Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tài liệu ĐỀ ÁN " HỆ THỐNG NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ HÀNG TỒN KHI TRONG DOANH NGHIỆP" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.03 KB, 20 trang )










Đề tài
“ Bàn về hệ thống nguyên tắc
và phương pháp tính giá hàng
tồn kho trong doanh nghiệp ”












Đề án môn học


1
Lời mở đầu


Hàng tồn kho là một phần quan trọng trong tài sản lưu động và nằm ở nhiều khâu trong
quá trình cung ứng sản xuất, dự trữ và lưu thông của nhiều doanh nghiệp. Hàng tồn kho của
mỗi doanh nghiệp thường bao gồm: Nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, sản phẩm dịch
vụ dở dang, thành phẩm, hàng hoá(gọi tắt là vật tư, hàng hoá).
Việc tính đúng giá trị hàng tồn kho, không chỉ giúp cho doanh nghiệp chỉ đạo kịp thời
các nghiệp vụ kinh tế diễn ra hàng ngày, mà còn giúp doanh nghiệp có một lượng vật tư, hàng
hoá dự trữ đúng định mức, không dự trữ quá nhiều gây ứ đọng vốn, mặt khác không dự trữ
quá ít để bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên
tục, không bị gián đoạn.
Việc tính đúng giá hàng tồn kho còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi lập báo cáo tài
chính. Vì nếu tính sai lệch giá trị hàng tồn kho, sẽ làm sai lệch các chỉ tiêu trên báo cáo tài
chính. Nếu giá trị hàng tồn kho bị tính sai, dẫn đến giá trị tài sản lưu động và tổng giá trị tài
sản của doanh nghiệp thiếu chính xác, giá vốn hàng bán tính sai lệch sẽ làm cho chỉ tiêu lãi
gộp, lãi ròng của doanh nghiệp không còn chính xác. Hơn nữa, hàng hoá tồn kho cuối kỳ của
kỳ này còn là hàng hoá tồn kho đầu kỳ của kỳ tiếp theo. Do đó sai lầm sẽ được chuyển tiếp
qua kỳ sau và gây nên sai lầm liên tục qua các kỳ của giá vốn hàng bán, lãi gộp và lãi thuần.
Không những thế, số tiền của hàng hoá tồn kho thường rất lớn nên sự sai lầm có thể làm ảnh
hưởng một cách rõ ràng đến tính hữu dụng của các báo cáo tài chính.
Như vậy chúng ta thấy rằng Hàng tồn kho là một yếu tố rất quan trọng của phần lớn các
doanh nghiệp. Chính vì thế mà việc nghiên cứu các nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng
tồn kho trong doanh nghiệp là hết sức cần thiết, bởi vì với mỗi phương pháp tính giá trị hàng
tồn kho khác nhau thì các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính cũng sẽ thay đổi. Việc lựa chọn một
phương pháp tính giá thích hợp cho doanh nghiệp mình là rất cần thiết. Chính vì tầm quan
trọng đó mà em đã chọn đề tài: “ Bàn về hệ thống nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng
tồn kho trong doanh nghiệp ”.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Phần I : Các nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng tồn kho trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam.
Phần II: Nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng tồn kho theo chuẩn mực kế toán quốc tế
và một vài nước khác .

Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các phương pháp tính giá hàng tồn kho ở Việt
Nam.
Đề án môn học


2





















Phần I :
Các nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng tồn kho trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam

Khái quát về hàng tồn kho
1. Khái niệm hàng tồn kho
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 02
Hàng tồn kho: Là những tài sản:
(1) Được giữ để bán trong kỳ sản xuất, kinh doanh bình thường;
Đang trong quá trình sản xuất, kinh doanh dở dang;
Nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh
doanh hoặc cung cấp dịch vụ;
Thành phần của hàng tồn kho.
Hàng tồn kho bao gồm:
Đề án môn học


3
Hàng hoá mua về để bán: Hàng hoá tồn kho, hàng mua đang đi trên đường, hàng gửi
đi bán, hàng hoá gửi đi gia công chế biến;
Thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi đi bán;
Sản phẩm dở dang: Sản phẩm chưa hoàn thành và sản phẩm hoàn thành chưa làm thủ
tục nhập kho thành phẩm;
Nguên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ tồn kho, gửi đi gia công chế biến và đã mua
đang đi trên đường;
Chi phí dịch vụ dở dang.
Ngoài ra chúng ta cũng cần hiểu thêm về một số khái niệm liên quan:
Giá trị thuần có thể thực hiện được: Là giá bán ước tính của hàng tồn kho trong kỳ sản
xuất, kinh doanh bình thường trừ (-) chi phí ước tính để hoàn thành sản phẩm và chi phí ước
tính cần thiết cho việc tiêu thụ chúng.
Giá hiện hành: Là khoản tiền phải trả để mua một loại hàng tồn kho tương tự tại ngày lập
bảng cân đối kế toán.
Đặc điểm của hàng tồn kho:
Từ khái niệm Hàng tồn kho đã được đưa ra ở trên, ta có thể thấy đặc điểm của Hàng tồn

kho chính là những đặc điểm riêng của nguyên, vật liệu, công cụ, dụng cụ, thành phẩm, sản
phẩm dở dang, hàng hóa. Với mỗi loại, chúng có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất: Nguyên vật liệu (NVL) là những đối tượng lao động đã được thể hiện đưới dạng
vật hóa như: Sợi trong doanh nghiệ dệt, da trong doanh nghiệp đóng giày, vải trong doanh
nghiệp may mặc.
Khác với tư liệu lao động, NVL chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định và khi
tham gia vào quá trình sản xuất, dưới tác động của lao động, chúng bị tiêu hao toàn bộ hoặc
thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo ra hình thái vật chất của sản phẩm.
Thứ hai: Công cụ, dụng cụ (CC,DC) là những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn quy
định để xếp vào tài sản cố định.
CC,DC thường tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất-kinh doanh, trong quá trình sủ dụng,
chúng giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu.
Về mặt giá trị, CC,DC cũng bị hao màn dần trong quá trình sử dụng, bởi vậy khi phân bổ
giá trị của CC,DC vào chi phí sản xuất-kinh doanh, kế toán phải sử dụng phương pháp phân
bổ thích hợp sao cho vừa đơn giản trong công tác kế toán vừa bảo đảm được tính chính xác
của thông tin kế toán ở mức có thể tin cậy được.
Thứ ba: Thành phẩm là sản phẩm đã được chế tạo xong ở giai đoạn chế biến cuối cùng của
quy trình công nghệ trong doanh nghiệp, được kiểm nghiệm đủ tiêu chuẩn kỹ thuật quy định
Đề án môn học


4
và nhập kho. Sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất ra chủ yếu là thành
phẩm, ngoài ra có thể có bán thành phẩm. Những sản phẩm hàng hóa xuất kho để tiêu thụ, đã
thanh toán hay chấp nhận thanh toán gọi là sản lượng hàng hóa thực hiện.
Thứ tư: Sản phẩm dở dang là những sản phẩm đến cuối kỳ kinh doanh vẫn chưa hoàn
thành nhập kho, chúng vẫn còn tồn tại các phân xưởng sản xuất. Có những sản phẩm đã hoàn
thành nhưng chưa nhập kho mà doanh nghiệp xuất bán trực tiếp hoặc gửi bán thì được ghi
giảm giá trị sản phẩm dở dang.
Thứ năm: Hàng hóa (tại các doanh nghiệp thương mại) được phân theo từng ngành hàng,

gồm có: Hàng vật tư thiết bị; hàng công nghệ phẩm tiêu dùng; hàng lương thực, thực phẩm
chế biến. Kế toán phải ghi chép số lượng, chất lượng, và giá phí chi tiêu mua hàng theo chứng
từ đã lập trên hệ thống sổ thích hợp. Phân bổ hợp lý chi phí mua hàng cho số hàng đã bán và
tồn cuối kỳ.
Nguyên tắc tính giá hàng tồn kho.
Nguyên tắc giá gốc:
Hàng tồn kho phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của hàng tồn kho không được thay
đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể.
Giá gốc hàng tồn kho bao gồm: Chi phí mua, chi phí chế biến và các chi phí liên quan trực
tiếp khác phát sinh để có được hàng tồn kho ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
Chi phí mua: bao gồm giá mua, các loại thuế không được hoàn lại, chi phí
vận
chuyển, bốc xếp, bảo quản trong quá trình mua hàng và các chi phí khác có liên quan trực tiếp
tới việc mua hàng tồn kho. Các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng mua không
đúng quy cách, phẩm chất được trừ (-) khỏi chi phí mua.
Chi phí chế biến: bao gồm những chi phí có liên quan trực tiếp đến sản phẩm
sản xuất, như chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất
chung biến đổi phát sinh trong quá trình chuyển hoá nguyên liệu, vật liệu thành thành phẩm.
Chi phí liên quan trực tiếp khác: bao gồm các khoản chi phí khác ngoài chi
phí mua và chi phí chế biến hàng tồn kho.
Chi phí không tính vào giá gốc hàng tồn kho gồm:
Chi phí nguyên liệu, vật liệu, chi phí nhân công và các chi phí sản xuất, kinh
doanh khác phát sinh trên mức bình thường;
Chi phí bảo quản hàng tồn kho trừ các khoản chi phí bảo quản hàng tồn kho
cần thiết cho quá trình sản xuất tiếp theo và chi phí bảo quản trong quá trình mua hàng ;
Chi phí bán hàng;
Đề án môn học


5

Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Nguyên tắc nhất quán:
Các phương pháp tính giá hàng tồn kho doanh nghiệp đã chọn phải được áp dụng thống
nhất ít nhất trong một kỳ kế toán năm.
Vì cách lựa chọn phương pháp định giá hàng tồn kho có thể có ảnh hưởng cụ thể đến các
báo cáo tài chính, một số doanh nghiệp có thể có khuynh hướng mỗi năm chọn lựa lại một
lần. Mục đích của các công ty là làm sao chọn được phương pháp nào có thể lập được các báo
cáo tài chính có lợi nhất. Tuy nhiên nếu điều này được phép, các nhà đọc báo cáo tài chính sẽ
thấy thật khó mà so sánh các báo cáo tài chính của một công ty qua các năm.
Việc áp dụng các phương pháp kế toán thống nhất từ kỳ này sang kỳ khác sẽ cho phép báo
cáo tài chính của doanh nghiệp mới có ý nghĩa thực chất mang tính so sánh.
Tuy nhiên , nguyên tắc nhất quán không có nghĩa là một doamh nghiệp không bao giờ có
thể đổi phương pháp kế toán. Đúng hơn, nếu doanh nghiệp kiểm nghiệm một phương pháp
tính giá hàng tồn kho đã được chấp nhận như là một sự cải tiến trong lập báo cáo tài chính thì
sự thay đổi có thể được thực hiện. Tuy vậy, khi có sự thay đổi này, nguyên tắc công khai toàn
bộ đòi hỏi bản chất của sự thay đổi, kiểm nghiệm đối với sự thay đổi và ảnh hưởng của sự
thay đổi đó đến lãi ròng, tất cả phải được công khai trong thuyết minh báo cáo tài chính.
Nguyên tắc thận trọng:
Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính kế toán trong
các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:
Phải lập dự phòng nhưng không lập quá lớn;
Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập;
Chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh trên thị trường để tồn tại,
phát triển và đứng trước những rủi ro trong kinh doanh. Do vậy, để tăng năng lực của các
doanh nghiệp trong việc ứng phó với rủi ro, nguyên tắc thận trọng cần được áp dụng.
Theo nguyên tắc này thì giá trị hàng tồn kho không thu hồi đủ khi hàng tồn kho bị hư
hỏng, lỗi thời, giá bán bị giảm, hoặc chi phí hoàn thiện, chi phí để bán hàng tăng lên. Việc ghi
giảm giá gốc hàng tồn kho cho bằng với giá trị thuần có thể được thực hiện là phù hợp với
nguyên tắc tài sản không được phản ánh lớn hơn giá trị thực hiện ước tính từ việc bán hay sử

dụng chúng.
Cuối kỳ kế toán năm, khi giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho nhỏ hơn giá
gốc thì phải lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. Số dự phòng giảm giá hàng tồn kho được
lập là số chênh lệch giữa giá gốc của hàng tồn kho lớn hơn giá trị thuần có thể thực hiện được
Đề án môn học


6
của chúng. Việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho được thực hiện trên cơ sở từng mặt hàng
tồn kho. Đối với dịch vụ cung cấp dở dang, việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho được
tính theo từng loại dịch vụ có mức giá riêng biệt.
Nguyên tắc này đòi hỏi trên bảng cân đối kế toán, giá trị hàng tồn kho phải được phản ánh
theo giá trị ròng:
Giá trị tài sản ròng = Giá trị tài sản - Khoản dự phòng
Nguyên liệu, vật liệu và công cụ, dụng cụ dự trữ để sử dụng cho mục đích sản xuất sản
phẩm không được đánh giá thấp hơn giá gốc nếu sản phẩm do chúng góp phần cấu tạo nên sẽ
được bán bằng hoặc cao hơn giá thành sản xuất của sản phẩm. Khi có sự giảm giá của
nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ mà giá thành sản xuất sản phẩm cao hơn giá trị thuần
có thể thực hiện được, thì nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ tồn kho được đánh giá giảm
xuống bằng với giá trị thuần có thể thực hiện được của chúng.
Cuối kỳ kế toán năm tiếp theo phải thực hiện đánh giá mới về giá trị thuần có thể thực hiện
được của hàng tồn kho cuối năm đó. Trường hợp cuối năm kế toán năm nay, nếu khoản dự
phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập thấp hơn khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập
ở cuối kỳ kế toán năm trước thì số chênh lệch lớn hơn phải được hoàn nhập để đảm bảo cho
giá trị hàng tồn kho phản ánh trên báo cáo tài chính là theo giá gốc (nếu giá gốc nhỏ hơn giá
trị thuần có thể thực hiện được) hoặc theo giá trị thuần có thể thực hiện được (nếu giá gốc lớn
hơn giá trị thuần có thể thực hiện được).
Nguyên tắc phù hợp:
Khi bán hàng tồn kho, giá gốc của hàng tồn kho đã bán được ghi nhận là chi phí sản xuất,
kinh doanh trong kỳ phù hợp với doanh thu liên quan đến chúng được ghi nhận. Tất cả các

khoản chênh lệch giữa khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập ở cuối niên độ kế toán
năm nay lớn hơn khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối niên độ kế toán năm
trước, các khoản hao hụt, mất mát của hàng tồn kho, sau khi trừ (-) phần bồi thường do trách
nhiệm cá nhân gây ra, và chi phí sản xuất chung không phân bổ, được ghi nhận là chi phí sản
xuất, kinh doanh trong kỳ. Trường hợp khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho được lập ở
cuối niên độ kế toán năm nay nhỏ hơn khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối
niên độ kế toán năm trước, thì số chênh lệch lớn hơn phải được hoàn nhập ghi giảm chi phí
sản xuất kinh doanh.
Ghi nhận giá trị hàng tồn kho đã bán vào chi phí trong kỳ phải đảm bảo nguyên tắc phù
hợp giữa chi phí và doanh thu.Giá vốn của sản phẩm sản xuất ra hàng hoá mua vào được ghi
nhận là chi phí thời kỳ vào kỳ mà nó được bán.... Khi nguyên tắc phù hợp bị vi phạm sẽ làm
Đề án môn học


7
cho các thông tin trên báo cáo tài chính bị sai lệch, có thể làm thay đổi xu hướng phát triển
thực của lợi nhuận doanh nghiệp.
Trường hợp hàng tồn kho được sử dụng để sản xuất ra tài sản có định hoặc sử dụng như
nhà xưởng, máy móc, thiết bị tự sản xuất thì giá gốc hàng tồn kho này được hạch toán vào giá
trị tài sản cố định.
Các phương pháp tính giá hàng tồn kho.
Tính đơn giá hàng tồn kho sẽ rất đơn giản khi tất cả các đơn vị hàng mua đều được mua
với cùng một đơn giá ổn định từ kỳ này sang kỳ khác. Tuy nhiên, khi các loại hàng hoá giống
nhau được mua với những giá khác nhau thì phát sinh vấn đề là sử dụng trị giá vốn nào cho
hàng hoá tồn kho cuối kỳ và trị giá vốn nào cho hàng hoá bán ra.
Về nguyên tắc, hàng tồn kho được đánh giá theo giá thực tế. Theo chuẩn mực kế toán Việt
Nam, việc tính giá trị hàng tồn kho được áp dụng theo một trong các phương pháp sau:
Phương pháp tính theo giá đích danh;
Phương pháp bình quân gia quyền;
Phương pháp nhập trước, xuất trước;

Phương pháp nhập sau, xuất trước.
Chúng ta sẽ lần lượt đi vào từng phương pháp cụ thể:
Phương pháp tính theo giá đích danh:
Phương pháp này được áp dụng đối với doanh nghiệp có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn
định và nhận diện được, có đơn giá hàng tồn kho rất lớn như các đồ trang sức đắt tiền, các bất
động sản, ô tô mà có thể nhận diện được từng loại hàng hoá tồn kho với từng lần mua vào và
hoá đơn của nó, hơn nữa các doanh nghiệp phải có điều kiện bảo quản riêng từng lô hàng
nhập kho, vì vậy mà khi xuất kho lô nào thì tính theo giá đích danh của lô đó.
Phương pháp này có thể được ủng hộ vì nó hoàn toàn làm phù hợp giữa chi phí và doanh
thu, song phần lớn các doanh nghiệp không sử dụng giá đích danh vì 3 lý do sau:
Thứ nhất: Các thủ tục ghi sổ chi tiết thường rất tốn kém, nhất là trong các doanh nghiệp
không có máy vi tính.
Thứ hai: Nếu số lượng tồn kho giống nhau thì sự nhận diện từng đơn vị không có tác dụng
gì cả. Mục đích của báo cáo tài chính là báo cáo thông tin kinh tế về các nguồn tài lực và cổ
phần của một doanh nghiệp, không cần thiết phải là các thông tin cụ thể về các tiềm năng này.
Nói cách khác vấn đề hiệu quả và giá trị là có ý nghĩa còn hiện vật thì không.
Thứ ba: Phương pháp giá đích danh bản thân nó có thể làm cho ban quản trị điều khiển
được lợi tức. Ban quản trị chỉ cần giữ lại trong tồn kho những khối lượng có giá trị cao (hoặc
thấp) để gây ảnh hưởng giả tạo tới lợi nhuận.

×