Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI TRƯỚC ĐẠI DỊCH COVID 19 TOÀN CẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.18 KB, 35 trang )

ĐỀ TÀI: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI TRƯỚC ĐẠI DỊCH
COVID 19 TOÀN CẦU
I. Kinh tế thế giới trước dịch bệnh COVID-19
Trong báo cáo “Viễn cảnh toàn cầu” mới nhất, Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF) gọi điều đang xảy ra do tác động của dịch bệnh COVID-19 là “Đại
phong tỏa”(1). Cụm từ này nói đến một thực tế là nền kinh tế toàn cầu đang
lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đây là cuộc khủng hoảng lớn nhất mà thế
giới phải đối mặt kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và là thảm họa kinh
tế lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930. Câu hỏi đặt ra là dịch bệnh
COVID-19 đang tác động đến kinh tế thế giới thế nào và sau khủng hoảng,
nền kinh tế thế giới sẽ đi về đâu?
1. Thực trạng kinh tế toàn cầu trong bối cảnh dịch bệnh COVID19
Trong những tháng đầu tiên của dịch bệnh COVID-19, các nhà phân tích
chính sách hy vọng vào sự phục hồi hình chữ V, theo đó dịch bệnh COVID19 có thể được giải quyết, cho phép hoạt động kinh tế khơi phục trở lại
nhanh chóng. Hiện nay, khi các nước trên thế giới đối mặt với làn sóng lây
nhiễm mới và dự tính khả năng phong tỏa mới, nhiều nhà kinh tế cho rằng
tình hình sẽ tồi tệ thêm trước khi trở nên tốt hơn. Cho dù các nước có thể
tiến đến bãi bỏ lệnh phong tỏa, nhưng nếu khơng có giải pháp mạnh đối với
dịch bệnh, như phát triển thành công một loại vaccine trong thời gian tới,
dịch bệnh sẽ tiếp tục khiến các nền kinh tế trì trệ, khi các doanh nghiệp đóng
cửa, người lao động mất việc làm và các ngân hàng đối mặt với các món nợ
xấu tăng lên.
Hàng loạt cửa hàng phải đóng của do dịch bệnh COVID-19 ở
Mỹ_Nguồn: theguardian.com


Khủng hoảng kinh tế do dịch bệnh COVID-19 gây ra phần lớn là do
sự suy giảm nhu cầu, khi không có nhiều người tiêu dùng mua hàng hóa và
dịch vụ. Sự suy giảm này thể hiện rõ ở một số ngành và lĩnh vực bị ảnh
hưởng nặng nề, như vận tải và du lịch. Nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch
bệnh COVID-19, nhiều nước đã hạn chế sự lưu thông trong nước cũng như


mở cửa biên giới theo đường hàng không. Sự suy giảm nhu cầu tiêu dùng
này khiến ngành hàng không bị ảnh hưởng nặng nề. Nhiều hãng hàng không
phải sa thải nhân công để cắt giảm chi phí. Các ngành cơng nghiệp khác
cũng chịu sự tác động tương tự, như sự suy giảm nhu cầu dầu mỏ và sản
xuất ô tô. Do các công ty phải cắt giảm nhân sự để bù đắp cho khoản doanh
thu bị sụt giảm nên sẽ tạo ra một vịng xốy suy giảm kinh tế, khi những
người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp, khơng có khả năng tài chính
để duy trì cuộc sống, thậm chí có khả năng rớt xuống dưới chuẩn nghèo. Ví
dụ trong lĩnh vực bán lẻ, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên do các cửa hàng phải
đóng cửa, chuyển sang bán hàng trên mạng. Đây là một nguyên nhân khiến
các nhà kinh tế dự báo dịch bệnh COVID-19 sẽ dẫn suy thối tồn cầu đến
quy mơ “Đại suy thoái”.
Theo Ngân hàng đầu tư Mỹ JPMorgan Chase, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) toàn cầu đã giảm 15,6% trong 6 tháng đầu năm 2020, lớn gấp 4 lần
so với năm 2008. Mặc dù suy giảm đã được phục hồi, nhưng IMF dự báo sự
tăng trưởng của nền kinh tế thế giới sẽ giảm khoảng 4,9% trong năm 2020,
kể cả khi các chính phủ bắt đầu đưa ra các chương trình hỗ trợ. GDP ở khu
vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) và Anh được dự báo giảm khoảng
10,2% trong năm 2020, trong khi nền kinh tế Mỹ giảm khoảng 8% (2). Nếu
giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng dịch bệnh COVID-19 đã lắng xuống do
những biện pháp đóng cửa biên giới, thì trong những tháng tới có thể khó
khăn đối với các ngành công nghiệp như vận tải, du lịch, giải trí, bán lẻ do


những hạn chế của các chính phủ. Nhiều chuyên gia ở Ngân hàng Anh và
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cho rằng, sản lượng tồn cầu sẽ
khơng thể hồi phục như giai đoạn trước khủng hoảng cho đến cuối năm 2021
và nếu tiếp tục có một làn sóng lớn lan rộng virus SARS Cov-2 vào mùa
đơng này, thì tất cả những thành quả của sự phát triển đều có khả năng tiêu
tan.

Đối với những nước mà du lịch là một nguồn thu nhập then chốt, sự
suy giảm của nhu cầu dịch vụ đã ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế. Điều
đáng nói là trong những tháng tiếp theo sẽ tác động lớn đến các doanh
nghiệp nhỏ khi các chương trình hỗ trợ của các chính phủ có thể chấm dứt.
Tỷ lệ phá sản có thể tăng lên gấp 3 lần, lên đến 12% trong năm 2020 từ mức
trung bình 4% của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thế giới trước đại dịch
COVID-19.
Các nhà kinh tế lo ngại rằng, các công ty lớn sẽ thông báo sa thải nhân
cơng, thậm chí trong khi chính sách cho nghỉ phép và các hình thức hỗ trợ
khác của các chính phủ vẫn đang được thực hiện. Số lượng nhân viên bị sa
thải có thể bao gồm cả những cơng nhân “cổ cồn trắng” có học vấn cao.
Hiện tại, các cơng ty đa quốc gia đang đánh giá lại nhu cầu tuyển nhân viên
dài hạn sau đại dịch COVID-19, tạo ra một thời kỳ không chắc chắn và u ám
kéo dài. Không chỉ vậy, thế giới có thể sẽ bị tấn cơng bởi những làn sóng
thất nghiệp khác, do sự phong tỏa, những thay đổi chiến lược và sa thải nhân
công, buộc các công ty phải giảm quy mô hoặc không tuyển dụng nhân công
mới.
2. Kinh tế thế giới sẽ như thế nào sau dịch bệnh COVID-19?
Các nhà phân tích phương Tây hàng đầu đang thảo luận tích cực về
chủ đề này và đưa ra các kịch bản không nhiều khả quan. Nhà kinh tế Mỹ
nổi tiếng Nuriel Roubini cho rằng, dịch bệnh COVID-19 hiện nay sẽ làm gia


tăng khủng hoảng kinh tế và địa - chính trị. Virus corona sẽ gây ra sự sụp đổ
trật tự thế giới mà theo ông, đang gây ra sự đứt gẫy của cấu trúc toàn cầu.
Giai đoạn tiếp theo sẽ là một “kỷ nguyên băng” kinh tế, các cuộc xung đột sẽ
trầm trọng thêm, các biên giới sẽ bị đóng cửa, chủ nghĩa bảo hộ sẽ lan tràn
và mọi điều có thể dẫn đến các cuộc xung đột vũ trang. Sự phân tán xã hội
sẽ tiếp tục, nhiều sự kiện sẽ được tổ chức trực tuyến, các trung tâm mua sắm
sẽ đóng cửa, giao dịch mua sắm cũng sẽ được thực hiện thơng qua internet.

Nhiều nhà phân tích cho rằng, nếu dịch bệnh COVID-19 vẫn kéo dài
và vaccine phòng, chữa bệnh COVID-19 chưa được sản xuất, cuộc khủng
hoảng tiếp diễn, nền kinh tế thế giới sẽ rơi vào thời kỳ “đại khủng hoảng”
(Trong ảnh: Giá cổ phiếu đang trồi sụt trên thị trường chứng khoán châu Á).
Quả thật, cho đến nay, các triệu chứng của khủng hoảng kinh tế đang
ngày một rõ nét: giá cổ phiếu đang trồi sụt trên thị trường chứng khoán thế
giới, giá vàng tăng cao, các mối ràng buộc kinh tế quốc tế đang bị phá vỡ,
bao gồm cả ngành cơng nghiệp tự động hóa tồn cầu, các hội chợ thương
mại quốc tế bị hủy bỏ và ngành cơng nghiệp du lịch đang bị suy thối. Theo
báo cáo của Cơ quan xếp hạng tín dụng độc lập S&P (Standard and Poor’s),
sự lan nhanh của dịch bệnh COVID-19 có thể làm cho các nền kinh tế khu
vực châu Á - Thái Bình Dương mất 211 tỷ USD. Theo nhiều nhà quan sát,
cú sốc mang tên corona virus sẽ khiến thế giới thay đổi sâu sắc, trong đó các
quá trình vỡ vụn của các nền kinh tế sẽ diễn ra trong nhiều năm. Sự bất ổn
định về địa - chính trị, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa bảo
hộ đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế thế giới và dịch bệnh COVID-19 sẽ
làm trầm trọng thêm những xu hướng này, có thể dẫn đến sự phá hủy các
mối quan hệ về sản xuất và giao thơng, cũng như kéo lùi tiến trình tồn cầu
hóa hiện nay. Kết quả là sự phổ biến thơng tin trên mạng sẽ thay thế sự trao


đổi vật chất hàng hóa và con người. Những sự thay đổi này sẽ tác động sâu
sắc đến đời sống kinh tế - xã hội và chính trị của thế giới trong thập niên tới.
Nhiều nhà phân tích cho rằng, nếu dịch bệnh COVID-19 vẫn kéo dài
và vaccine phòng, chữa bệnh COVID-19 chưa được sản xuất, cuộc khủng
hoảng tiếp diễn, nền kinh tế thế giới sẽ rơi vào thời kỳ “đại khủng hoảng”,
một sự bất ổn sẽ lan rộng. Khi đó, câu hỏi đặt ra là phản ứng của các chính
phủ, các nhà đầu tư và người dân sẽ như thế nào trước tác động của cuộc
khủng hoảng. Trong bất kỳ trường hợp nào, nền kinh tế cũng cần sự hỗ trợ
từ các quốc gia và các ngân hàng trung ương, các giao dịch phải được phục

hồi từ sự sụp đổ và từ các doanh nghiệp bị đổ vỡ.
Các nhà kinh tế cho rằng, tình hình hiện nay tồi tệ hơn giai đoạn
khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 vì ba lý do sau: Thứ nhất, số nợ của
các nước G20 cao hơn rất nhiều so với năm 2008. Theo Ngân hàng Thanh
toán quốc tế (Bank for international settlements) ở Basel, số nợ hiện nay của
các nước G20 đã lên tới 240% GDP, so với 200% GDP năm 2008. Điều này
có nghĩa là rủi ro của một sự sụp đổ tiềm năng được đánh giá là cao hơn
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008. Thứ hai, sự tự do vận động
của các ngân hàng trung ương và các bộ tài chính đã trở nên thấp hơn.
Tương phản với năm 2008, ở nhiều nước, lãi suất ngân hàng giảm gần đến
mức 0% và nợ chính phủ ở mức cao hơn nhiều. Nếu một cuộc suy thối tồn
cầu lớn xảy ra, các ngân hàng trung ương sẽ buộc phải mua nợ chính phủ ở
quy mơ chưa có tiền lệ, tuy nhiên tình trạng này có thể được duy trì trong
bao lâu? Thứ ba, sự hợp tác quốc tế sẽ bị hạn chế do chủ nghĩa dân tộc và
chủ nghĩa bảo hộ gia tăng. Năm 2008, các biện pháp phối hợp toàn cầu đã
được huy động để củng cố các điều kiện thị trường và các thị trường tài
chính. Hiện nay khó có sự phối hợp như vậy của các nền kinh tế hàng đầu
thế giới.


3. Các kịch bản phục hồi của nền kinh tế thế giới
Mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, song vẫn có
những lý do để hy vọng về sự phục hồi của nền kinh tế thế giới. Bài học từ
các cuộc khủng hoảng trước đó cho thấy, các hậu quả của sự suy thoái do
suy giảm nhu cầu tiêu dùng có thể được ngăn chặn khi có sự hỗ trợ từ chính
phủ. Nhiều chính phủ đã hỗ trợ cho người dân, bảo đảm các doanh nghiệp
tiếp cận được với sự hỗ trợ để không phải sa thải nhân công trong suốt giai
đoạn dịch bệnh COVID-19. Bên cạnh đó, một số ngành kinh doanh lại có lợi
từ cuộc khủng hoảng, như thương mại điện tử, bán lẻ đồ ăn và chăm sóc sức
khỏe, ít nhất tạo ra sự tăng trưởng kinh tế để bù đắp lại sự mất mát. Có một

thực tế là khủng hoảng có thể có một thời hạn kết thúc rõ ràng khi tất cả các
giới hạn di chuyển có thể được dỡ bỏ (ví dụ, khi một loại vaccine được phát
triển). Điều này có nghĩa ít nhất khả năng nền kinh tế tồn cầu có thể phục
hồi mạnh mẽ một khi dịch bệnh COVID-19 qua đi. Mặc dù vẫn còn nhiều
trở ngại đối với sự phục hồi kinh tế tồn cầu, nhưng có nhiều lý do để lạc
quan rằng với sự nỗ lực, cùng những chính sách đúng đắn của các chính phủ,
những dự báo về sự sụp đổ của nền kinh tế tồn cầu có thể khơng xảy ra.
Mới đây, hãng tin Reuters (Anh) đã thăm dò hơn 50 nhà kinh tế, đề
nghị họ dự báo về sự phục hồi của nền kinh tế thế giới sau đại dịch COVID19. Một số dự báo cho rằng, nền kinh tế thế giới sẽ giảm 6% trong năm 2020
trong khi số khác nhấn mạnh chỉ giảm 0,7%. Sau đây là một số kịch bản:
Một là, kinh tế thế giới phục hồi theo hình chữ V: Đây là trường hợp
lạc quan nhất, sau khi suy giảm tăng trưởng, nó sẽ phục hồi mạnh mẽ, lấy
lại tốc độ tăng trưởng như thời kỳ trước đại dịch. Sự suy giảm GDP của nền
kinh tế toàn cầu từ tháng 4 đến tháng 6-2020 có thể ở quy mơ chưa từng có
trong nhiều thập niên. Nhưng gói kích thích tài khóa và tiền tệ hơn 10.000
tỷ USD có thể hỗ trợ cho sự tăng trưởng trở lại. Nhiều chuyên gia phỏng


đốn nền kinh tế sẽ có sự phục hồi nhanh trong quý IV-2020 khi các ngành
kinh doanh hoạt động trở lại.
Hai là, kinh tế thế giới phục hồi theo hình chữ U: Khi sự phục hồi kéo
dài trong hai quý bởi vì kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng còn tồi tệ hơn
cả năm 2008 - 2009. Điều này có thể dễ xảy ra nhất do tác động của lệnh
phong tỏa sẽ kéo dài trong một thời gian sau khi được dỡ bỏ.
Ba là, kinh tế thế giới phục hồi theo hình chữ W: Kinh tế thế giới có
thể phục hồi trong thời gian ngắn, sau đó lại suy giảm. Điều này có thể xảy
ra sau khi các lệnh phong tỏa được nới lỏng và dỡ bỏ. Nó sẽ thúc đẩy hoạt
động kinh tế, nhưng hệ quả của thất nghiệp và phá sản sẽ vẫn nặng nề khi
làn sóng nhiễm virus thứ hai đang xuất hiện tại nhiều nước.
Bốn là, kinh tế thế giới phục hồi theo hình chữ L: Khi sự tăng trưởng

suy thối sâu và khơng có sự phục hồi trong một thời gian dài. Kịch bản này
xảy ra khi dịch bệnh COVID-19 tiếp tục lan rộng trên toàn cầu, dẫn tới buộc
phải áp dụng lệnh phong tỏa kéo dài. Kịch bản đó được coi là đáng báo
động. Hậu quả của kịch bản hình chữ L mang lại nhiều rủi ro đối với các thị
trường mới nổi, bởi nó ít có khả năng có can dự vào những gói kích cầu lớn
và lại thường phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa.
Năm là, kinh tế thế giới phục hồi theo mơ hình giống lơ-gơ
SWOOSH. Điều đó ngụ ý kinh tế thế giới sẽ có sự suy sụp nghiêm trọng,
sau đó phục hồi với tốc độ chậm nhưng chắc chắn khi lệnh phong tỏa được
dỡ bỏ.
Trong khi đó, theo bài phân tích trên mạng tin Arab News, kịch bản
mới nhất thu hút sự chú ý của các nhà phân tích là kinh tế thế giới sẽ phục
hồi theo hình chữ K. Trong kịch bản này, sự sụt giảm theo chiều thẳng đứng
đã xảy ra, giống như những gì thị trường chứng khoán và dầu mỏ đã chứng
kiến trong tháng 3 và tháng 4-2020 và nối tiếp sau đó là hai mơ hình phục


hồi đối lập, gồm một bên phục hồi tích cực và một bên suy giảm mạnh.
Quan sát nền kinh tế tồn cầu, có thể nhận thấy kịch bản này đang xảy ra.
Tại Mỹ, thị trường chứng khoán đã phục hồi nhanh chóng và thậm chí cịn
bùng nổ hơn nữa. Điều đó thể hiện trong chiều hướng lên trên của mơ hình
phục hồi hình chữ K. Tuy nhiên, nhiều chỉ số khác lại đang vận động theo
chiều hướng ngược lại. Sản lượng kinh tế được đo bằng GDP có xu hướng
giảm, thất nghiệp tăng lên và các số liệu thống kê về phá sản và nợ nần đều
rất tiêu cực. Đó chính là giai đoạn suy thối trong nét đi xuống của chữ K.
Trung Quốc là một trong số ít các nền kinh tế tồn cầu được dự báo sẽ
có tăng trưởng GDP dương trong năm 2020 và các chỉ số chứng khoán của
nước này đã phục hồi trở lại mức trước đại dịch COVID-19. Đối với Mỹ,
bức tranh toàn cảnh phức tạp hơn bởi thực tế là chỉ một số bộ phận nhất định
của thị trường chứng khoán đang phục hồi theo hình chữ K. Thị trường

chứng khốn Mỹ vốn được thống trị bởi các công ty công nghệ như Apple,
Alphabet (công ty “mẹ” của Google) và Amazon, cho đến nay, đã thích ứng
với khủng hoảng. Apple gần đây đã trở thành công ty thứ hai trong lịch sử
đạt mức vốn hóa thị trường hơn 2.000 tỷ USD, sau khi Saudi Aramco tiến
hành điều tương tự khi niêm yết cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) hồi
năm 2019(5)…
Trung Quốc là một trong số ít các nền kinh tế tồn cầu được dự báo sẽ
có tăng trưởng GDP dương trong năm 2020 và các chỉ số chứng khoán của
nước này đã phục hồi trở lại mức trước đại dịch COVID-19 (Trong ảnh:
Công nhân làm việc tại một nhà máy ở tỉnh An Huy, Trung Quốc)_Nguồn:
AFP
Dịch bệnh COVID-19 đang gây hậu quả tiêu cực đối với các nước và đang
góp phần định hình lại hoạt động của các ngành kinh tế trên cấp độ toàn
cầu. COVID-19 và ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với kinh tế thế giới là một


vấn đề mang tính tồn cầu, khơng một quốc gia nào có thể đứng ngồi và
khơng nước nào có thể tự giải quyết. Tất cả các nước cần chung sức mới có
thể vượt qua được khó khăn và khủng hoảng hiện nay./.
II. Châu Âu đang đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế lịch sử vì
COVID-19
Nếu như một làn sóng đại dịch COVID-19 mới ập đến, nền kinh tế
châu Âu cịn đang kiệt quệ và chìm trong các khoản nợ hiện nay sẽ sớm rơi
vào một cuộc suy thoái kép và thời kỳ giảm phát kéo dài.
Theo National Interest, kịch bản này không phải là một điềm báo tốt cho nền
kinh tế châu Âu cũng như quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, với
trường hợp châu Âu, nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ của Khu vực
đồng tiền euro là rất cao.
Thậm chí ngay trước khi làn sóng mới nhất của đại dịch bắt đầu, nền
kinh tế châu Âu vốn dĩ đã không mấy khả quan. Mặc dù nền kinh tế tại châu

lục này có một sự hồi phục mạnh mẽ sau làn sóng COVID-19 đầu tiên, tình
hình vẫn bị coi ở mức thấp so với trước đại dịch. Kết quả là, kinh tế châu Âu
hiện vẫn rơi vào lạm phát.
Cùng lúc, thâm hụt ngân sách châu Âu đã tăng lên do các biện pháp
tài khóa đáng kể được triển khai để hỗ trợ các doanh nghiệp trong đại dịch
cũng như sự thất bại trong việc thu thuế của một nền kinh tế yếu ớt. Khi
thâm hụt ngân sách ngày càng gia tăng, mức nợ công ở các quốc gia như
Italy, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã tăng vọt lên mức kỷ lục sau chiến
tranh, từ đó đặt ra nghi vấn mới về khả năng trả nợ của các quốc gia này.
Làn sóng đại dịch mới cũng có nguy cơ gây ra suy thoái kinh tế kép
tại châu Âu, kéo theo làm trầm trọng thêm vấn đề giảm phát của Khu vực


đồng tiền chung châu Âu. Viễn cảnh này đã khiến Pháp, Đức, Italy và Tây
Ban Nha phải cân nhắc đến khả năng sớm nới lỏng các hạn chế phong tỏa.
Kịch bản suy thoái kinh tế kép sẽ làm tăng gánh nặng trả nợ của Khu
vực đồng tiền chung châu Âu, khiến Italy, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha khó
khăn hơn trong việc thoát khỏi cảnh nợ nần. Bên cạnh đó, suy thối kinh tế
kép cũng sẽ làm phức tạp thêm cuộc chiến chống giảm phát của Ngân hàng
Trung ương Châu Âu (ECB), không cho phép ngân hàng này đạt được mục
tiêu lạm phát “dưới 2%”.
Với lãi suất châu Âu ở mức âm, bất kỳ nỗ lực nào nhằm giảm lãi suất
sẽ có nguy cơ gây thêm gánh nặng cho lĩnh vực ngân hàng vốn đã lung lay
tại châu Âu. Đồng thời, bất kỳ nỗ lực nào nhằm tăng đáng kể quy mơ
chương trình mua trái phiếu của ECB sẽ có nguy cơ dẫn đến sự phản đối
mạnh mẽ về mặt chính trị từ các quốc gia, đặc biệt là ở Đức - cổ đông lớn
nhất của ECB.
Về nguyên tắc, khu vực đồng euro vẫn cịn một lối thốt để bước ra
khỏi tình trạng kinh tế ảm đạm hiện nay. Đó là nhanh chóng trở thành một
liên minh tài khóa chính thức. Một động thái như vậy sẽ cho phép kích hoạt

một gói kích thích tài khóa tồn khu vực mà Mỹ cũng sẽ tham gia. Động thái
này sẽ giúp các quốc gia trong khu vực vốn đang mắc nợ cao cơ hội vượt
qua các hạn chế hiện tại.
Tuy nhiên, giới quan sát cho rằng một động thái như trên rất khó sớm
xảy ra. Một số quốc gia lớn trong khu vực, bao gồm Đức, Áo, Đan Mạch, Hà
Lan và Thụy Điển hiện vẫn phản đối về một kế hoạch liên minh tài khóa
châu Âu.
Theo số liệu thống kê của trang worldometers.info, cập nhật đến 6 giờ
sáng 10/11 (giờ Việt Nam), tổng số ca nhiễm virus Corona chủng mới
(SARS-CoV-2) gây bệnh viêm đường hơ hấp cấp (COVID-19) trên tồn cầu


là 51.194.098 ca, trong đó có 1.268.292 người thiệt mạng. Ngày 9/11, thế
giới có tới 145 quốc gia và vùng lãnh thổ ghi nhận ca COVID-19 mới; 103
quốc gia/vùng lãnh thổ có các ca tử vong vì đại dịch.
Châu Âu lại đang chứng kiến đợt bùng phát dịch mới nghiêm trọng
hơn nhiều khi số ca bệnh tăng mại trở lại ở các nước thành viên. Tới ngày
10/11, châu Âu đã ghi nhận tổng cộng 12.386.738 ca bệnh và 296.338
trường hợp tử vong vì COVID-19./.
III. Mất 81 triệu việc làm do COVID-19 gây xáo trộn thị trường lao
động châu Á – Thái Bình Dương
Đại dịch gây nên mức sụt giảm thời giờ làm việc khổng lồ, đảo ngược
tốc độ tăng trưởng việc làm và đẩy hàng triệu người vào cảnh có việc làm
vẫn nghèo.
Theo một báo cáo mới của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO), mức sụt
giảm thời giờ làm việc khổng lồ gây nên bởi cuộc khủng hoảng COVID-19
đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc làm và thu nhập ở Châu Á và Thái
Bình Dương.
Báo cáo Triển Vọng Việc làm và Xã hội châu Á – Thái Bình Dương
2020: vượt qua khủng hoảng, hướng tới một tương lai việc làm lấy con

người làm trung tâm ước tính hậu quả về kinh tế mà đại dịch COVID-19 gây
nên là mức tổn thất khoảng 81 triệu việc làm trong năm 2020. Ở hầu như tất
cả các nền kinh tế có số liệu 2020 theo quý, số lượng việc làm đều giảm so
với năm 2019.
Cuộc khủng hoảng đã và đang gây nên tác động ngày càng sâu rộng,
tình trạng thiếu việc làm ngày một gia tăng khi hàng triệu người lao động bị
yêu cầu cắt giảm thời giờ làm việc hoặc thậm chí là khơng làm giờ nào.
Nhìn chung, ước tính thời giờ làm việc ở khu vực châu Á và Thái Bình


Dương đã giảm 15,2% trong quý II và 10,7% trong quý III năm 2020 so với
mức trước khủng hoảng.
Tổn thất về thời giờ làm việc cũng bị ảnh hưởng bởi hàng triệu người
rời bỏ lực lượng lao động hay rơi vào tình trạng thất nghiệp khi khu vực
khơng tạo được việc làm mới. Sử dụng số liệu quý sẵn có, báo cáo đã đưa ra
ước tính ban đầu về tỷ lệ thất nghiệp khu vực, theo đó tỷ lệ thất nghiệp có
thể tăng từ 4,4% năm 2019 lên mức 5,2% - 5,7% trong năm 2020.
Theo bà Chihoko Asada Miyakawa, Phó Tổng Giám đốc ILO kiêm
Giám đốc Văn phòng ILO khu vực châu Á - Thái Bình Dương: “Đại dịch
COVID-19 đã giáng một đòn mạnh vào các thị trường lao động của khu vực,
và khơng nhiều chính phủ trong khu vực có khả năng sẵn sàng giải quyết.
Diện bao phủ an sinh xã hội thấp và năng lực thể chế hạn chế của nhiều quốc
gia khiến cho họ khó có khả năng giúp doanh nghiệp và người lao động
đứng vững trên đơi chân của mình, tình hình này trở nên phức tạp hơn khi
còn quá nhiều người lao động hiện vẫn làm việc trong khu vực kinh tế phi
chính thức. Những điểm yếu tồn tại từ thời kỳ tiền khủng hoảng này đã
khiến quá nhiều người phải gánh chịu nỗi đau do mất an ninh kinh tế khi đại
dịch bùng phát và gây nên tổn thất về thời giờ làm việc và việc làm.”
1. Phụ nữ và thanh niên bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề
Báo cáo cho biết, hầu hết các quốc gia trong khu vực đều ghi nhận

mức sụt giảm về thời giờ làm việc và việc làm của phụ nữ lớn hơn so với
nam giới. Bên cạnh đó, phụ nữ cũng dễ bị vào tình trạng khơng cịn hoạt
động kinh tế hơn nam giới. Thanh niên cũng đặc biệt bị ảnh hưởng bởi thời
giờ làm việc sụt giảm và mất việc làm. Tỷ trọng thanh niên trong toàn bộ số
việc làm mất đi cao hơn trong tổng số việc làm 3 đến 18 lần.
“Báo cáo đã cho thấy một bức tranh rõ ràng về việc thanh niên và phụ
nữ bị đẩy ra khỏi công việc như thế nào so với những lao động khác,” bà


Sara Elder, Chuyên gia Kinh tế Cao cấp thuộc Văn phịng ILO khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, đồng thời là tác giả chính của báo cáo, cho biết. “Với
tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, nhiều khả năng là thanh niên sẽ khó có thể cạnh
tranh để kiếm được việc làm mới. Kể cả khi họ có thể tìm được việc làm thì
có thể cơng việc đó cũng khơng phù hợp với nguyện vọng của họ. Hàng
triệu phụ nữ cũng phải trả giá đắt và những người đã rời khỏi lực lượng lao
động có thể sẽ phải mất hàng năm trời để có thể quay trở lại làm việc toàn
thời gian.”
2. Thu nhập từ việc làm cũng là nạn nhân của cuộc khủng hoảng
Do số giờ làm việc được trả lương ít hơn, thu nhập trung bình cũng
giảm. Nhìn chung, ước tính thu nhập từ việc làm ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương trong ba quý đầu năm 2020 đã giảm khoảng 10%, tương đương
với mức giảm 3% trong tổng sản phẩm quốc nội. Một hệ quả khác là sự gia
tăng các mức độ người có việc làm vẫn nghèo. Tính về con số tuyệt đối, ước
tính ban đầu mà báo cáo đưa ra là sẽ có thêm 22 đến 25 triệu người có thể
rơi vào tình trạng có việc làm vẫn nghèo, khiến tổng số người có việc làm
vẫn nghèo (những người có thu nhập chưa đến 1,90 đô la Mỹ một ngày) của
khu vực châu Á – Thái Bình Dương tăng lên mức 94 đến 98 triệu người vào
năm 2020.
Báo cáo cũng đưa ra cảnh báo rằng xét đến quy mô thiệt hại gây nên
đối với thị trường lao động, quy mô tổng thể của những phản ứng tài khóa

của khu vực hiện là khơng đủ, đặc biệt là ở những nền kinh tế đang phát
triển trong khu vực. Do tồn tại những khoảng trống trong chi tiêu tài khóa,
cuộc khủng hoảng có khả năng làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng
giữa các quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Theo bà Elder: “Xét về mặt tích cực, chúng ta có thể đưa ra trong báo
cáo này rằng nỗ lực của chính phủ nhằm giúp các doanh nghiệp giữ chân


người lao động mặc dù thời giờ làm việc giảm đi đã và đang phát huy hiệu
quả nhằm ngăn chặn tình trạng tổn thất việc làm trầm trọng hơn. Với những
bằng chứng ngày càng rõ ràng cho thấy các chính sách an sinh xã hội và việc
làm giúp duy trì việc làm và thu nhập, hy vọng rằng cuộc khủng hoảng sẽ
dẫn tới các khoản đầu tư lớn hơn và lâu dài hơn trong các lĩnh vực cần thiết
nhằm tăng sức chống chịu và thúc đẩy một tương lai việc làm lấy con người
làm trung tâm.”
3. Đại dịch Covid-19 đã khiến làn sóng nợ thứ tư trở nên nguy hiểm
và rủi ro hơn: Sự suy thoái nghiêm trọng của kinh tế tồn cầu năm 2020 và
các phản ứng chính sách kinh tế nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực do đại
dịch Covid-19 đã làm gia tăng mức nợ tại các thị trường mới nổi và đang
phát triển.
Tuy nhiên, ngay cả trước khi đại dịch xảy ra, khối nợ tại các nền kinh
tế này cũng đã được tích lũy và phát triển nhanh chóng, có thể được gọi là
“Làn sóng nợ thứ tư”1. Điều này làm dấy lên các lo ngại về tính bền vững
của các khoản nợ và khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính tồn cầu. Theo
đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), đại dịch Covid-19 thông qua cách
nào đó đã làm trầm trọng thêm các rủi ro liên quan đến các khoản nợ và vơ
hình trung khiến làn sóng nợ thứ tư trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết.
Chính vì vậy, các nước cần hành động nhanh chóng và mạnh mẽ để đảm bảo
làn sóng nợ thứ tư không kết thúc bằng một chuỗi khủng hoảng nợ tại các thị
trường mới nổi giống như những làn sóng nợ trước đó.

Đại dịch Covid-19 đã làm gia tăng lớn mức nợ toàn cầu. Tại các nền
kinh tế mới nổi, nợ chính phủ dự kiến sẽ tăng khoảng 9 điểm phần trăm
GDP trong năm 2020 - mức tăng lớn nhất kể từ cuối những năm 1980 - là
giai đoạn các nền kinh tế này chứng kiến một chuỗi các cuộc khủng hoảng
nợ. Nợ chính phủ đã tăng ở tất cả các khu vực và các nền kinh tế chính. Khu


vực Nam Á có tốc độ tăng mạnh nhất, trong đó, nợ chính phủ của Ấn Độ dự
kiến tăng 17 điểm phần trăm GDP, trong khi tăng trưởng GDP giảm hơn 9%.
Nợ của khu vực tư nhân dự báo cũng tăng mạnh khi các doanh nghiệp phải
giải quyết hậu quả của cuộc suy thối tồn cầu do đại dịch gây ra.
Tuy nhiên, ngay cả trước khi đại dịch Covid-19 xảy ra, khối nợ tại các
nền kinh tế mới nổi đã tăng lên mức kỷ lục (Kose, Nagle và các cộng sự,
2020). Bắt đầu từ năm 2010, một làn sóng tích lũy nợ tồn cầu dần dần được
hình thành, với quy mô lớn nhất, tốc độ nhanh nhất và rộng khắp các khu
vực trong 5 thập kỷ qua, mà dẫn đầu là nhóm các nền kinh tế mới nổi. Tổng
nợ tại các nước này đã đạt 176% GDP trong năm 2019, chủ yếu là nợ của
khu vực tư nhân, tăng lên mức 123% GDP (Đồ thị 1). Tốc độ tăng của các
khoản nợ là ngun nhân chính khiến tồn cầu lo ngại rằng làn sóng nợ này
sẽ kết thúc bằng cuộc khủng hoảng tài chính giống như cuộc khủng hoảng
nợ tại khu vực Mỹ Latinh những năm 1980 và cuộc khủng hoảng tài chính
Đơng Á cuối những năm 1990.


Đại dịch Covid-19 có thể chỉ là mồi lửa châm ngòi và làm trầm trọng thêm
các rủi ro đối với khoản nợ tại các nền kinh tế mới nổi.
3. 1. Trước đại dịch Covid-19
Làn sóng nợ thứ tư vốn dĩ đã được hình thành và tích lũy: Cuối năm
2019, mức nợ toàn cầu đã tăng lên mức kỷ lục là 230% GDP và nợ của khu
vực chính phủ cũng chạm mức cao kỷ lục là 83% GDP. Tại các nền kinh tế

mới nổi và đang phát triển, tổng nợ hiện ở mức 176% GDP, dẫn đầu là nợ
của khu vực tư nhân 123% GDP. Sự gia tăng nợ của khu vực tư nhân chủ
yếu là nợ của Trung Quốc, chiếm khoảng 80% tổng nợ tại các nền kinh tế
mới nổi.


Tăng trưởng đầu tư toàn cầu ở mức thấp và kéo dài trong gần thập kỷ
qua. Đồ thị 2 cho thấy, đầu tư năm 2020 sụt giảm mạnh và rõ rệt nhất tại các
nền kinh tế mới nổi (khơng tính Trung Quốc). Từ mức đỉnh 10,8% năm
2010, tăng trưởng đầu tư tại các nền kinh tế mới nổi đã giảm xuống còn
+2,5% năm 2019.

3.2. Khi đại dịch Covid-19 lây lan trên diện rộng
Trong suốt năm 2020, khi đại dịch Covid-19 lây lan trên diện rộng,
đầu tư tại các nền kinh tế mới nổi đã sụt giảm mạnh, khoảng -4,5% năm
2020; nếu khơng tính Trung Quốc thì mức giảm là -10,6%. Mức sụt giảm
này là nhiều hơn 4 điểm phần trăm so với cuộc suy thối tồn cầu năm 2009,
mặc dù điều kiện tài chính tương đối nới lỏng trong năm 2020. Đầu tư và
tăng trưởng kinh tế giảm mạnh nhất tại Mỹ Latinh, Caribe, Nam Á; mức
giảm ít nhất tại Đông Á khi hoạt động kinh tế được hỗ trợ bởi các chương


trình kích cầu tài khóa quy mơ lớn (Trung Quốc, Việt Nam) cũng như sự thu
hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Việt Nam).
Các cuộc khủng hoảng trước đây thường được kích hoạt bởi những cú
sốc ngoại sinh dẫn đến sự rút vốn đột ngột của các nhà đầu tư. Mặc dù trong
bối cảnh hiện tại, khung chính sách ở một số nền kinh tế mới nổi đã mạnh
hơn và nợ tại các nền kinh tế phát triển gần như không thay đổi, tuy nhiên,
cũng không thể chủ quan được.
Tăng trưởng toàn cầu chậm lại thường là chất xúc tác cho các cuộc

khủng hoảng tiếp sau đó.
3.3. Đại dịch Covid-19 làm gia tăng rủi ro của các khoản nợ
Quy mơ và tốc độ tăng nhanh chóng: Sản lượng sụt giảm kết hợp với
chính sách kích cầu chưa từng có đã khiến tỷ lệ nợ trên GDP đạt mức cao kỷ
lục mới. Nợ chính phủ tồn cầu dự kiến lên tới 99% GDP vào năm 2020.
Trong số các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, tổng nợ đã tăng khoảng
7 điểm phần trăm GDP mỗi năm, giai đoạn 2010 - 2020; năm 2020, nợ chính
phủ dự kiến tăng 9 điểm phần trăm GDP, nợ doanh nghiệp dự kiến cũng tăng
mạnh. Ngược lại, tổng nợ của các nền kinh tế phát triển khơng có nhiều thay
đổi trong làn sóng nợ thứ tư.
Tuy nhiên, điều này dự báo sẽ thay đổi đáng kể vào năm 2020, với sự
gia tăng mạnh mẽ trong cả nợ khu vực công và khu vực tư nhân. Theo Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), nợ chính phủ tại các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ
tăng thêm khoảng 20 điểm phần trăm GDP, lên mức 124% GDP. Với tốc độ
tích lũy nợ nhanh như vậy, nguy cơ các khoản nợ không được sử dụng cho
mục đích sản xuất kinh doanh (có thể khơng phải là tất cả các khoản nợ) là
tương đối lớn.


Lãi suất tồn cầu ở mức thấp có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản thời
gian sau đó: Điều kiện tài chính tồn cầu hiện được nới lỏng chưa từng có
tại các nền kinh tế phát triển. Tất cả các ngân hàng trung ương (NHTW) lớn
đã khởi động hoặc mở rộng chương trình mua tài sản, một số NHTW các
nước đang phát triển cũng đi theo cùng xu thế này. Đến ngày 31/12/2020, có
tổng cộng 207 lượt hạ lãi suất và 09 lượt tăng lãi suất được các NHTW thực
thi trên phạm vi tồn cầu. Lãi suất chính sách (thực) đã âm tại các nước phát
triển trong làn sóng nợ đầu tiên. Nhằm kích thích nền kinh tế vượt qua đại
dịch Covid-19, chính sách tiền tệ đã góp phần ổn định thị trường tài chính,
giảm chi phí đi vay và tăng cường tiếp cận tín dụng. Tuy nhiên, trong bối
cảnh kinh tế bị gián đoạn do đại dịch, lãi suất tồn cầu ở mức thấp trong lịch

sử có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản trong thời gian sau đó.


Sử dụng sai mục đích của các khoản nợ: Việc gia tăng các khoản nợ
sẽ ít được quan tâm nếu như nó được sử dụng để tài trợ cho các khoản đầu tư
nhằm thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là để thúc đẩy xuất khẩu (WB, 2017).
Trong ba làn sóng nợ đầu tiên, các khoản nợ thường được sử dụng để tài trợ
đầu tư. Tuy nhiên, cũng có nhiều trong số đó được sử dụng kém hiệu quả mà
khơng phải sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh. Nợ tăng lên mà các
dự án đầu tư thúc đẩy tăng trưởng không tăng theo là một trong những yếu
tố dẫn đến khủng hoảng nợ (Kose, Nagle và các cộng sự 2020). Hơn nữa,
trong năm 2020, việc đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ để kích thích kinh tế
vượt qua đại dịch tiềm ẩn khả năng nguồn lực, quỹ hỗ trợ sử dụng, phân bổ
sai, khơng đúng mục đích...
Triển vọng kinh tế phục hồi hậu đại dịch Covid-19 còn nhiều bất ổn
và khó đốn định, khoảng cách gia tăng giữa các nước nghèo và giàu càng
lớn. Các tổ chức quốc tế đưa ra dự báo trái chiều về kinh tế toàn cầu năm


2021 cho thấy, triển vọng kinh tế là tương đối bất định. Trong đó, IMF nâng
dự báo kinh tế tồn cầu lên 5,5% trong bối cảnh kỳ vọng vào vắc-xin cùng
các biện pháp hỗ trợ kinh tế sẽ thúc đẩy kinh tế phục hồi mạnh mẽ (dự báo
tháng 10/2020: +5,2%); ngược lại, WB lại hạ dự báo tăng trưởng xuống
4%2 (dự báo tháng 6/2020: +4,2%), đồng thời cảnh báo kịch bản tăng trưởng
này là không chắc chắn, trường hợp xấu có thể xuống mức 1,6% 3 nếu dịch
bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp và việc phân phối vắc-xin bị đình trệ.
Với triển vọng bất trắc, hậu đại dịch Covid-19, nền kinh tế thế giới sẽ
phải đối mặt những khoản nợ khổng lồ và bất bình đẳng gia tăng, làm cản
trở xu hướng tăng trưởng trong dài hạn, qua đó ảnh hưởng đến khả năng và
giải quyết các khoản nợ hiện tại và phát sinh4.

Thương mại toàn cầu năm 2021 phục hồi dự kiến tăng 5 - 8,1% 5. Về
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu, Hội nghị Liên hiệp
quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) (tháng 1/2021) dự báo FDI
năm 2021 sẽ tiếp tục suy giảm trong bối cảnh dịch bệnh vẫn chưa được kiểm
sốt và vắc-xin chưa tạo được nhiều kết quả tích cực (năm 2020, FDI toàn
cầu giảm 42% so với năm 2019). Trong trung hạn, triển vọng dịng vốn đầu
tư tồn cầu vẫn còn thiếu chắc chắn, tùy thuộc vào tăng trưởng kinh tế và
tình hình địa chính trị để chi phối sự đầu tư.
3.4. Hậu quả của việc nếu không hành động
Kết thúc bằng khủng hoảng tài chính, q trình giải quyết các khoản
nợ kéo dài sau đó: Các giai đoạn tích lũy nợ nhanh chóng trong q khứ
thường gắn liền với các cuộc khủng hoảng tài chính. Khi khối nợ tích lũy đủ
lớn và kết thúc bằng khủng hoảng, việc giải quyết nợ sẽ kéo dài như trong
giai đoạn những năm 1980 và 1990 ở Mỹ Latinh và các nước thu nhập thấp;
kéo theo đó là tăng trưởng phục hồi chậm, đầu tư thấp kéo dài vài năm sau
khi khủng hoảng kết thúc hoặc thậm chí có thể là cả thập kỷ mất mát. Nhiều


nguy cơ cho thấy, làn sóng nợ thứ tư có nhiều điểm giống với những làn
sóng nợ trước đó. Điều đáng lưu ý là, sự tích tụ khối nợ hiện tại bao gồm cả
nợ khu vực công và khu vực tư nhân và tại cả hai nhóm nước phát triển và
đang phát triển.
Mất đi thập kỷ tăng trưởng: Khủng hoảng tài chính ở Mỹ Latinh
những năm 1980 sau đó là cả một giai đoạn tái cấu trúc nợ kéo dài gắn với
một thập kỷ tăng trưởng mất mát, thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng
âm trong nhiều năm. Đại dịch Covid-19 có thể kéo dài sự suy giảm sản
lượng, năng suất và tăng trưởng đầu tư. Tăng trưởng yếu sẽ tăng thêm gánh
nặng nợ và làm suy giảm khả năng trả nợ của người đi vay. Đối với một số
quốc gia đang gặp khó khăn về nợ, triển vọng kinh tế chỉ có thể cải thiện
một khi các khoản nợ được xóa nợ hơn là giãn nợ (Reinhart và Trebesch

2016).
3.5. Những thách thức chính sách mới
Một số quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có thu nhập thấp, đã lâm vào
tình trạng nợ nần hoặc có nguy cơ mắc nợ, điều này nổi lên những thách
thức và khó khăn mới trong việc giải quyết các khoản nợ.
Chi phí trả nợ lớn: Nhiều quốc gia, đặc biệt là quốc gia có thu nhập
thấp, phải đối mặt với chi phí trả nợ lớn. Việc giãn nợ có thể là giải pháp tạm
thời được lựa chọn trong lúc cấp bách để có thời gian đánh giá lại tính bền
vững của khoản nợ. Bởi lẽ, việc tránh được tình trạng thiếu tiền mặt trong
ngắn hạn có thể ngăn chặn khủng hoảng thanh khoản trở thành khủng hoảng
thanh tốn. Sáng kiến đình chỉ dịch vụ nợ (External Debt Service
Suspension Initiative - DSSI) của WB là một ví dụ. Tính đến tháng 11/2020,
đã có 44 quốc gia nghèo nhất trên thế giới nộp đơn cho DSSI và được hưởng
lợi số tiền giảm trừ nợ từ các chủ nợ song phương chính thức ước tính
khoảng 5,3 tỷ USD. Tuy nhiên, các chính sách này chỉ là các biện pháp tạm


thời, để hỗn lại các khoản thanh tốn lãi và gốc, chứ không làm giảm mức
nợ. Trong cuộc khủng hoảng nợ tại Mỹ Latinh, việc giãn nợ bị kéo dài mà
không giải quyết được, dẫn đến khối nợ tiếp tục tăng thêm và nợ lại chồng
nợ. Ngồi ra, có thể có những trở ngại đối với việc thực hiện khoanh nợ. Ví
dụ như, chỉ có 44 trong số 73 quốc gia đủ điều kiện đã đăng ký nhận hỗ trợ
DSSI, vì nhiều quốc gia lo ngại việc nhận hỗ trợ có thể ảnh hưởng đến xếp
hạng tín nhiệm quốc gia và hạn chế khả năng tiếp cận các khoản vay mới
của họ thời gian sau đó.
Các chủ nợ phát triển đa dạng hơn: Trong trường hợp xảy ra khủng
hoảng nợ, việc giải quyết có thể sẽ phức tạp hơn các cuộc khủng hoảng
trước đó vì có nhiều hình thái của các chủ nợ khác nhau (các tổ chức tài
chính quốc tế, bên cho vay song phương thuộc Câu lạc bộ Paris, bên cho vay
song phương không thuộc Câu lạc bộ Paris như Ngân hàng Phát triển Trung

Quốc, những bên cho vay thuộc khu vực tư nhân). Tầm quan trọng của các
bên cho vay song phương không thuộc Câu lạc bộ Paris đã tăng lên đáng kể
và Trung Quốc hiện là chủ nợ chính thức lớn nhất của các quốc gia đang
phát triển (Horn, Reinhart và Trebesch 2020).
Thiếu đi tính minh bạch của các khoản đầu tư và nợ: Sự phát triển đa
dạng của các chủ nợ và sự phức tạp của các công cụ nợ là những thách thức
vô cùng lớn trong việc giải quyết các khoản nợ, vì khơng phải tất cả các chủ
nợ đều bị ràng buộc bởi một bộ tiêu chuẩn báo cáo duy nhất và các điều
khoản cho vay thường là bí mật. Với dữ liệu sẵn có của 17 quốc gia thu nhập
thấp, do thiếu độ chính xác, tính kịp thời, đầy đủ và phù hợp của hồ sơ nợ,
chỉ có 4/17 quốc gia này đáp ứng yêu cầu tối thiểu về báo cáo và đánh giá nợ
(Essl và các cộng sự, 2019; WB, 2019). Trong số 59 quốc gia đủ điều kiện
vay IDA, chỉ 1/3 trong số các quốc gia này có thống kê về nợ nước ngoài
của khu vực tư nhân (WB và IMF, 2018). Điều này làm tăng nguy cơ nợ của


khu vực công cao hơn ở một số quốc gia đang phát triển so với dữ liệu báo
cáo. Ngoài ra, sự thiếu rõ ràng về các cam kết bao gồm các cuộc đàm phán
tái cơ cấu nợ, các quyết định vay và nỗ lực để đảm bảo rằng vốn vay được
sử dụng đúng mục đích và hiệu quả cũng như các chính sách áp đặt nghiêm
ngặt (thơng tin mật, khơng được tiết lộ) về các điều khoản trong hợp đồng
vay là các yếu tố ảnh hưởng đến tính bền vững của nợ. Sự nhanh chóng gia
tăng nợ mà khơng đáp ứng được các tiêu chuẩn về tính minh bạch cũng là
thách thức mới đối với việc giảm các khoản nợ trong dài hạn.
Bất cập trong quản trị: Nhiều quốc gia mới nổi và đang phát triển, đặc
biệt là các nước thu nhập thấp sức mạnh quản trị còn hạn chế, chỉ có một tỷ
lệ thấp các nước thu nhập thấp đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về quản lý nợ,
khung khổ pháp lý và thực tiễn kiểm toán (WB, 2019). Điều này làm tăng
rủi ro vay nợ nhiều mà khơng được sử dụng cho mục đích sản xuất kinh
doanh.

Thơng lệ giải quyết nợ toàn cầu: Trong một số trường hợp, việc giải quyết
các khoản nợ đang nghiêng về các chủ nợ và thường khơng khuyến khích
giải quyết các khoản nợ nhanh chóng và tồn diện.
3.6. Hàm ý chính sách
Đại dịch Covid-19 đã khiến khối nợ tăng cao hơn và làm trầm trọng
thêm các rủi ro liên quan đến khoản nợ hiện tại, nhiều quốc gia rơi vào tình
cảnh nợ nần. Khối nợ có khả năng tăng cao hơn nữa khi chính phủ và hệ
thống tài chính sử dụng nhiều biện pháp để hỗ trợ phục hồi kinh tế hậu đại
dịch. Các nhà hoạch định chính sách cần phải hành động để ngăn chặn sự
thiếu hụt dòng tiền trong ngắn hạn nhằm phục hồi hoạt động kinh doanh và
cung cấp khoảng thời gian cần thiết để đánh giá tính bền vững của khoản nợ
cũng như cân nhắc giải pháp tốt nhất để giải quyết nợ nếu như khoản nợ đó
khơng còn bền vững.


Trong ngắn hạn, ưu tiên chính sách hàng đầu là kiểm soát sự lây lan của đại
dịch Covid-19 và đảm bảo vắc-xin được triển khai nhanh chóng và rộng rãi.
WB khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách cần tiếp tục duy trì sự phục
hồi, chuyển dần từ hỗ trợ thu nhập sang các chính sách thúc đẩy tăng trưởng.
Để hỗ trợ phục hồi kinh tế bền vững, chính phủ các nước cần tạo điều kiện
cho một chu kỳ tái đầu tư mà ít phụ thuộc vào nợ chính phủ.
Về dài hạn, tại các nền kinh tế đang phát triển, các chính sách cải
thiện dịch vụ y tế và giáo dục, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, khả năng chống
chịu với khí hậu, quản trị doanh nghiệp sẽ giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế
do đại dịch, giảm nghèo và thúc đẩy phát triển chung. Thêm vào đó, cần có
các biện pháp để tăng cường tính minh bạch của quy trình cho vay, số tiền
vay và các điều khoản, cách thức sử dụng số tiền vay.
IV. Kinh tế châu Á đang lấy lại đà tăng trưởng.
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) tại Báo cáo Triển vọng phát triển
châu Á tháng 4/2021 dự báo tăng trưởng các nền kinh tế châu Á đang phát

triển có thể đạt 7,3% năm 2021 và 5,3% năm 2022. Tính riêng khu vực
Đơng Nam Á sẽ đạt tăng trưởng 4,4% năm 2021 và 5,1% năm 2022, trong
đó, ADB nhận định kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh và ổn
định ở mức 6,7% và 7,0% trong các năm 2021 và 2022.
1. Các nền kinh tế tiếp tục phục hồi
Trong năm 2020, kinh tế của các nước châu Á đang phát triển giảm 0,2%
và sự phân hóa nổi lên trong khu vực. Bị kìm hãm bởi các đợt phong tỏa
trong nước và suy thối tồn cầu, tiêu dùng và đầu tư đã kéo lùi tăng trưởng
ở hầu hết các nền kinh tế. Nam Á có mức suy giảm lớn nhất do GDP của Ấn
Độ giảm sâu 8,0%. Khu vực Đông Nam Á cũng bị giảm đáng kể, dẫn đầu là
Philippines giảm 9,6%, tiếp đến là Thái Lan giảm 6,1%. Hoạt động kinh tế
suy giảm ở Trung Á do giá hàng hóa và lượng kiều hối giảm, cùng với lượng


×