và tầm quan trọng của GAP cũng đã
được thảo luận.
Trong phỏng vấn với tiến sỹ Võ Mai về tình trạng hiện tại và tương lai của thi
trường xuất khẩu trái cây Việt Nam cũng đã được thảo luận.
Kết quả và thảo luận
4.1 Điều tra nông dân và giảng viên
4.1.1. Phỏng vấn những nông dân trên vườn cây ăn quả/ Điều tra ngẫu nhiên 5
nông dân
Những kết quả phỏng vấn và điều tra nông dân đã được trình bày dưới đây và mọi
người có liên quan đã thảo luận cùng nhau.
4.1.1.1. Những loài cây ăn quả chính (phổ biến)
Ở đồng bằng sông Cửu Long quýt (giống Quýt Vua và Quýt Tiều) là những giống
có năng suất vượt trội. Bưởi được trồng ngày càng tăng trên vườ
n cây ăn quả và có
xu thế vượt trội hơn quýt (bảng 2). Ở bắc miền trung và Hoà Bình các giống cam là
nổi trội hơn, ở Hà Tây giống cam Canh và bưởi Diễn là những giống quan trọng. Ở
các tỉnh phía bắc Hà Nội cam là những giống phổ biến nhưng diện tích trồng bưởi
ngày càng tăng, đặc biệt là ở Phú Thọ. Một điều thú vị là một số vườn cây ăn quả
ở Tuyên Quang và Hà Giang cam
được trồng lẫn với chè. Mô hình này cần được
đầu tư hơn trong năm 2008. Điều đó cần phải được ghi nhớ ở mổi tỉnh có một bộ
giống và có một số giống là tốt, nhưng không phải là sự cố gắng tạo ra giống tốt
hơn để giới thiệu cho các tỉnh khác.
4.1.1.2 Thiết kế vườn cam và sự biến động phát triển của cây
9
Ở hầu hết các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long quýt và cam được trồng với mật độ
cao hơn (1500 2000 cây/ha) so với các tỉnh phía Bắc (400 600 cây/ha). Đối với
cây bưởi sự khác nhau về mật độ trồng là không lớn ở phía Bắc (270 490 cây/ha),
ở phía nam (330 500 cây/ha) (bảng 2). Ở đồng bằng sông Cửu Long trong vườn
cây ăn quả nông dân trồng cây non xen lẫn với những cây đã già. ở miền Bắc
không có hiện tượng này, phần lớ
n cây đã già và đã qua giai đoạn đỉnh cao của sản
lượng quả. Ở Hà Tây các vườn cây ăn quả còn ở giai đoạn kiến thiết cơ bản hoặc
chỉ mới bắt đầu vào giai đoạn khai thác đỉnh cao (đỉnh cao về năng suất) và sẽ cho
thu nhập/ha cao hơn (bảng 2). Lợi ích của chương trình trồng lại (trồng thay thế) ở
các tỉnh sẽ làm giảm đáng k
ể những cây có triệu chứng bệnh Greening.
Ở phía Bắc có 3-4 đợt lộc và chỉ có một lần ra quả. Ở phía Nam có 4-6 đợt lộc,
nhưng ở nhiều nơi vẫn cứ tiếp tục ra lộc đặc biệt là ở cây bưởi. Ở phía Bắc chỉ có
một lần thu hoach từ tháng 10 đến tháng 12, ở phía Bắc Miền Trung từ tháng 11
đến tháng 1 năm sau ở các tỉnh xung quanh Hà Nội và từ tháng 12 đến tháng 1 năm
sau ở các t
ỉnh Tuyên Quang, Hà Giang. Ở phía Nam trừ Đồng Tháp, các tỉnh khác
thu hoạch quanh năm. Ở Đồng Tháp nông dân điều khiển bằng thủ công cho cây ra
lộc và ra quả để thu hoạch một lần vào dịp Tết.
4.1.1.3/ 4.1.3.1 Sâu hại và bệnh hại phổ biến
Nông dân gặp khó khăn nhất trong nhận dạng sâu và bệnh hại, trong nhiều trường
hợp nông dân không phân biệt được nguyên nhân gây hại của sâu hay bệnh. Hầu
hết các trường hợp người nông dân tác độ
ng các biện pháp quá muộn nên không
đưa lại hiệu quả. Ví dụ như đối với sâu vẽ bùa. Nông dân cũng sử dụng một số
thuốc BVTV không cần thiết đối với một số dịch hại khi chúng chưa gây hại kinh
tế. Ví dụ đối với rệp muội (rầy mềm).
Ở đồng bàng sông Cửu Long, nông dân đã cho rằng: rầy chổng cánh (1.80), Rệp
sáp (1.64) và nhện (1.28) là những dịch hại chính (bảng 7b) trong khi đ
ó ở phía Bắc
Miền Trung thì nông dân lại cho rằng nhện (1.50), sâu vẽ bùa (1.45) và rầy chổng
cánh (1.40) là những dịch hại chính. Ở phía Bắc sâu vẽ bùa (1.35) là loài sâu hại
quan trọng nhất. Một điều rất thú vị là greening là bệnh quan trọng nhưng rầy
chổng cánh (0.50) là loài sâu hại không quan trọng. Trong ý thức của người dân
chưa hiểu biết về vai trò quan trọng của rầy chổng cánh là môi giới truyền bệnh
greening. Tuy nhiên có nhiều sự thay đổi trong nh
ận thức của nông dân về tầm
quan trọng của một số loài dịch hại giữa các tỉnh và ở mỗi vùng (bảng 7a). Rầy
chổng cánh đã được ghi nhận là loài dịch hại quan trọng ở tất cả các tỉnh ở đồng
bằng sông Cửu Long, ngoại trừ Vĩnh Long nơi rầy chổng cánh chỉ là loài hại bình
thường. Bưởi ít mẫn cảm với bệnh greening và nổi trội củ
a bưởi ở Vĩnh Long là lý
do thích hợp nhất cho sự khác biệt trong nhận thức. Rệp sáp gây hại nặng ở hầu hết
các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là rệp sáp gây hại ở rễ. Phân loại
chính xác về loài rệp sáp tấn công rễ cây có múi chưa được biết một cách đầy đủ và
không có sự cố gắng nổ lực thực sự để giải quyết vấn
đề này trong một vài năm
trước đây. Mật độ quần thể rệp sáp đã tăng lên sau khi nông dân điều chỉnh mực
nước trong kênh để ngăn lũ cho cây có múi. Rệp sáp gây hại rễ đã là mối quan tâm
lo lăng của nông dân trong nghiên cứu của chúng tôi năm 2005 nhưng mức độ nông
dân quan tâm dường như giảm xuống trong 2 năm vừa qua, điều đó nói lên rằng
loài dịch hại này không phải là nguyên nhân gây hại nghiêm trọng.
10
Ở các tỉnh đã tham gia giai đoạn trước của dự án CARD project (036/04 VIE) nhận
thức của nông dân về tầm quan trọng của sâu vẽ bùa so sánh với các loài dịch hại
khác đã thay đổi từ mức rất quan trọng trong nghiên cứu năm 2005 đến mức bình
thường trong nghiên cứu này. Ở các tỉnh đã mở các lớp FFS trong thời gian đầu của
dự án, sự gây hại của sâu vẽ bùa cao nhất hoặc cao bằng với các loài d
ịch hại khác
ở 6 trong 7 tỉnh trong khi sâu vẽ bùa đã không được xếp vào hàng dịch hại quan
trọng ở bất cự một tỉnh nào kể cả giai đoạn trước của dự án. Điều đó cho thấy tác
động của giai đoạn trước của dự án CARD có thể đã mở rộng hơn những thành
viên của lớp FFSs trong cộng đồng khi tiến hành điều tra của dự án này đ
ã không
cùng những nông dân đã tham gia lớp FFSs trong năm 2005 và 2006.
Sự gây hại của nhện được ghi nhận ở tất cả vườn cây ăn quả của Bắc Miền Trung
và ở hầu hết vườn cam ở phía Bắc (quan sát của nhóm dự án và thực tế phỏng vấn
nông dân - bảng 3b) nhưng khó quan sát được sự gây hại nặng của nhện ở đồng
bằng sông Cửu Long (bảng 3a). Lý do cho sự gây hại của nhệ
n ở Phía Bắc một
phần do sự lạm dụng thuốc tổng hợp pyrethroid và phun thuốc không đúng thời
điểm.
Bệnh greening được ghi nhận nhiều ở Nghệ an và Hà tĩnh so với các tỉnh khác, có
một vài lý do cho sự phổ biến của bệnh. Thứ nhất ở những tỉnh này cam là cây ăn
quả chính và phần lớn các giống cam đều mẫn cảm với bệnh greening. Thư hai tuổi
bình quân củ
a cây trên các vườn cam cao hơn so với đồng bằng sông Cửu Long nơi
mà sự tái sinh vườn cây ăn quả là rất tốt và nhiều kinh nghiệm. Kết quả phỏng vấn
nông dân ở Phía Bắc cho thấy, nông dân không có kế hoạch hoặc kinh phía cho
việc trồng mới và họ để cây tồn tại trên vườn trong thời gian dài sau khi cây cam đã
qua thời kỳ đỉnh cao cho năng suất. Nông dân đã không có dự trù kinh phí cho tái
sản xuất (tái sinh vườn cây) hàng năm Không có nguồn kinh phí giữ
trữ để trồng
mới vườn cây có múi là vấn đề khó khăn cho việc quản lý bệnh greening ở hầu hết
các tỉnh Bắc Miên Trung. Lý do thứ 3 cho tỷ lệ bệnh greening cao là việc sử dụng
không đúng thuốc trừ sâu để phòng trừ rầy chổng cánh. Ở Bắc Miền Trung có 4 đợt
lộc rõ rệt (bảng 2) nhưng chỉ có đợt lộc xuân cho quả. Nông dân chỉ tập trung bảo
vệ đợt lộ
c xuân trong khi các đợt lộc khác được phơi bày ra cho rầy chổng cánh và
bệnh greening tấn công gây hại. Vấn đề này đã được trình bày (đề cập) trong các
khoá huấn luyện giảng viên và nông dân và đánh giá tác động huấn luyện về sự
thay đổi tập quán của nông dân sẽ được tiến hành trong dự án này. Điều đó cần
phải được ghi nhớ ở Nghệ An và Hà Tĩnh nơi đã trồng nhiều giống cam sạch bệnh
mà vẫn có tỷ lệ bệnh greening cao.
Bệnh nấm phytophthora sp.. Đã được phát hiện ở tất cả các vùng và tỉnh đến thăm
và đó cũng là loại bệnh nguy hiểm như bệnh greening, hầu hết nông dân đã không
quan tâm đến bệnh này. May thay bệnh phytophthora sp.. Đã không có trong bản
câu hỏi điều tra nông dân nên chúng tôi đã không chấm điểm cho bệnh này. Bệnh
loét xuất hiện trên nhiều vườn cây ăn quả. Bệ
nh loét được xem là bệnh rất quan
trọng ở các tỉnh Đồng Tháp, Hoà Bình, Tuyên Quang. Ở các tỉnh khác bệnh sẹo
cũng là bệnh quan trọng. Kết quả phỏng vấn nông dân và quan sát của chúng tôi ở
hầu hết các vườn nông dân đã phun thuốc trừ nấm có gốc đồng để phòng trừ bệnh,
11
4.1.1.4/4.1.3.2. Sử dụng thuốc BVTV, cất giữ và tiêu huỷ bao bì đựng thuốc
BVTV
Thuốc BVTV đã không bị lạm dụng ở các vùng và tỉnh đã đến thăm. Ngoại trừ
Đồng Tháp rất nhiều nông dân sử dụng thuốc BVTV trên 20 lần trong một vụ
(bảng 2). Ở đồng bằng sông Cửu Long 36% nông dân điều tra sử dụng phun thuốc
thường xuyên để phòng trừ sâu hại và 32% phòng trừ bệnh hại trong khi ở Bắc
Miền Trung 80% nông dân phun thuốc thường xuyên để phòng trừ sâu hại và 50%
phun thuốc trừ bệnh hại (bảng 8). Ở phía Bắc 40% nông dân phun thuốc thường
xuyên để phòng trừ sâu hại và 30% phun thuốc trừ bệnh hại. Phần lớn nông dân
phun thuốc trừ sâu sau khi họ đã phát hiện ra sâu hại trên vườn cây ăn quả. Trong
tổng số 76% nông dân áp dụng phun thuốc trừ bệnh ở đồng bằng sông Cửu Long có
32% phun hơn 3 lần, 44% phun 1-3 lần. Ở B
ắc Miền Trung 100% nông dân phun
thuốc trừ bệnh trong đó có 70% phun thường xuyên và 30% thỉng thoảng mới phun
(phun không thường xuyên). Ở Phía Bắc 65% nông dân phun sau khi dịch hại xuất
hiện trong đó có 45% phun thường xuyên và 20% phun không thường xuyên. Một
điều thật thú vị là có 35% nông dân điều tra ở Phía Bắc không bao giờ sử dụng
thuốc trừ dịch hại trên vườn cây ăn quả của họ. Ở Nghệ An số lần phun thuốc có
thể giả
m xuống nếu thời gian phun phù hợp, nhưng ở Phía Bắc số lần phun thuốc
cần phải được tăng lên để đạt hiệu quả phòng trừ dịch hại. Do hoàn cảnh khác nhau
giữa các vùng nên khuyến cáo về giảm số lần phun thuốc không thể áp dụng cho
toàn quốc được. Ở những vùng có bệnh greening thì mỗi đợt lộc cần phải phun it
nhất một lần để ngăn ngừa sự lan truy
ền của bệnh bởi rầy chổng cánh, như vậy phải
phun 4 lần ở phía Bắc và khoảng 6 lần ở đồng bằng sông Cửu Long. Có thể phun
thêm một số lần nữa để phòng trừ nhện, trong một năm có thể phải phun 6-10 lần
đó là số lần phun hiệu quả. Tuy nhiên, trong một số năm và ở một số vùng có thể
phải phun đến 15 lần. Áp dụng quá 15 lần phun có thể
được coi là lạm dụng trong
khi quá 20 lần phun thật là quá lạm dụng. Nhìn chung các loài dịch hại phun thuốc
thường xuyên là sâu vẽ bùa (2.88 lần), nhện (2.81 lần) bảng 8c. Rệp sáp, rệp vảy
phun 2.78 lần, rầy chổng cánh phun 2.09 lần. Tuy nhiên sự sai khác có ý nghĩa của
hiệu quả phòng trừ đối với các loài dịch hại ở mỗi vùng khác nhau. Ở đồng bằng
sông Cửu Long rệp sáp và rệp vảy thường phun 3.08 lần, rầy chổng cánh phun 2.90
lần, trong khi ở
các tỉnh Bắc Miền Trung, sâu vẽ bùa và nhện đã được phun 4.4 lần.
Ở các tỉnh Phía Bắc sâu vẽ bùa thường phun 2.28 lần, rệp sáp và rệp vảy phun 2.05
lần.
Nông dân chủ yếu sử dụng các sản phẩm thuốc thế hệ cũ rẻ tiền (bảng 3a và 3b).
Trước khi có dự án ACIAR và CARD dầu khoáng Caltex, SK đã được sử dụng
nhưng số lượng rất ít. Tuy nhiên sử dụng dầu khoáng ở đồng bằng sông C
ửu Long
ngày càng tăng cao và đã tăng gấp đôi so với 2 năm trước đây (30 tấn năm 2006
tăng lên 55 tấn năm 2007). Lý do chính dầu khoáng sự dụng tăng chậm là hiệu lực
trừ dịch hại của dầu khoáng thấp do phương tiện sử dụng quá kém. Dầu khoáng chủ
yếu sử dụng để phòng trừ nhện và thường trộn lẫn với các thuốc trừ nhện khác
(thường là pyridaben). Nông dân
được cảnh báo về độc tinh sinh lý (độc tính thực
vật) khi sử dụng dầu khoáng, tuy nhiên từ năm 2005 đến nay trong quá trình sử
dụng đã không xẩy ra vấn đề cây bị ngộ độc.
Sử dụng các loại thuốc có dẫn xuất từ Neconicotinoids ít độc hơn so với các nhóm
thuốc trừ sâu khác với Thiamethoxam vẫn được phun nhiều hơn nhóm thuốc
12
Imidacloprid. Một trong những mục đích của dự án là thay thế các thuốc trừ sâu thế
hệ cũ ít có hiệu quả với rầy chổng cánh nhưng lại là nguyên nhân làm bùng phát
mật độ nhện với thuốc Neconicotinoids. Vì thế sự thay đổi về tỷ lệ sử dụng các
nhóm thuốc trừ sâu khác nhau sẽ là tiêu chí quan trọng như là kết quả của dự án.
Kết quả điều tra ngoại trừ Đồ
ng Tháp và Nghệ An, bình bơm tay được đa số nông
dân sử dụng nhiều (bảng 3)
Thuốc trừ dịch hại không được cất giữ với số lượng lớn ở các trang trại. Nông dân
thường mua vừa đủ thuốc trừ dịch hại cho một lần phun. Tuy nhiên có một số
lượng nhỏ thuốc trừ dịch hại được tìm thấy ở một vài trang trại và người nông dân
không bảo quản không đ
úng. Nông dân thường để vào trong túi bóng cất xung
quanh nhà và trẻ con có thể dễ dàng đụng tới. Các dụng cụ đưng thuốc BVTV
thường để lại ở trang trại. Các vỏ túi giấy, chai nhỏ đựng thuốc BVTV đã vứt vung
vãi trên các vườn cây ăn quả là hiện tượng rất phổ biến. Ở đồng bằng sông Cửu
Long rất hiếm khi tìm thấy các vỏ chai lọ, túi,.. đựng thuốc BVTV vứt trên kênh
rạch.
4.1.1.5/4.1.3.3 Các hoạt động qu
ả lý dịch hại ngoài thuốc BVTV
Phần lớn (88%) nông dân tiến hành một vài phương pháp giám sát dịch hại và
57,7% giám sát sự có mặt của các loài sinh vật có ích (bảng 9). Kết quả điều tra cho
thấy có 84 95 % và 50 68% giám sát dịch hại và các loài sinh vật có ích. Chỉ có
23% nông dân sử dụng một vài bẫy, bả (tỷ lệ từ 5% ở Phía Bắc đến 40% ở Bắc
Miền Trung. Sử dụng kiến vàng (Oecophylla smargdina) với tỷ lệ cao ở đồng b
ằng
sông Cửu Long (60% nông dân), nhưng tỷ lệ này thấp ở Bắc Miền Trung (20%) và
30% ở Phía Bắc. Một tỷ lệ lớn nông dân (87%) khẳng định họ đã cắt bỏ các cành,
cây bị sâu, bệnh (không khoẻ) và di chuyển ra khỏi vườn, tỷ lệ nông dân làm việc
này ở đồng bằng sông Cửu Long là 76% thấp hơn so với các vùng khác 95%. Tuy
nhiên với quan sát độc lập của chúng tôi thì điều đó không hoàn toàn như vậy, bởi
vì nhậ
n thức của nông dân về lợi ích của việc này còn rất khác nhau. 81% nông dân
cũng khẳng định họ cắt bỏ những lộc bị sâu vẽ bùa hại để ngăn ngừa sự phát sinh
của dịch hại. Tuy nhiên thời gian để thực hiện là có vấn đề bởi vì nó có vẻ được
tiến hành quá muộn sau khi sâu hại đã phát triển.
4.1.1.6/ 4.2.3.4. Làm theo những yêu cầu của GAP
Hầu như không có làm theo yêu cầu của EUREP GAP ở các vùng. Tuy nhiên, để
phục vụ mục đích của cuộc điều tra này, những nông dân đã tiến hành một số nội
dung theo yêu cầu của GAP đã được cho là Tuân theo một phần. Tuy nhiên làm
theo một phần là thiếu thực tế, vì làm như vậy nông dân khó lòng có thay đổi chính
trong thực hành sản xuất của họ. Ví dụ phần lớn nông dân sử dụng phân hữu cơ và
thực hành một số nội dung của IPM, họ đã ghi chép làm theo mộ
t phần (PC) trong
bảng 4a và 4b phân bón sử dụng và BVTV. Những kết quả chỉ ra không làm theo
được nhiều nhất cho sản phẩm là ở mục truy nguyên nguồn gốc và quá trình lịch
sử. Những hạng mục đó phi thực tế cho nông dân đạt được các yêu cầu của GAP
bởi vì họ cần sự thay đổi hoàn toàn trong sản xuất và phân phối sản phẩm, cho nên
chúng tôi không tập trung về chúng trong dự án này. Tình trạng tượng tự cho yêu
cầu bảo quả
n sau thu hoạch. Ở Việt Nam không có quản lý sau thu hoạch cho quả
13
của cây ăn quả như rửa, đánh bóng và đóng gói. Quả được middle men thu gom từ
nông dân hoặc một số trường hợp ở Bắc Miền Trung Việt Nam nông dân bán sản
phẩm trực tiếp cho người tiêu thụ ngay tại vườn hoặc gần chợ. Một số tổ chức hợp
tác ở Đồng bằng sông Cửu Long có cửa hàng ở nơi quả có thương hiệu và được
đóng nhãn mác nhưng số
lượng của quả đã bán theo con đường này không đáng kể.
Cho nên ở hầu hết các trường hợp ở bảng 4a và 4b yêu cầu bảo quản quản sau thu
hoạch rõ ràng là không được áp dụng (Nghệ An). Đào tạo giảng viên và nông dân
sẽ tập trung vào các yêu cầu của BVTV nơi mà nông dân đã sẵn sàng làm theo một
phần của GAP (bảng 5a và 5b). Nông dân nhận thức được sự cần thiết sử dụng sản
phẩm được đă
ng ký và đồng ý làm theo ở giai đoạn trước. Tuy nhiên nông dân và
cán bộ kỹ thuật của Chi cục không hiểu một cách đầy đủ về yêu cầu của GAP cho
đăng ký sản phẩm. Yêu cầu của GAP cho đăng ký thuốc BVTV là thuốc BVTV sử
dụng trên cây ăn quả phải có trong danh mục đăng ký sử dụng trên cây ăn quả
(cam, bưởi, nhãn, vải,..), trong khi cán bộ Cục BVTV nêu rõ sản phẩm đăng ký như
đăng ký thuốc BVTV cho bất cứ cây trồ
ng nào ở Việt Nam không có trong danh
mục thuốc BVTv cấm sử dụng. Vì vậy nếu không có thời gian cách ly trước thu
hoạch một cách rõ ràng thì không làm theo yêu cầu của GAP. Thông thường chấp
nhận thời gian cách ly trước thu hoạch là 14 ngày cho bất cứ một loại thuốc BVTV
nào. Làm theo đúng yêu cầu về thời gian cách ly trước thu hoạch là rất khó khăn
cho nông dân đồng bằng sông Cửu Long vì họ thu hoạch sản phẩm quanh năm.
Làm theo yêu cầu sử dụng an toàn và hiệu quả
thuốc BVTV đã được thực hiện ở
hầu hết các vùng điều tra (bảng 11). Ở Bắc Miền Trung và Phía Bắc Việt Nam sử
dụng quần áo bảo hộ lao động cao hơn so với đồng bằng sông Cửu Long. Ở tất cả
các vùng việc sử dụng khẩu trang che miệng và mũi trong suốt thời gian phun
thuốc là rất cao 95%. Sử dụng áo dài tay, quần dài giao động từ 52,5% ở đồng bằng
sông Cửu Lọng đến 85% ở phía Bắc Việt Nam. Tỷ lệ nông dân sử dụng áo mưa,
ủng và găng tay khi phun thuốc ở đồng bằng sông Cửu Long là thấp từ 35,5%; 12%
và 29%. Nhưng tỷ lệ nông dân sử dụng áo mưa, ủng và găng tay khi phun thuốc
Bắc Miền Trung Việt Nam đạt cao hơn ở từ 87,5%; 70% và 67,5%. Thậm chí việc
sử dụng quần áo bảo hộ lao động đã không được đề cập trong tiêu chuẩ
n của Châu
Âu, điều đó nói lên rằng nông dân đã sử dụng một vài biện pháp nhằm bảo vệ sức
khoẻ của họ.
Cải tiến cần thiết nhất là trong ghi chép sổ sách, đặc biệt cho vấn đề phun thuốc và
cất giữ tiêu huỷ bao bì đựng thuốc BVTV. Mức độ của ghi chép sổ sách, các hoạt
động sản xuất như mức đầu tư và thu nhập rất thấp (b
ảng 10). Sự ghi chép có hệ
thống của nông dân chỉ thấy ở 3 tỉnh Đồng Tháp, Nghệ An, Hoà Bình. Tuy nhiên,
sự ghi chép chỉ tập trung nhiều vào giá trị của đầu vào và đầu ra hơn là sử dụng
thuốc BVTV và phân bón. Nông dân ở Hoà Bình đã dùng máy tính để ghi chép. Vì
ở Hoà Bình nông dân đã được tổ chức trong các tổ chức hợp tác trước đây là nông
trường, và hợp tác có thuê cán bộ kỹ thuật giúp đỡ hỗ trợ nông dân.
Tất cả các thành viên của lớp FFSs
đã được phát sổ ghi chép làm theo EUREP
GAP do đó sự cải tiến trong vấn đề này có thể đạt được. Ở vùng khác sự cải tiến có
thể thực hiện là quản lý đất và sử dụng phân bón. Tất cả các lớp FFSs sẽ tự sản xuất
phân ủ và nông dân sẽ được khuyến khích làm phân ủ trong trang trại của họ.
Yêu cầu về sử dụng giống xác nhận là rất khó khăn cho một phạm vi rộ
ng, bởi vì
sản xuất giống xác nhận ít hơn rất nhiều so với yêu cầu đòi hỏi. Từ kết quả điều tra
14
của chúng tôi (bảng 6) ở đồng bằng sông Cửu Long 17% giống ban đầu là từ nguồn
giống xác nhận, 44% ở Bắc Miền Trung Việt Nam và 16% ở Phía Bắc Việt Nam ở
phía Bắc Việt Nam do tỷ lệ giống xác nhận từ các vườn ươm thấp, nông dân khẳng
định tập quán sử dụng giống xác nhận, 70% nông dân ở đồng bằng sông Cửu
Lo0ng và 90% nông dân ở Bắc Miền Trung khảng định như vậy. Tuy nhiên GAP
ch
ỉ có khả năng lựa chọn sự hợp tác với vùng diện tích hẹp trong nhưng năm tới
(trong tương lai), khi đó các viện nghiên cứu như Viện nghiên cứu cây ăn quả Miền
Nam (SOFRI) có thể cung cấp đủ giống cây xác nhận cho các tổ chức hợp tác.
Nhìn chung sản xuất cây ăn quả trong ở Việt Nam còn cách rất xa so với yêu cầu
của EUREP GAP. Cần có rất nhiều thay đổi về cơ sở hạ
tầng (ví dụ hệ thống nước
thải, xây dựng hệ thống đóng gói và kho chứa) những việc này cần phải được làm
trước khi làm theo EUREP GAP. Đồng thời cải tiến hệ thống đăng ký thuốc
BVTV, chọn nhóm thuốc đăng ký sử dụng trên cây ăn quả có múi. Có sự khác nhau
về thực hành trong sản xuất cây ăn quả có múi của người Việt và những yêu cầu
của EUREP GAP là quá cao cho việc tiến hành GAP trên cây ă
n quả có múi của
nông dân Việt Nam. VietGAP có thể đảm bảo sản phẩm của cây ăn quả có múi an
toàn hơn cho người tiêu dùng và làm giảm tác động môi trường phù hợp với điều
kiện kinh tế của người Việt Nam và điều kiện môi trường có thể ngày càng được
cải thiện. Áp dụng EUREP GAP có thể phù hợp cho một số thành viên của hợp tác
sản xuất theo hướng xuất khẩu hoặc bán cho siêu thị lớ
n.
4.1.2.1. Thuốc BVTV được bán ở xã (Cửa hàng bán thuốc BVTV)
Các cửa hàng bán thuốc BVTV ở xã có rất ít chủng loại thuốc, nông dân ít có cơ
hội lựa chọn thuốc để sử dụng. Thường các cửa hàng chỉ có một tủ bày bán 5 đến
10 loại thuốc trừ sâu hoặc thuốc trừ nhện khác nhau và cùng một loại thuốc trừ
nấm, trừ cỏ. Ở các xã nhỏ các cửa hàng bán thuốc BVTV bán cùng với thực phẩm
và thuốc lá. Ở Phía Bắc Việt Nam một số cửa hàng bán thuốc là của Trạm BVTV,
là điều kiện thuận lợi cho quản lý thuốc BVTV và hướng dẫn khuyến cáo bà con
nông dân lựa chọn thuốc để sử dụng. Tuy nhiên nếu các cửa hàng bán thuốc BVTV
là của Cục BVTV, có một câu hỏi về sự độc lập của cơ quan khuyến nông với các
công ty kinh doanh thuốc BVTV. Điều tra của chúng tôi đã chỉ ra mối liên quan
giữa thuốc BVTV sử dụng ở các trang trại và thuốc BVTV đã bán ở các cửa hàng
địa phương (bảng 3a; 3b) điều đó chứng minh rằng cửa hàng bán thuốc ở các xã là
điểm chính cung cấp hoá chất nông nghiệp cho nông dân. Các cửa hàng chủ yếu
bán những loại thuốc BVTV thế hệ cũ và thật khó để nhận ra lý do vì sao: Có thể
do yêu cầu tiêu thụ của nông dân về các sản phẩm đó hoặc do các chủ cửa hàng
thiếu tiềm lực và khả năng bán các loại thuốc thế hệ mới. Điều đó có thể kết luận
ảnh hưởng của lớp FFSs có thể cải tiến bằng cách tìm ra con đường lôi kéo các chủ
cửa hàng thuốc BVTV tạo điều kiện thuận lợi thay đổi tập quán sử dụng thuốc trừ
sâu phổ rộng của nông dân cho phù hợp chương trình IPM.
4.1.3.5 Niềm tin, thái độ, sự hiể
u biết của nông dân về các biện pháp canh tác
và GAP
Nông dân đã thể hiện rõ thái độ đối với giống xác nhận là phải được sản xuất ở các
viện nghiên cứu (bảng 12). Thái độ thấp nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long
(70%), ở Tiền Giang chỉ có 30%. Đây là một vấn đề rất thú vị bởi vì hầu hết giống
15
xác nhân được sản xuất ở Tiền Giang, khi phỏng vấn nông dân ở Tiền Giang đã
khẳng định giống xác nhận phát triển chậm hơn, cho năng suất thấp hơn. Không có
tài liệu nào ủng hộ hoặc loại bỏ những khẳng định này. Thái độ cao nhất ở các tỉnh
Bắc Miền Trung 90%, ở các tỉnh vùng Bắc Việt Nam đạt 80%. Những câu hỏi điều
tra về cây giống được l
ựa chon không chỉ kiểm tra thái độ của nông dân về nguồn
cây giống mà còn thể hiện thái độ của nông dân về vai trò của các viện nghiên cứu
(Viện nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam, Viện BVTV) trong sản xuất cây giống
sạch bệnh. Kết quả phân tích quan niêm về vai trò của viện nghiên cứu trong sản
xuất giống sạch bệnh ở Phía Bắc Việt Nam mức tin tưởng cao còn ở Phía Nam biến
động nhiều.
Nhìn chung, nông dân đã th
ể hiện sự hiểu biết (66,62% trả lời đúng) của thực hành
tốt trong canh tác cây ăn quả có múi như sử dụng phân bón, mật độ trồng. Tỷ lệ của
việc trả lời đúng dao động từ 58,25 ở Phía Bắc Việt Nam đến 66,60% và 75% ở
đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Miền Trung Viêt Nam. Nông dân hiểu về sự lan
truyền của bệnh greening (huanglongbinh) và đã phòng trừ tốt (75,82% trả lờ
i
đúng) ở tất cả các vùng. Tuy nhiên, sự hiểu biết về các loài dịch hại và hiệu quả của
các biện pháp phòng trừ đang còn thấp ở mức 52,42%. Những kết quả trong phạm
trù này đã rất phù hợp giữa các vùng, Phía Bắc Việt Nam 50%, Bắc Miền Trung
51,25% và đồng bằng sông Cửu Long 56%. Nhận thức chung về tác động của
thuốc BVTV đến môi trường và sức khoẻ con người là rất rất cao trung bình đạt
74,13% trả lời đúng ở các vùng.
Mức độ hiểu biết về một số yêu cầu của GAP và tiến hành làm một số vấn đề với
nông dân đã có 70,55% và 76,33% trả lời đúng. Thông tin về GAP được cung cấp
thường xuyên trên các báo và thông tin về vấn đề này đến được nông dân một cách
nhanh chóng bởi các cán bộ khuyến nông thông qua các tổ chức phi chính phủ
(NGOs). Kết quả là nông dân rất mong chờ về GAP và mong đợi khi tiến hành
GAP trên trang trạ
i của họ sẽ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Trong điều tra của
chúng tôi 90% nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long, 100% nông dân ở Bắc Miền
Trung và 85% nông dân ở Phía Bắc Việt Nam tin tưởng khi tự tiến hành thực hiện
GAP thu nhập của họ sẽ được tăng lên.
4.1.3.6. Nông dân tự đánh giá khả năng của mình
Nông dân tự tin cao vào khả năng của họ khi tiến hành các hoạt động trong sản
xuất cây ă
n quả (bảng 14, 15). Mức độ tự tin cao của người dân ở tất cả các vùng
được ghi nhận cho việc tỉa cành, tạo tán (2,65), nhận biết các giai đoạn sinh trưởng
chính của cây (2,67), khả năng phân biệt triệu chứng gây hại của sâu hại và bệnh
hại (2,56), nhận biết được sự gây hại của một số dịch hại chính (2,56) sử dụng
thuốc trừ dịch hại theo hướng dẫ
n trên bao bì (2,86), tính toán lượng nước thuốc
phun (2,63), cất giữ thuốc BVTV theo hướng dẫn (2,56). Mức độ tự tin thấp chỉ
được ghi nhận cho khả năng điều khiển sự ra lộc, nở hoa và sinh trưởng của cây
(1,46), sản xuất phân ủ (1,66) và ghi chép chính xác quá trình sản xuất (1,55).
Nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long rất tin tưởng vào khả năng của họ (2,39),
thiếu khả năng và tự tin chỉ trong sản xuất phân ủ (1,28), ghi chép chính xác
(1,20), tính toán hiệu quả (1,48) và dự trù kinh phí cho sản xuất (1,56). Nông dân ở
Bắc Miền Trung Việt Nam đã có mức tự tin là thấp nhất (1,99). Họ thiếu tin tưởng
trong điều khiển sự ra lộc, nở hoa và thời gian thu hoạch (0,95), hiệu quả của sử
16
dụng phân bón (1,45), tưới nước (1,05), sản xuất phân ủ (1,60), nhận biết triệu
chứng của bệnh phytophthora sp. (1,82), lựa chọn đúng thuốc BVTV đã đăng ký để
sử dụng (1,60), và ghi chép chính xác (1,60). Tự tin của nông dân ở Phía Bắc Việt
Nam là ở giữa hai vùng với số điểm 2,18. Họ thiếu tự tin trong điều khiển sự ra lộc,
ra hoa và thời gian thu hoạch (0,80), tưới nước (1,55), khả năng nhậ
n biết triệu
chứng của bệnh phytophthora sp. (1,35) lựa chọn đúng thuốc BVTV đã đăng ký để
sử dụng (1,80) và ghi chép chính xác (1,85).
Mặc dù nông dân có sự tự tin cao vào khả năng của họ, quan sát của chúng tôi sự
trả lời của nông dân trong điều tra và kết quả sản xuất và thu nhập thực tế thì khả
năng của nông dân cần phải được cải tiến ở rất nhiều vùng gồ
m cả những vùng mà
sự tin tưởng về kỹ năng của nông dân vẫn còn hiện hữu. Kết quả cho biết sự quá tin
của nông dân về khả năng của họ và đó có thể là cản trở cho thay đổi những thực
hành của nông dân cũng như kết quả của lớp FFSs.
4.1.4.1. Nhận thức, niềm tin và thái độ của giảng viên với GAP
Các giảng viên đã được hỏi và trả l
ời 5 câu hỏi mở về nhận thức của họ về GAP
(kết quả được trình bày ở cuối bảng 17) và họ cũng được hỏi về việc đồng ý hay
không đồng ý với 16 quan điểm để đánh giá thái độ, niềm tin về GAP (kết quả
được trình bày ở bảng 16). Hầu hết các giảng viên tin tưởng rằng lý do chính để
tiến hành GAP là cải thiện sức khoẻ của người s
ản xuất và người tiêu thụ (100%)
cho rằng GAP phải có mối liên kết với môi trường và trang trại (92%) và cho rằng
GAP là tiêu chuẩn quốc tế cho sản xuất lương thực an toàn được chính phủ các
nước công nhận (92%). Phần lớn các giảng viên tin tưởng rằng GAP cần được tiến
hành bởi toàn bộ nông dân (73%) và trái của cây ăn quả có múi không thể xuất
khẩu được nếu nông dân không có chứng nhận GAP (69%). Câu trả lời của giảng
viên chỉ
rõ GAP như là một phương tiện để bảo vệ sức khoẻ con người và môi
trường cần được tiến hành bởi toàn thể nông dân. Câu trả lời của giảng viên cũng
chỉ rõ họ tin tưởng GAP được quy định bởi chính phủ các nước trên thế giới và tiến
hành theo GAP là cần thiết cho xuất khẩu. Giảng viên tin tưởng và phản ánh về
điều kiện của Việt Nam và thậm chí một phần tinh trạ
ng ở một số nước châu Á nơi
mà chính phủ đang nổ lực tiến hành theo GAP, nhưng GAP được hình thành bởi
những người buôn bán lẻ châu Âu và ở châu Âu GAP là sự thoả thuận giữa người
tiêu thụ và người sản xuất qua một uỷ ban và nó được đăng ký bởi một cơ quan độc
lập. Thái độ của các giảng viên phản ánh sự khác nhau cơ bản để tiến tới tiêu chuẩn
GAP giữa Việ
t Nam và châu Âu và để đạt được vấn đề này có sự liên kết tiến hành
theo GAP. Nếu GAP được tiến hành bởi các tổ chức của chính phủ thì sự kết nối
giữa những người buôn bán lẻ và người sản xuất bị mất đi và có thể làm giảm sự
thành công của dự án. Dường như các giảng viên và nông dân (xem 4.1.3.5) bỏ
quên điểm mấu chốt của nội dung của GAP là nó được điề
u hành bởi các nhà buôn
bán lẻ. Tuy nhiên, phần lớn giảng viên (69%) tin tưởng những người buôn bán lẻ
cần phải trả tiền cho huấn luyện nông dân vì những người buôn bán lẻ sẽ thu được
phần lớn lợi nhuận từ việc thực hiện theo GAP. Khoảng một nửa giảng viên cho
rằng tiêu chuẩn của EurepGAP là quá cao so với điều kiện của Việt Nam (54%) và
khái niệm sản xuất Rau an toàn là phù hợp hơn cho Việt Nam (46%). Chỉ
có
khoảng một nửa giảng viên hiểu về yêu cầu của GAP trong mối quan tâm về đăng
ký thuốc BVTV (46%) và sử dụng thuốc BVTV (50%).
17
Các giảng viên có tự tin rất cao trong sự hiểu biết về các yêu cầu chính của GAP và
có khả năng huấn luyện nông dân tiến hành thực hiện theo các yêu cầu của GAP
(bảng 17, 18). Toàn bộ kết quả của việc tự đánh giá ở các vùng cho thấy tất cả
giảng viên có đủ kỹ năng để huấn luyện về GAP một cách tự tin. Các giảng viên ở
Phía Bắc Việt Nam thiếu hụt một số kh
ả năng do đó họ không tự tin khi giải thích
12 yêu cầu của GAP hoặc lựa chọn thuốc BVTV phù hợp với yêu cầu của GAP.
Tuy nhiên, kết quả kiểm tra kiến thức chỉ rõ các giảng viên ở đồng bằng sông Cửu
Long, Hoà Bình, Tuyên Quang ở Phía Bắc có kiến thức khá về GAP (với trên 50%
điểm), kết quả tuyệt vời cho các giảng viên ở Vĩnh Long (100%), Tiền Giang
(90%), Cần Thơ (85%) và Tuyên Quang (80%).
4.2 Điều tra nh
ững cơ quan chính của Việt Nam
Tóm tắt về những cuộc phỏng vấn với các nhà lãnh đạo của những cơ quan tham
gia trong dự án được trình bày ở phụ lục 4. Trong phần này những vấn đề chính của
toàn bộ các cuộc phỏng vấn được tóm tắt.
4.2.1. Khái niệm ban đầu về GAP
Tất cả những người được phỏng vấn kinh nghiệm về sự phát triển và tiến hành thực
hiên IPM. Đối với tất cả mọi người GAP là sự mở rộng của IPM ở những nơi IPM
vẫn là thành phần chính. Hầu hết những người được phỏng vấn đều tham gia trong
phát triển VietGAP và họ có kiến thức (hiểu biết) tốt về những nguyên tắc của
GAP. Tuy nhiên, họ không có kinh nghiệm hoặc định rõ phương pháp tiến hành
GAP.
4.2.2 Những thay đổi trong những người được phỏng vấn về
GAP từ khi bắt đầu
dự án
Khái niệm về GAP của những người được phỏng vấn được mở rộng và nâng cao.
Họ có thể nhìn thấy sự cần thiết cho sự liên kết giữa sản xuất với quản lý sau thu
hoạch và thị trường tiêu thụ. Họ cũng có thể nhìn thấy sự cần thiết phân biệt giữa
yêu cầu GAP cho tiêu thụ trong nước và cho thị trường xuất kh
ẩu, VietGAP có thể
là tiêu chuẩn cho thị trường trong nước trong khi GlogalGAP là tiêu chuẩn cho thị
trường xuất khẩu. Những người được phỏng vấn nhấn mạnh sự cần thiết cho việc
thành lập hội đồng (ban) cấp chứng nhận để nông dân có thể dễ dàng có được. Có
một sự giúp đỡ mạnh mẽ của Bộ cho việc cấp chứng nhận GAP cho xuất khẩu, đó
là kết quả
của nhiều cơ quan tổ chức đang cố gắng tìm kiếm các thủ tục cấp chứng
chỉ nhưng thiếu sự điều phối và phương pháp để đạt được.
4.2.3. Những yếu tố suy xét của GAP
Gần như toàn bộ những người phỏng vấn đều nhìn thấy rất rõ liên kết giữa GAP và
sự hợp tác, sự hợp tác là nhân tố (yếu tố) chính trong ti
ến hành GAP và cấp chứng
nhận. Một số người phỏng vấn đã gợi ý chứng nhận có thể cấp ở mức hợp tác xã
hơn là các nông dân riêng lẻ. Để thực hiện thành công GAP cần thiết phải có sự
18
giúp đỡ của chính quyền các cấp: Cấp Trung ương giúp đỡ, hộ trợ về thể chế, pháp
luật và chính sách và chính quyền địa phương tổ chức thực hiện.Những người
phỏng vấn cũng thấy rõ ghi chép sổ sách là một thành phần quan trọng của GAP và
việc thực hiện ghi chép gặp nhiều khó khăn vì trình độ dân trí và thói quen không
ghi chép của người nông dân. Nếu những nông dân biết tính toán lợi ích từ việc ghi
chép thì sẽ xây d
ựng kế hoạch sản xuất được tốt hơn và kết quả là giảm được chi
phí sản xuất và tăng lợi nhuận do đó ghi chép sổ sách có thể được tốt hơn khi nông
dân chấp nhận.
4.2.4. Những yếu tố sẵn sàng chuyển giao của GAP
Tất cả những người phỏng vấn đều đồng ý IPM là yếu tố của GAP và sẵn sàng
chuyển tải đến cho nông dân và sẽ
đưa cho nông dân hiệu quả rõ ràng về kinh tế, xã
hội và môi trường. Tuy nhiên, Mr Dũng nhấn mạnh tất cả các yếu tố của GAP sẽ
chuyển tải cho nông dân nếu việc tiến hành GAP được thực hiện theo từng bước
một và được tuân thủ một cách đầy đủ.
4.2.5. Vai trò của FFS trong thực hiện GAP
Ở Viet Nam có sẵn cơ sở, điều kiện và khuân mẫu cho lớp FFS, và điều đó cần ph
ải
được kế tục. Lớp FFS giúp nông dân dễ dàng nhận ra vấn đề và đưa ra quyết định
hoặc chỉ bảo cho nông dân nên làm cái gì do đó lớp FFS là chìa khoá cho sự thành
công khi thực hiện GAP. Tất cả những người phỏng vấn nhận mạnh lớp FFS là
bước quan trọng đầu tiên hướng tới sự thiết lập sự hợp tác, các thành viên phỏng
vấn đều cho sự hợp tác là chìa khoá để thực hiện GAP.
4.2.6 Nh
ững lợi ích trông đợi đối với các tổ chức tham gia
Dự án như là một khuân mẫu cho sự thay đổi thực hành của nông dân. Dự án cũng
hương vào những nhiệm vụ chính của Cục BVTV và giúp cho các các bộ của Cục
BVTV nâng cao kiến thức và tham gia trong hoạt động cộng đồng sản xuất.
4.3 Phân tích thị trường chính cho GAP trái cây có múi
Giá trị của cây ăn quả có múi ở thị trường nội địa là rất cao và không khuyến khích
cho nông dân Việt Nam tập trung xuất khẩu. Đối với cam nông dân có thể bán ngay
tại vườn với giá từ 3.500 đến 12.000đ cho 1 kg, cho Quýt giá có thể cao hơn trên
20.000đ/1 kg và cho cây bưởi từ 5.000 đến 12.000đ/quả. So sánh thu nhập giữa
trồng lúa và trồng cây ăn quả thì thu nhập từ cây ăn quả cao hơn từ 3 đén 6 lần
(bảng 19). Phân tích chi tiết về lãi ròng từ cây ăn quả được trình bày ở giai đoạn 7
của dự án CARD project 036/04 VIE và nó sẽ
được sử dụng như là điểm xuất phát
(cơ sở) của dự án này. Sự phân tích đã đưa ra lãi ròng bình quân cho 1 ha trồng cây
ăn quả có múi ở các tỉnh là 78.620.000đ. Tuy nhiên, đã có sự sai khác có ý nghĩa
giữa các loài cây ăn quả có múi về giá trị thu nhập mang lại cho người nông dân,
bình quân thu nhập từ trồng quýt là 100.000.000đ, bưởi 93.000.000đ, và cam
37.880.000đ. Trong phần phân tích tài chính của dự án 036/04 đã không thể có tài
liệu chính xác về chi phí đầu vào, đặc bi
ệt là công lao động của người nông dân, vì
19
vậy trong dự án này ghi chép chi tiết về chi phí đầu vào và đầu ra đã được tiến hành
thu thập từ tháng 2 năm 2008 và sẽ tiếp tục thực hiện cho đến tháng 10 năm 2009.
Thu thập số liệu về đầu vào và đầu ra đã được thực hiện ở 4 tỉnh từ 20 nông dân
cho một tỉnh và sẽ được sử dụng phân tích lãi vào cuối của dự án
Tiếp thị về sản phẩm cây ăn quả có múi
ở tất cả các tỉnh là thông qua người mua
trung gian đến và mua quả ngay tại vườn. Một phần rất nhỏ quả được nông dân bán
ở các chợ ở các thị xã, thị cứ địa phương, nông dân không thể bán trực tiếp sản
phẩm của mình tại các siêu thị của các thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh). Chỉ có một lớp FFS (ở Vĩnh Long) nông dân liên kết trực tiếp với Metro và
rất ít lớp FFSs có thự
c hiện sự hợp tác để sở hữu sự hợp tác về bán lẻ của họ (Tỉnh
Vĩnh Long). Không có quả nào được sản xuất bởi nông dân tham gia trong lớp học
FFS trải qua quá trình xử lý sau thu hoạch. Không có nhà xưởng đóng gói ở các
tỉnh tham gia trong dự án.
Nếu không đầu tư cơ sở hạ tầng cho việc xử lý quả sau thu hoạch thì dự án
IPM/GAP sẽ không có tác động cho việc xuất khẩu trái cây ăn quả
có múi.Tuy
nhiên quả của cây ăn quả có múi được sản xuất theo GAP nông dân sẽ có được giá
bằng cách tiếp cận với thi trường nội địa (siêu thị, nhà hàng, khách sạn). Nếu sự
nhập trái cây từ Thai Lan và Trung Quốc tăng lên giá thị trường trái cây trong
nước sẽ giảm do vậy những nông dân được chứng nhận về GAP tổ chức hợp tác
với nhau có thể có vị trí tốt hơn cho sự tồn tại thi trường tiêu thụ
. Chi tiết hơn về
phân tích thị trường sẽ được trình bày trong báo cáo cuối cùng về đánh giá tác
động.
Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu cơ bản, tiếp sau là xác định những cơ hội dự án đầu tư giúp
cho những tiểu chủ sản xuất những lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường.
1. Điều kiện sản xuất và cơ sở hạ tầng
ở tất cả các tỉnh điều tra là cách xa với tiêu
chuẩn yêu cầu của Global GAP. Để phản ánh (suy nghĩ về) tình trạng đó chương
trình huấn luyện của lớp FFS sẽ chỉ tập trung vào các yếu tố của GAP, chương
trình đó có thể thực hiện được trong khung thời gian của dự án, ở điều kiện kinh tế,
xã hội và môi trường hiện tại. Những yêu cầu đó sẽ
được chuyển trực tiếp vào
trong chương trình huấn luyện của lớp FFS bao gồm: Quản lý dịch hại tổng hợp
(IPM), sức khoẻ người lao động và các biện pháp an toàn, cất giữ và tiêu huỷ các
bao bì dụng cụ chứa đựng thuốc BVTV và ghi chép sổ sách. Ghi chép sổ sách là
một trong những bước chính để hướng tới GAP, do đó nông dân cần được khuyến
khích một cách mạnh mẽ để thiết lập hệ thố
ng ghi chép tại trang trại của họ trong
suốt thời gian họ tham gtia lớp FFS, với giả định đó nông dân sẽ giữ và tiếp tục
thực hiện quá trình ghi chép sau khi kết thúc lớp FFS.
2. Chương trình huấn luyện của trung tâm huấn luyện giảng viên (T0T) sẽ bao gồm
tất cả các nguyên lý và thực hành về GAP cho toàn bộ chuỗi giá trị gồm diện mạo
về thị trường, kết hợp giữa sản xuất và bả
o quản chế biến sau thu hoạch, phân phối
và tiêu thụ sản phẩm. Điều đó sẽ đảm bảo rằng các giảng viên sẽ có đủ khả năng
giúp đỡ nông dân và hợp tác để tiến hành GAP bất cứ lúc nào trong tương lai, với
mong muốn cải tiến trong sản xuất và chất lượng sản phẩm. Cuối cùng các giảng
20
viên sẽ thảo luận với nông dân về thuận lợi của sự hợp tác giữa các nhóm nông dân
trong tiến hành GAP.
3. Tài liệu hướng dẫn về GAP sẽ cung cấp cho các giảng viên, các tổ chức chính
phủ và nông dân khả năng thực hiện GAP khi có thời gian.
4. Hai sự hợp tác với khả năng tốt cho sự phát triển GAP đã được tìm ra, dựa vào
thực tế sản xuất của họ và mức độ kiến thứ
c, cấu trúc của sự hợp tác và sự giúp đỡ
của địa phương. Điều đó dự báo những nhóm này sẽ cung cấp (tạo ra) mô hình cho
thực hành GAP.
5. Cần có sự liên kết mạnh hơn giữa các nhóm nông dân thực hiện GAP và việc bán
lẻ và bán sĩ ở các chợ, tuy nhiên đó là mối quan tâm tiếp tục sau dự án này.
21
Bảng 2. Biện pháp kỹ thuật canh tác áp dụng ở lớp FFS và thu nhập
Tỉnh Mật độ
(cây/ha)
Các đợt
lộc
trong
năm
Thời gian thu
hoạch
Số lần phun
thuốc trong
năm (Tổng số/
thuốc sâu,
bệnh)
Phương pháp áp
dụng
Thu nhập
(đ)/ha (ước
tính của
người làm
vườn)
Cần Thơ 600 4-5 Quanh năm 6/1 Bình bơm tay
8L (pressurised)
26,000,000
Vĩnh
Long
500 4 Quanh năm 4/1 Bơm động cơ
hon đa
100,000,000
Bến Tre 330 4 Quanh năm 0 Không 25,000,000
Đồng
Tháp
1600 5 TET (Tháng 1-
tháng 2)
15/7 Bơm động cơ
hon đa
105,0000,00
0
Tiền
Giang
1600 4 đợt
chính, 2
đợt phụ
Quanh năm 8/4 Bình bơm tay
8L (pressurised)
80,000,000
Hà Tĩnh 660 4 Tháng 10
tháng 12
5/0 Bình bơm tay
12L
(pressurised)
37,000,000
Nghệ
An
500 4 Tháng 11
tháng 12
8/2 Bình bơm tay
8L (pressurised)
60,000,000
Hoà
Bình
450 4 Tháng 11 6/3 Bơm động cơ
hon đa
15,000,000
Hà Tây 500
(Cam)
490
(Bưởi)
3-4 Tháng 11-12
(Cam)
Tháng 11-12
(Bưởi)
10/6 Bơm động cơ
hon đa
175,000,000
(Cam)
113,000,000
(Bưởi)
Phú Thọ 350 Nông
dân
không
rõ (3-4 )
Tháng 11 Không phun
thuốc
Không phun 20,000,000
Yên Bái 270
670
3 Tháng 11-12 1 Bình bơm tay
12L
6,000,000
(Cam)
13.000,000
(Bưởi)
Tuyên
Quang
400 4 Tháng 11-12 9/4 Motorized 53,000,000
Hà
Giang
400 4 Tháng 11-1 12/3 Motorized 60,000,000
Bảng 3a. Dịch hại chính ở lớp FFS và thuốc trừ dịch hại sử dụng ở
đồng bằng sông Cửu Long
Tỉnh Dịch hại
chính (Ý
kiến nông
dân)
Loại thuốc trừ
sâu được sử
dụng phổ biến
Loại thuốc trừ
bệnh được sử
dụng phổ biến
Loại thuốc trừ
sâu được bán
nhiều nhất ở
địa phương
Loại thuốc trừ
sâu được bán
nhiều nhất ở
địa phương
22
Tỉnh Dịch hại
chính (Ý
kiến nông
dân)
Loại thuốc trừ
sâu được sử
dụng phổ biến
Loại thuốc trừ
bệnh được sử
dụng phổ biến
Loại thuốc trừ
sâu được bán
nhiều nhất ở
địa phương
Loại thuốc trừ
sâu được bán
nhiều nhất ở
địa phương
Cần
Thơ
Sâu vẽ bùa,
Bệnh
Greening
Alfa
cypermethrin,
Abamectin
Metalaxyl
Afa
cypermethrin
Tiamethoxam
Aamectin
carbendazim
metalaxyl
copper
Vĩnh
Long
Rệp sáp hại
rễ
Mineral oil (dầu
khoáng),
Cypermethrin
Deltamethrin
Propiconazole Aamectin
Mthidation
imidacloprid
metalaxyl
propiconazole
Bến
Tre
Rệp vảy Không sử dụng Không sử dụng imidacloprid
Afa
cypermethrin
thiamethoxam
carbendazim
metalaxyl
Đồng
Tháp
Nhện, bệnh
loét
Profenofos
Mineral oil
(Dầu koáng)
Pyridaben
Carbandezim pyridaben
profenofos
abamectin
carbendazim
kasugamycin
benomyl
Tiền
Giang
Sâu vẽ bùa,
nhện
Thiamethoxam
Pyridaben
Mineral oil
(Dầu khoáng)
Metalaxyl
Copper (thuốc
có gốc đồng)
abamectin
thiamethoxam
pyridaben
carbendazim
mankozeb
metalaxyl
23
Bảng 3b. Dịch hại chính ở lớp FFS và thuốc trừ dịch hại sử dụng ở
Bắc Miền Trung và Bắc Việt Nam
Tỉnh Dịch hại
chính (Ý
kiến nông
dân)
Loại thuốc trừ
sâu được sử
dụng phổ biến
Loại thuốc trừ
bệnh được sử
dụng phổ biến
Loại thuốc trừ
sâu được bán
nhiều nhất ở địa
phương
Loại thuốc trừ
sâu được bán
nhiều nhất ở địa
phương
Hà
Tĩnh
Sâu đục
thân cành,
nhện
thiamethoxam
lambdacyhaloth
rin
fenpyroximate
Không sử dụng
thuốc bệnh
thiamethoxam
lambdacyhalothri
n
cypermethrin
fenobucarb
metalaxyl
copper
Nghệ
An
Nhện; Rầy
chổng
cánh, bệnh
greening
propargite
pyridaben
fipronil
Copper (thuốc
gốc đồng)
fipronil
methidation
pyridaben
copper
metalaxyl
fosetyl
aluminium
Hoà
Bình
Nhện; bệnh
loét
fenobucarb
abamectin
copper mixed
with mineral oil
(thuốc có gốc
đồng với dầu
khoáng)
not visited not visited
Hà Tây Nhện; rầy
chổng
cánh, sâu
vẽ bùa,
bệnh loét
cypermethrin+P
rofenofos
abamectin
metalaxyl
copper
difenoconazole
cypermethrin+Pr
ofenofos
abamectin
cypermethrin
copper
metalaxyl
Phú
Thọ
Rệp vảy Không Không sử dụng
thuốc bệnh
Không điều tra Không điều tra
Yên
Bái
Bọ xít hôi Không phun
thuốc trên vườn
bưởi
Phun
cypermethrin 1
lần trừ bọ xít hôi
Không sử dụng
thuốc bệnh
Không điều tra Không điều tra
Tuyên
Quang
Nhện, bệnh
loét
abamectin
propargite
pyridaben
carbendazim
pyridaben
propargite
metalaxyl
Hà
Giang
Sâu vẽ bùa,
nhện, bệnh
loét
acetamiprid
propargite
alpha-
cypermethrin
profenofos
carbendazim
copper
methalaxyl
acetamiprid
propargite
alpha-
cypermethrin
profenofos
carbendazim
methalaxyl
24
Bảng 4a. Làm theo yêu cầu của EURAP GAP ở ĐBSCL
Yêu cầu Can Tho Vinh Long Ben Tre Dong
Thap
Tien
Giang
1. Truy nguyên nguồn gốc NC NC NC C NC
2. Lưu giữ sổ sách ghi chép NC PC NC PC NC
3. Giống và gốc ghép NC NC NC NC NC
4. Lịch sử nơi SX và quản lý NC NC NC NC NC
5. Quản lý đất và giá thể NC PC NC PC NC
6. Phân bón và chất phụ gia NC PC NC PC PC
7. Tưới nước NC PC NC C NC
8. Bảo vệ thực vật
(Chi tiết ở bảng 5)
NC PC NC PC NC
9. Thu hoạch NC PC NC NC NC
10. Xử lý sau thu hoạch N/A PC N/A PC N/A
11. Sức khoẻ người lao động NC PC NC PC PC
12 Các vấn đề về môi trường NC PC NC PC PC
C= Làm theo, PC= Làm theo 1 phần, NC= Không làm theo, N/A = Hoạt động đó không thực hiện ở
trang trại
25
Bảng 4b. Làm theo yêu cầu của EURAP GAP ở Bắc Miền Trung và Bắc
Việt Nam
Yêu cầu Ha
Tinh
Nghe
An
Hoa
Binh
Ha
Tay
Phu
Tho
Yen
Bai
Tuyen
Quang
Ha
Giang
1. Truy nguyên nguồn
gốc
NC NC NC NC NC NC NC NC
2. Lưu giữ sổ sách ghi
chép
NC NC PC NC NC NC PC PC
3. Giống và gốc ghép NC NC C C NC NC NC NC
4. Lịch sử nơi SX và
quản lý
PC NC NC NC NC NC NC PC
5. Quản lý đất và giá
thể
PC PC PC PC PC PC NC NC
6. Phân bón và chất
phụ gia
PC PC PC PC C C PC PC
7. Tưới nước N/A N/A PC PC N/A N/A PC N/A
8. Bảo vệ thực vật
(Chi tiết ở bảng 5)
PC PC PC PC N/A N/A PC PC
9. Thu hoạch PC PC PC PC PC PC PC PC
10. Xử lý sau thu
hoạch
N/A N/A N/A N/A N/A N/A N/A N/A
11. Sức khoẻ người
lao động
PC PC C C PC PC PC PC
12 Các vấn đề về môi
trường
PC PC PC PC C C PC PC
C = Làm theo, PC = Làm theo 1 phần, NC = Không làm theo, N/A = Hoạt động
đó không thực hiện ở trang trại