Chơng I: Cơ sở lý thuyết của thơng mại quốc tế và vai trò của xúc
tiến thơng mại đối với xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế
I. Cơ sở lý thuyết của xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
1. Các lý thuyết chính về trao đổi thơng mại quốc tế
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A. Smith
Theo A.Smith: Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lợng của một loại sản phẩm
có thể đợc sản xuất ra, sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nớc khác nhau. Một n-
ớc đợc coi là có lợi thế tuyệt đối so với nớc kia trong việc sản xuất hàng hoá A
khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất đợc nhiều hơn sản phẩm A ở nớc thứ
nhất hơn nớc thứ hai.
A.Smith cũng cho rằng, nếu quốc gia chuyên môn hoá vào những ngành
sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi
phí hiệu quả hơn nớc khác.
Có thể xem xét ví dụ sau để thấy rõ điều này:
Lợng lúa gạo và vải vóc có thể đợc sản xuất với một đơn vị nguồn lực
ở Việt Nam và Hàn Quốc nh sau:
Bảng 1: Ví dụ về lợi thế tuyệt đối
Nớc Lúa gạo (tạ) Vải (mét)
Việt Nam 10 6
Hàn Quốc 5 10
Căn cứ số liệu ở trên đây thì Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về lúa gạo vì
cùng một đơn vị nguồn lực Việt Nam có thể sản xuất đợc 10 tạ lúa gạo trong khi
Hàn Quốc chỉ sản xuất đợc 5 tạ lúa gạo, vì thế Việt nam sẽ chuyên môn hoá sản
1
xuất lúa gạo để trao đổi thơng mại quốc tế. Giải thích tơng tự, Hàn Quốc có lợi
thế tuyệt đối về vải và nớc này nên chuyên môn hoá sản xuất vải để tham gia th-
ơng mại quốc tế.
Nhờ sự chuyên môn hoá, các nớc có thể gia tăng hiệu quả do: (1) ngời lao
động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao tác nhiều lần; (2) ngời lao
động không phải mất thời gian chuyển từ việc sản xuất sản phẩm này sang sản
phẩm khác và (3) do làm một công việc lâu dài, ngời lao động sẽ nảy sinh ra
sáng kiến đề xuất các phơng pháp làm việc tốt hơn.
Tuy nhiên, một nớc nên chuyên môn hoá vào những sản phẩm nào? Mặc
dù, A. Smith cho rằng thị trờng chính là nơi quyết định nhng ông vẫn nghĩ rằng
lợi thế của một nớc có thể là lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực của nớc đó. Lợi thế tự
nhiên liên quan đến các điều kiện khí hậu và tự nhiên. Còn lợi thế do nỗ lực là
lợi thế có đợc do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành nghề. Điều kiện tự nhiên
có thể đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất có hiệu quả rất nhiều sản
phẩm nh chè, cà phê, cao su..., các loại khoáng sản. Nhng ngày nay, ngời ta th-
ờng buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã đợc sản xuất công phu hơn là các
nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai hoặc sơ chế, quy trình sản
xuất các loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc vào lợi thế do nỗ lực.
Lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo
Khi mỗi nớc có lợi thế tuyệt đối so với nớc khác về một loại hàng hoá, lợi
ích ngoại thơng là rõ ràng. Nhng điều gì sẽ xảy ra nếu một nớc có thể sản xuất
có hiệu quả hơn nớc kia trong hầu hết các mặt hàng? Hoặc những nớc không có
lợi thế tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là
ở đâu, và ngoại thơng diễn ra nh thế nào? Lý thuyết về lợi thế so sánh của
D.Ricardo sẽ là câu trả lời cho câu hỏi này.
Theo D.Ricardo, cơ chế xuất hiện lợi ích trong thơng mại quốc tế là:
2
- Mọi nớc đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì
ngoại thơng cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nớc do chỉ chuyên
môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của
mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nớc khác.
- Những nớc có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nớc khác, hoặc bị kém lợi
thế tuyệt đối hơn so với nớc khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có
lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì mỗi nớc có một lợi thế so
sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng.
Nh vậy, một nớc A gọi là có lợi thế so sánh so với một nớc khác về một
mặt hàng nào đó khi việc sản xuất ra mặt hàng đó ở nớc A có chi phí cơ hội thấp
hơn.
Giả sử lợng lúa gạo và ti vi có thể đợc sản xuất với một đơn vị nguồn lực
ở Việt Nam và Nhật Bản nh sau:
Bảng 2: Ví dụ về lợi thế so sánh
Nớc Lúa gạo (tạ) Ti vi (cái)
Việt Nam 35 7
Nhật Bản 20 5
Chi phí cơ hội để sản xuất ra một ti vi ở Nhật là số đơn vị nguồn lực phải
hy sinh khi sản xuất 1 cái ti vi thay vì sản xuất 1 tạ gạo, nói cách khác chi phí cơ
hội của Nhật để sản xuất 1 cái ti vi trong trờng hợp này sẽ là 20/4=4 tạ gạo. Suy
luận tơng tự, chi phí cơ hội sản xuất một ti vi ở Việt Nam sẽ là 35/7=5 tạ gạo.
Nhật Bản có chi phí cơ hội để sản xuất ti vi nhỏ hơn Việt Nam, nên Nhật có lợi
thế so sánh về sản xuất ti vi. Ngợc lại, để sản xuất 1 tạ lúa gạo ở Việt Nam chỉ
cần hy sinh 7/35 = 0,2 cái ti vi, trong khi ở Nhật lại cần phải hy sinh 5/20 = 0,25
cái ti vi. Nh vậy Việt Nam có chi phí cơ hội để sản xuất 1 tấn lúa gạo thấp hơn
Nhật, do đó Việt Nam có lợi thế so sánh về sản xuất lúa gạo. Việt Nam sẽ
chuyên môn hóa sản xuất lúa gạo để xuất khẩu sang Nhật và nhập khẩu ti vi từ
Nhật. Khi đó cả 2 nớc đều có lợi trong thơng mại quốc tế.
3
1.3Lý thuyết của Hecksher Ohlin ( Lý thuyết H/O hay Mô hình H/O) về
mối quan hệ giữa các yếu tố sẵn có và chuyên môn hoá quốc tế
Lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo vẫn cha giải thích đợc nguyên
nhân xuất hiện lợi thế so sánh, và vì sao các nớc khác nhau lại có chi phí cơ hội
khác nhau.
Để khắc phục hạn chế này, hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển là Eli Hecksher
và B. Ohlin trong tác phẩm Thơng mại liên khu vực và quốc tế xuất bản năm
1993 đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo bằng việc xác định
nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự u đãi về các yếu tố sản xuất mà kinh tế
học phát triển đơng đại vẫn gọi là nguồn lực sản xuất. Do đó, lý thuyết của
Hecksher Ohin còn đợc gọi là lý thuyết lợi thế so sánh về các nguồn lực sản
xuất sẵn có, đã tính đến những khác biệt về cung ứng yếu tố (chủ yếu là đất đai,
lao động và vốn) khi chuyên môn hoá quốc tế.
Lý thuyết này chứng minh rằng, một nớc sẽ thu lợi qua buôn bán nếu xuất
khẩu một hàng hoá đợc sản xuất bằng việc sử dụng ở mức cao yếu tố sản xuất
mà nớc đó có tơng đối nhiều (và rẻ) và nhập những hàng hoá mà việc sản xuất
đòi hỏi sử dụng ở mức cao các yếu tố sản xuất mà ở nớc mình có ít. Thơng mại
quốc tế dựa vào những khác biệt về yếu tố sản xuất hiện có của mỗi nớc, ví dụ
Việt Nam có nhiều lao động và Nhật Bản có nhiều vốn: khi đó Việt Nam có lợi
thế so sánh về những hàng hoá đòi hỏi nhiều lao động (chẳng hạn sản phẩm dệt)
và Nhật Bản có lợi thế so sánh về những hàng hoá đòi hỏi nhiều vốn; điều đó
cũng có nghĩa là chi phí cơ hội của hàng dệt (đo bằng sản lợng thép để sản xuất
ra một đơn vị hàng dệt) ở Nhật lớn hơn ở Việt Nam.
Lý thuyết H/O dựa trên hai giả định quan trọng:
Một là, các sản phẩm khác nhau cần các yếu tố sản xuất ở các tỷ lệ khác
nhau. Ví dụ, sản phẩm nông nghiệp nói chung cần tỷ lệ lao động tơng đối lớn
hơn trên mỗi đơn vị vốn, trong khi sản phẩm công nghiệp cần nhiều thời gian
máy (vốn) hơn trên mỗi công nhân so với hầu hết các sản phẩm nguyên khai.
4
Các tỷ lệ mà trong đó các yếu tố thực sự đợc sử dụng để sản xuất ra các sản
phẩm khác nhau sẽ phụ thuộc vào các giá tơng đối. Tuy nhiên, bất kể các yếu tố
có thế nào chăng nữa, một số sản phẩm nhất định sẽ luôn luôn cần tơng đối
nhiều vốn hơn trong khi một số khác thì sẽ cần tơng đối nhiều lao động hơn.
Hai là, các nớc sẵn có các yếu tố sản xuất khác nhau. Một số nớc có số
vốn lớn trên mỗi công nhân và do vậy gọi là d thừa vốn trong khi các nứơc
khác lại có ít vốn và nhiều lao động, do đó đợc gọi là d thừa lao động. Nói
chung, các nớc phát triển đợc coi là tơng đối d thừa vốn (ngời ta cũng nói thêm
rằng họ có nhiều lao động có kỹ năng hơn), trong khi các nớc đang phát triển có
ít vốn và nhiều lao động không có kỹ năng, nghĩa là họ là các nớc d thừa lao
động. Nói cách khác , cơ sở của mậu dịch nảy sinh không phải vì có sự khác biệt
vốn có về công nghệ trong năng suất lao động đối với các sản phẩm khác nhau
giữa các nớc khác nhau, mà bởi vì các nớc sẵn có các yếu tố khác nhau.
Lý thuyết này đã giải thích hiện tợng thơng mại quốc tế là do trong một
nền kinh tế mở cửa, mỗi nớc đều hớng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất
cho phép sử dụng nhiều nhất các nhân tố sản xuất mà đối với nớc đó là thuận lợi
nhất (ví dụ nh tài nguyên thiên nhiên, lao động hay vốn...). Nói cách khác, theo
lý thuyết H/O, một số nớc có lợi thế so sánh hơn trong việc xuất khẩu một số
sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất những mặt hàng đã đợc sử
dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nớc đó có lợi thế hơn một số nớc khác. Chính sự
u đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất này (gồm vốn, lao động, tài
nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến một số nớc có chi phí cơ hội thấp hơn ( so
với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) khi sản xuất các sản phẩm hàng
hoá đó.
Lý thuyết H/O còn đa ra quy luật về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất mà
về sau đợc các nhà kinh tế học mở rộng và phát triển. Nội dung của quy luật này
là một nớc sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất nó cần sử dụng yếu tố
5
rẻ và tơng đối sẵn có của nớc đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất
nó cần nhiều yếu tố đắt và tơng đối khan hiếm hơn ở nớc đó.
Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trớc thực tiễn phát triển phức tạp
của thơng mại quốc tế ngày nay, song quy luật này vẫn đang là quy luật chi
phối động thái phát triển của thơng mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn
quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là đối với các nớc cha
phát triển bởi vì những nớc này đa số là những nớc đông dân, thừa lao động nh-
ng nghèo vốn, do đó trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nớc cần tập trung
xuất khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những hàng
hoá sử dụng nhiều vốn. Sự lựa chọn những hàng hoá xuất khẩu phù hợp với các
lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có nh vậy sẽ là điều kiện cần thiết
để các nớc cha phát triển, đang phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào sự
phân công lao động và hợp tác thơng mại quốc tế, và trên cơ sở lợi ích thơng mại
thu đợc sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trởng và phát triển kinh tế ở nớc này.
2. Các mô hình thơng mại quốc tế đợc sử dụng trong hoạch định chính
sách xuất khẩu
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tuỳ vào việc lựa chọn chiến lợc
phát triển cho từng thời kỳ, các quốc gia đều áp dụng một chiến lợc phát triển
ngoại thơng thích hợp với thời kỳ chiến lợc đó. Tổng kết thực tiễn phát triển
ngoại thơng của các nớc, đặc biệt là các nớc đang phát triển sau Thế chiến hai,
có ba loại hình phát triển ngoại thơng chủ yếu sau đây:
2.1 Chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô
Chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô dựa chủ yếu vào việc sử dụng rộng rãi
các nguồn tài nguyên sẵn có và các điều kiện thuận lợi trong nớc về các sản
phẩm nông nghiệp và khai khoáng. Chiến lợc này đợc thực hiện trong điều kiện
trình độ sản xuất còn thấp, đặc biệt là trình độ của ngành công nghiệp và khả
năng tích luỹ vốn của nền kinh tế còn bị hạn chế.
6
Chiến lợc này tạo điều kiện cho phát triển kinh tế theo chiều rộng, xuất
hiện nhu cầu thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Sự phát triển các thị trờng sản phẩm
sơ khai sẽ dẫn đến tăng nguồn vốn đầu t nớc ngoài và tích luỹ trong nớc, đồng
thời giải quyết công ăn việc làm và tăng đội ngũ công nhân lành nghề, dẫn đến
quy mô tăng sản xuất cho nền kinh tế. Chiến lợc cũng tạo ra sự thay đổi cơ cấu
kinh tế, góp phần tạo nguồn vốn ban đầu cho công nghiệp hoá.
Tuy nhiên, sự phát triển dựa vào chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô cũng
gặp nhiều hạn chế nh cung- cầu sản phẩm thô không ổn định, giá cả sản phẩm
thô thờng có xu hớng giảm so với hàng công nghệ nên thu nhập từ xuất khẩu sản
phẩm thô sẽ không ổn định gây bất lợi cho các nớc xuất khẩu sản phẩm thô.
Ngoài ra đây còn là chiến lợc dựa hoàn toàn vào tài nguyên do vậy nó sẽ làm
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nớc.
2.2 Chiến lợc thay thế nhập khẩu (IS- Import Substitution)
Nội dung cơ bản của chiến lợc này là đẩy mạnh sự phát triển của các
ngành công nghiệp trong nớc, trớc hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
sau đó là các ngành công nghiệp khác nhằm sản xuất sản phẩm nội địa thay thế
các sản phẩm nhập khẩu. Ban đầu nên sản xuất các loại hàng tiêu dùng cơ bản
mà trớc đây phải nhập khẩu. Việc sản xuất này đợc coi là thay thế nhập khẩu lần
thứ nhất. Sau đó, khi vốn tích luỹ đợc gia tăng và công nghệ trong nớc đã đợc
nâng cao sẽ tiến hành sản xuất các sản phẩm có trình độ công nghệ cao. Nội
dung này đợc coi là thay thế nhập khẩu lần thứ hai.
Để thực thi chiến lợc này, điều kiện quan trọng nhất là phải có vai trò bảo
hộ của Chính phủ; và đòi hỏi thị trờng trong nớc phải đủ lớn để đảm bảo cho sự
phát triển của ngành hạn chế nhập khẩu. Trong thời gian đầu khi công nghiệp
trong nớc còn non trẻ, giá thành sản xuất thờng cao hơn so với thị trờng thế giới,
Chính phủ cần xây dựng hàng rào bảo vệ bằng hình thức thuế quan hoặc hạn
ngạch nhập khẩu. Cùng với các biện pháp này, các ngành công nghiệp non trẻ
7
phải vơn lên cạnh tranh đợc với hàng nhập khẩu trên thị trờng trong nớc và theo
đó sẽ giảm dần mức độ bảo hộ.
Chiến lợc này vì thế có tác dụng làm giảm mức độ trầm trọng trong thâm
hụt cán cân thanh toán và thơng mại quốc tế do giảm đợc lợng hàng hoá nhập
khẩu và xuất khẩu thuần đợc cải thiện. Nhờ có sự bảo hộ của Chính phủ, các
ngành công nghiệp non trẻ đợc nuôi dỡng (đó là các ngành có bộc lộ lợi thế
nhng cha đủ sức để cạnh tranh).
Mặc dù chiến lợc này có vẻ hấp dẫn về mặt lý thuyết, song lại cha mấy
thành công trong thực tế. Việc thay thế nhập khẩu thành công đòi hỏi phải quản
lý đợc hai sự chuyển đổi rất khó khăn. Thứ nhất là, tạo ra một cơ cấu kinh tế
năng động và hiệu quả một cách hợp lý đằng sau các hàng rào bảo hộ. Thứ hai
là, chuyển từ bảo hộ sang một môi trờng buôn bán cởi mở hơn. Kinh nghiệm
quốc tế cho thấy rằng việc đối phó với cả hai thách thức này đều rất khó. Những
sai lệch do sự bảo hộ gây ra thờng nghiêm trọng đến nỗi không thể đạt đợc sự
tăng trởng cao, bền vững ngay cả khi nền công nghiệp trong nớc đợc bảo vệ trớc
sự cạnh tranh quốc tế, và quá trình chuyển từ bảo hộ sang mậu dịch tự do thờng
vấp phải sự phản đối quyết liệt từ các nhóm lợi ích.
Sau một thời gian thực thi chiến lợc này, nhiều nớc đã tìm cách chuyển h-
ớng chiến lợc. Lý do cơ bản là chiến lợc này có nhiều mặt hạn chế:
Thứ nhất, nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nớc vì có thuế quan bảo hộ và đợc mua nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ. Nếu
chi phí sản xuất tăng hay giá thị trờng quốc tế của hàng nhập khẩu có sức cạnh
tranh giảm thì phản ứng tự nhiên của các nhà sản xuất là quay sang Chính phủ
để trông chờ bảo hộ. Do đó, thay vì bảo hộ sẽ giảm dần theo thời gian thì các
nhà sản xuất lại trông chờ bảo hộ tăng lên.
Thứ hai, chiến lợc IS hạn chế xu hớng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nớc. Chiến lợc này bắt đầu từ công nghiệp hàng tiêu dùng, sau đó tiếp tục tạo thị
trờng cho các ngành sản xuất sản phẩm trung gian. Nhng vì thị trờng trong nớc
8
đối với các sản phẩm trung gian thờng nhỏ hơn thị trờng hàng tiêu dùng nên có
những trở ngại đối với việc đầu t vào lĩnh vực này, do vậy, cần có sự bảo hộ. Sự
bảo hộ này lại làm tăng giá đầu t vào các nghành sản xuất hàng tiêu dùng. Để
đảm bảo lợi nhuận, các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục
phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu, làm cho các ngành sản xuất nguyên
vật liệu không có khả năng phát triển, hạn chế sự hình thành cơ cấu công nghiệp
đa dạng của đất nớc.
Thứ ba, việc thực thi chiến lợc này làm nảy sinh nhiều tiêu cực. Bảo hộ
bằng thuế quan dẫn đến tình trạng trốn, lậu thuế, hối lộ cán bộ thuế.
Cuối cùng, chiến lợc này làm tăng nợ nớc ngoài của các nớc đang phát
triển. Do đợc bảo hộ nên các sản phẩm sản xuất trong nớc không có khả năng
cạnh tranh và khả năng tiêu thụ trên thị trờng quốc tế, trong khi vẫn phải nhập
khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu từ nớc ngoài, làm cho tình trạng nhập
siêu của những nớc này ngày càng gia tăng. Đặc biệt đối với những nớc có quy
mô thị trờng trong nớc nhỏ bé và nguồn tài nguyên khan hiếm thì những hạn chế
trên càng gia tăng. Chính vì những hạn chế này, các nớc đang phát triển nhận
thấy rằng chỉ có cách dựa vào thị trờng quốc tế rộng lớn và họ đã tìm cách
chuyển sang chiến lợc hớng ngoại.
2.3 Chiến lợc hớng về xuất khẩu (EP- Export Promotion)
Chiến lợc hớng về xuất khẩu là chiến lợc hớng vào thị trờng quốc tế để
xuất khẩu sản phẩm, bao gồm cả xuất khẩu sản phẩm thô và sản phẩm công
nghệ. Sản xuất xuất khẩu là những sản phẩm đợc sản xuất dựa vào lợi thế so
sánh của đất nớc.
T tởng cốt lõi của chiến lợc hớng về xuất khẩu là lấy nhu cầu thị trờng thế
giới làm mục tiêu cho nền sản xuất trong nớc, là cải tạo và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế quốc gia sao cho thích ứng với những đòi hỏi của thị trờng quốc tế, là đặt
nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trờng quốc tế nhằm phát
9
huy lợi thế so sánh của quốc gia.Việc thực thi chiến lợc hớng về xuất khẩu đã
giúp cho các nớc đang phát triển đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá đất nớc.
Trớc hết, chiến lợc EP tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng
động. Sự phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến
các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra mối
liên hệ ngợc thúc đẩy sự phát triển của các ngành này.Bên cạnh đó, khi tích luỹ
của nền kinh tế đợc nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ta mối liên hệ xuôi là
cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến và mối liên
hệ xuôi này tiếp tục đợc phát triển. Sự phát triển của tất cả các ngành này sẽ làm
tăng thu nhập của ngời lao động, tạo ra mối liên hệ gián tiếp cho sự phát triển
công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ.
Thứ hai, chiến lợc EP tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nớc ngày
càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trờng quốc tế. Bởi vì chiến lợc
này làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trờng thế giới nhiều hơn thị tr-
ờng trong nớc, do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải
dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Thời kỳ đầu có thể có sự trợ giúp của Nhà nớc,
song muốn tiếp tục tồn tại thì phải tự khẳng định vị trí của mình. Mặt khác, thị
trờng quốc tế rộng lớn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu đợc hiệu quả
nhờ quy mô sản xuất lớn.
Thứ ba, chiến lợc EP còn tạo nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất n-
ớc. Nguồn thu ngoại tệ này vợt xa các thu nhập khác, kể cả vốn vay là đầu t nớc
ngoài. Đối với nhiều nớc đang phát triển, ngoại thơng đã trở thành nguồn tích
luỹ chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá đất nớc. Đồng
thời có ngoại tệ đã tăng đợc khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và
nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển các ngành công nghiệp.
***
Về lý thuyết chiến lợc phát triển ngoại thơng của Việt Nam hiện nay có
thể đợc xem là sự kết hợp giữa khuyến khích xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
10
Tuy nhiên, trên thực tế chính sách và hoạt động thơng mại trong thời gian qua
của Việt Nam cho thấy chiến lợc thay thế nhập khẩu vẫn đợc thể hiện một cách
rõ ràng hơn. Nhà nớc đã khuyến khích nhập khẩu các hàng hoá t bản, nguyên
vật liệu chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi tỷ
trọng hàng tiêu dùng ngày nhỏ và giảm.Chính sách bảo hộ có khi đợc áp dụng
một cách tràn lan, làm cho ngời tiêu dùng phải trả giá đắt khi mua hàng hoá,
tình trạng buôn lậu gia tăng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém. Trong cơ
cấu hàng hoá xuất khẩu, các sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm thô vẫn là
chủ yếu. Một số nội dung trong chính sách thơng mại cũng có phần cha thật rõ
ràng, ảnh hởng không tốt đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. Đặc biệt khi
mà thời gian thực hiện các cam kết của AFTA và APEC đang đến gần, nếu
không có các chủ trơng, biện pháp thích hợp và kịp thời thì sẽ không tận dụng đ-
ợc những thuận lợi do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại và bị thua thiệt khi thực
hiện tự do hoá thơng mại.
II. Vai trò của xúc tiến thơng mại đối với thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.Khái niệm về xúc tiến thơng mại (XTTM) và một số vấn đề liên quan
1.1 Xúc tiến thơng mại (XTTM)
1.1.1 Xúc tiến thơng mại là gì?
Theo cách hiểu truyền thống, XTTM là hoạt động trao đổi và hỗ trợ trao
đổi thông tin giữa bên bán và bên mua, hoặc qua khâu trung gian nhằm tác động
tới thái độ và hành vi mua bán và qua đó thúc đẩy việc mua bán và trao đổi hàng
hoá, dịch vụ. Nh vậy theo định nghĩa này, XTTM là nhằm mở rộng và phát triển
thị trờng là chủ yếu.
Theo Luật Thơng mại Việt Nam do Quốc hội khoá IX nớc CHXHCN Việt
Nam thông qua ngày 10/5/1997 thì: XTTM là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc
đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thơng mại (điều 5, khoản 5);
11
Bộ Thơng mại là cơ quan quản lý Nhà nớc về tổ chức, hớng dẫn các hoạt động
xúc tiến thơng mại (điều 245).
1.1.2 Hoạt động XTTM
Các hoạt động cụ thể trong lĩnh vực XTTM bao gồm:
- Các hoạt động thông tin thơng mại và nghiên cứu thị trờng;
- Các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, triển lãm và khuyến mại
hàng hoá và dịch vụ;
- Tổ chức và tham gia các đoàn khảo sát thị trờng nớc ngoài;
- Đón tiếp và tổ chức cho các đoàn thơng mại và thơng nhân nớc
ngoài vào khảo sát thị trờng nội địa;
- Đại diện thơng mại ở nớc ngoài.
Các hoạt động này có thể do doanh nghiệp tự tiến hành hoặc do các tổ
chức XTTM của Chính phủ, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các công ty kinh
doanh dịch vụ XTTM tiến hành để hỗ trợ doanh nghiệp, hội viên hoặc theo yêu
cầu của khách hàng. Các dịch vụ XTTM do các tổ chức hỗ trợ thơng mại cung
cấp có thể miễn phí hoặc phải trả tiền.
1.1.3 Xúc tiến xuất khẩu
Nhìn từ góc độ nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, XTTM có thể là xúc tiến
xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu và phát triển thơng mại nội địa. Nh vậy, xúc tiến
xuất khẩu có phạm vi hẹp hơn và là các hoạt động nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra thị trờng nớc ngoài. Do đó trên thực
tế, các hoạt động XTTM (nhất là các hoạt động do Chính phủ và các tổ chức hỗ
trợ thơng mại thực hiện) chủ yếu tập trung vào thúc đẩy xuất khẩu nên nhiều ng-
ời thờng quan niệm XTTM gần nh đồng nghĩa với xúc tiến xuất khẩu.
1.2 Phát triển thơng mại
12
Trong bối cảnh tự do hoá thơng mại và toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện
nay, để mở rộng, thâm nhập và giữ vững thị trờng, các doanh nghiệp không thể
chỉ tiến hành các hoạt động XTTM truyền thống (xúc tiến bán cái mà mình có
thể sản xuất và cung cấp) mà phải tiến hành tất cả các hoạt động nhằm tạo ra
những sản phẩm mà thị trờng có nhu cầu, bán đúng kênh/khách hàng tại đúng
nơi, đúng thời điểm với giá phù hợp và bằng các hình thức xúc tiến bán hàng
phù hợp. Đặc biệt đối với các nớc đang phát triển là những nớc đi sau, hoạt động
nghiên cứu thị trờng và phát triển, cải tiến sản phẩm nhằm tạo ra những sản
phẩm độc đáo mà thị trờng có nhu cầu là hết sức quan trọng để có thể thâm nhập
và mở rộng, đồng thời giữ vững đợc thị trờng kể cả trên thị trờng nội địa và xuất
khẩu.
Những hoạt động này đợc gọi chung là hoạt động phát triển thơng mại.
Nh vậy, phát triển thơng mại bao gồm các mảng hoạt động chính là phát triển
sản phẩm, phát triển thị trờng và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế. Ngoài các
công cụ XTTM phát triển thị trờng theo cách hiểu truyền thống nh trên, phát
triển thơng mại còn bao gồm các hoạt động khác nh:
- Nghiên cứu và hỗ trợ nghiên cứu thị trờng và phát triển sản phẩm nhằm
tạo ra các sản phẩm đáp ứng đúng yêu cầu thị trờng; xây dựng và quảng
bá thơng hiệu;
- Các hoạt động góp phần nâng cao sức cạnh tranh quốc tế nh: quản lý
tiêu chuẩn, chất lợng hàng hoá, áp dụng thơng mại điện tử trong kinh
doanh...;
- Các khuyến khích và hỗ trợ tài chính của chính phủ đối với xuất khẩu;
- Thuận lợi hoá môi trờng thơng mại, đàm phán và ký kết các hiệp định
thơng mại đa phơng và song phơng với các nớc để mở cửa thị trờng xuất
khẩu;
13
- Các hoạt động thu hút đầu t nớc ngoài hớng về xuất khẩu, đặc biệt là
nhằm phát triển những mặt hàng xuất khẩu mới, có giá trị gia tăng cao;
- Các hoạt động xúc tiến nhập khẩu phục vụ xuất khẩu (ví dụ nh hỗ trợ
nhập công nghệ phù hợp và nguyên phụ liệu với giá cả cạnh tranh);
- Đào tạo và phát triển nguồn lực phục vụ phát triển thơng mại.
2. Vai trò của xúc tiến thơng mại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế
2.1 XTTM là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trờng
Trên thực tế không một doanh nghiệp nào không tiến hành các hoạt động
phát triển thơng mại nói chung và XTTM nói riêng dới hình thức này hay hình
thức khác và ở mức độ này hay mức độ khác. Để có thể tồn tại và phát triển
trong cơ chế cạnh tranh, doanh nghiệp luôn phải nghiên cứu phát triển sản phẩm
đáp ứng nhu cầu thay đổi ngày càng nhanh chóng của thị trờng cũng nh tiến
hành các hoạt động quảng cáo và khuyến mại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ.
Trong bối cảnh tự do hoá thơng mại toàn cầu hiện nay, khi mà hàng hoá dịch vụ
đợc chào bán trên thị trờng rất dồi dào và phong phú và ngời mua là thợng đế
thì hàng hoá, dịch vụ dù có tốt, rẻ đến mấy mà ngời tiêu dùng không biết đến thì
cũng không thể bán đợc. Xuất phát từ những nhu cầu của doanh nghiệp, ở bất kỳ
nền kinh tế thị trờng nào cũng có các hiệp hội sản xuất và kinh doanh, các
phòng thơng mại và công nghiệp, các tổ chức và công ty dịch vụ thông tin,
nghiên cứu thị trờng, t vấn kinh doanh, t vấn pháp luật, quảng cáo, hội chợ triễn
lãm...để hỗ trợ và cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp trong các hoạt động
XTTM nói trên.
2.2 XTTM với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá
- Thông qua các dịch vụ cung cấp thông tin thơng mại, cung cấp thông
tin về chính sách pháp luật, danh mục các mặt hàng cũng nh thuế xuất nhập
khẩu đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu, các hành vi ứng xử thơng mại đối với
14
các sản phẩm mà nhà xuất khẩu xuất sang một thị trờng, các thông số về tiêu
chuẩn chất lợng sản phẩm...góp phần nâng cao hiệu quả xuất khẩu nói chung và
xuất khẩu hàng hoá nói riêng.
- Thông qua các hội chợ, triễn lãm thơng mại (cả trong nớc và quốc tế),
nơi các doanh nghiệp tham gia triển lãm trng bày hàng hoá, các thông tin t liệu
về hàng hoá và về chính doanh nghiệp mình, họ có thể giới thiệu, quảng cáo về
sản phẩm của mình nhằm mở rộng và thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá trên thị
trờng nội địa và thị trờng quốc tế; đây cũng là nơi diễn ra sự mua bán, ký kết
hợp đồng trao đổi hàng hoá giữa những cá nhân, tổ chức đến tham gia triễn
lãm...là điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu trực tiếp gặp gỡ đối tác để
đàm phán, ký hợp đồng xuất khẩu sản phẩm.
- Theo quy định của Tổ chức Thơng mại Thế giới (WTO), các chính phủ
ở các nớc thành viên có mức thu nhập bình quân đầu ngời từ 1000 USD trở lên
không đợc phép trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu (ví dụ nh trợ giá xuất khẩu),
song họ có thể trợ cấp cho hoạt động XTTM hoặc tiến hành trực tiếp một số
hoạt động XTTM để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Nh vậy trong điều kiện tự do
hoá thơng mại toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế nh hiện nay, khi mà các
hàng rào bảo hộ dần dần đợc phá bỏ thì XTTM là một biện pháp hữu hiệu để hỗ
trợ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Điều này phần nào lý giải việc ngày
càng nhiều nớc thành lập tổ chức XTTM của Chính phủ. Hiện thế giới có
khoảng 130 nớc có tổ chức này, trong đó có Cục XTTM Việt Nam.
2.3 XTTM là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại, tăng cờng địa vị kinh tế của quốc gia trên thị trờng thế giới
Trên phơng diện quốc gia, một nớc có tận dụng đựơc những cơ hội và hạn
chế đợc thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra hay không phụ thuộc chủ
yếu vào hàng hoá, dịch vụ của nớc đó có thâm nhập đợc vào thị trờng thế giới và
đứng vững trên thị trờng nội địa hay không. Do vậy, phát triển thơng mại, trong
15
đó có hoạt động XTTM sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong sự thành công
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia
Đối với các nớc đang phát triển, hoạt động XTTM, đặc biệt là xúc tiến
xuất khẩu nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu của mình trên thị tr-
ờng quốc tế là rất quan trọng vì sản phẩm của họ cha có tên tuổi, chỗ đứng trên
thị trờng thế giới. Đẩy mạnh hoạt động XTTM sẽ góp phần xây dựng đợc hình
ảnh về sản phẩm của nớc đó trên thị trờng thế giới, tăng cờng địa vị kinh tế của
quốc gia trên trờng quốc tế.
XTTM có mối quan hệ chặt chẽ với xúc tiến du lịch và xúc tiến đầu t.
Thông qua các hoạt động XTTM, các hợp đồng mua bán trao đổi sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ và công nghệ...sẽ đợc ký kết, làm gia tăng số lợng và chủng loại
hàng hoá xuất nhập khẩu, khuyến khích đầu t, tăng cờng giao lu hợp tác giữa
các quốc gia. Vì thế làm tốt công tác XTTM sẽ đẩy mạnh phát triển du lịch và
góp phần thu hút đầu t vào tăng trởng và phát triển kinh tế.
III. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con đờng hội nhập
khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFTA
1.Tổng quan về AFTA
Năm 1992, tại Hội nghị Thợng đỉnh lần thứ IV các nớc thành viên
ASEAN họp ở Singapore (27-28/1/1992), các nớc ASEAN đã ký kết Hiệp định
về Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), nhằm đẩy nhanh tiến trình hợp tác
kinh tế giữa các nớc ASEAN.
Việc hình thành AFTA là u tiên hàng đầu trong chơng trình hợp tác của
ASEAN trong thập kỷ 90. AFTA nhằm mục đích thiết lập một thị trờng khu vực
trong đó các loại thuế quan đối với 15 nhóm sản phẩm vốn cao từ khoảng 40%
đợc giảm đồng loạt ở tất cả các nớc xuống mức độ chỉ còn 0-5% vào năm 2003
(2006 cho Việt Nam, 2008 cho Lào, Myanma và 2010 cho Campuchia) và các
mối quan hệ mậu dịch sẽ không bị cản trở bởi các loại hàng rào phi quan thuế
16
(non-tariff barriers) nh các biện pháp cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hoặc thủ
tục hải quan...
Trớc những thay đổi nhanh chóng và các xu thế phát triển mới của mậu
dịch tự do khác trên thế giới- WTO, sự hình thành các khu vực mậu dịch tự do
khác trên thế giới...sau nhiều lần nghiên cứu và thay đổi, các nớc ASEAN đã
quyết định rút ngắn thời hạn thực hiện chơng trình Thuế quan u đãi hiệu lực
chung (Common Effective Preferential Tariff- CEPT) từ 15 năm xuống còn 10
năm theo đó AFTA sẽ đợc hình thành vào năm 2003. Hiện các nớc ASEAN đã
đa một danh mục bao gồm khoảng 42000 mặt hàng, chiếm khoảng 81% tổng số
các sản phẩm đã qua chế tác (manufactured goods) và nhiều sản phẩm nông sản
cha qua chế biến vào danh mục giảm thuế. Là công cụ chủ yếu của AFTA,
CEPT quy định các nớc thành viên ASEAN cùng áp dụng một biểu thuế quan
chung đối với cùng một số sản phẩm của các nớc thành viên. Thuế quan đánh
vào các mặt hàng xuất nhập khẩu đối với các nớc khác không phải là thành viên
sẽ do các nớc thành viên tự quyết.
ASEAN áp dụng phơng thức hai đờng ray (two-track approach) cho dự
án giảm thuế quan trong AFTA có nghĩa là cùng lúc tiến hành hai chơng trình
giảm thuế quan với các khung thời gian khác nhau đối với các loại mặt hàng có
biểu khung thuế khác nhau.
2. Chơng trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
Mục tiêu của CEPT là đến năm 2003 sẽ áp dụng thuế quan u đãi chung ở
mức 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lợng và tiến tới loại bỏ
hàng rào phi thuế quan trong thơng mại nội bộ giữa các nớc thành viên ASEAN.
Riêng đối với các nớc gia nhập chậm và có nền kinh tế chậm phát triển thì đợc
phép kéo dài thời gian thực hiện hơn, cụ thể là Việt Nam đợc kéo dài đến 2006,
Lào và Myanma đợc kéo dài đến năm 2008 và Campuchia đến 2010. Các sản
phẩm thực hiện giảm thuế nhập khẩu do các nớc hội viên ASEAN tự đề nghị căn
cứ vào điều kiện hoàn cảnh kinh tế của mỗi nớc.
17
Chơng trình cắt giảm thuế quan theo CEPT đợc thực hiện theo 4 danh
mục sau:
- Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL- General Exclusion List): Là danh
mục các sản phẩm không bị cắt giảm thuế và không đa vào chơng trình thực
hiện AFTA vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức
khoẻ, bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử khảo cổ.
- Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay (IL-Inclusion List):Gồm các
sản phẩm sẵn sàng cắt giảm thuế quan với lịch trình thống nhất và đợc phân bố
theo hai lộ trình: lộ trình cắt giảm bình thờng (normal track) và lộ trình cắt giảm
nhanh (fast track).
+ Lộ trình cắt giảm bình thờng đợc thực hiện nh sau: Đối với các
sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ đợc giảm xuống 20% vào thời
điểm1/1/1998 và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào thời điểm 1/1/2000.
Đối với các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ đợc giảm
xuống mức 0-5% vào thời điểm 1/1/2000.
+Lộ trình cắt giảm nhanh thực hiện nh sau: Đối với các sản phẩm
có thuế suất trên 20% sẽ đợc giảm xuống 0-5% vào thời điểm 1/1/2000.
Đối với các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ đợc giảm
xuống mức 0-5% vào thời điểm 1/1/1998.
- Danh mục loại trừ tạm thời (TEL- Temporary Exclusion List): Các sản
phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời cha giảm thuế và sẽ không đợc hởng nh-
ợng bộ từ các nớc thành viên. Tuy nhiên danh mục này chỉ có tính chất tạm thời
và sau một thời gian nhất định các quốc gia phải đa toàn bộ các sản phẩm này
vào danh mục giảm thuế.
Lịch trình chuyển các sản phẩm trong danh mục này danh mục cắt giảm
cần đợc thực hiện trong vòng 5 năm, từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển
18
20% số sản phẩm trong danh mục TEL và giảm thuế xuống mức 0-5% vào năm
2003.
- Danh mục sản phẩm nông sản cha chế biến hay nhạy cảm (Sensitive):
Các quy định cụ thể về lịch trình giảm thuế quan cho các sản phẩm nhạy cảm
cho đến nay vẫn đang trong quá trình thoả thuận. Tuy nhiên đối với các sản
phẩm trong danh mục nhạy cảm, thời điểm bắt đầu thực hiện cắt giảm đã đợc
xác định là 1/1/2001 và kết thúc vào năm 2010 với mức thuế suất phải đạt là
0-5%. Đối với các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm cao, thời hạn kết thúc đã
đựơc xác định là năm 2010, tuy nhiên sẽ có một số linh hoạt nhất định sẽ đợc áp
dụng liên quan đến mức thuế suất kết thúc, các biện pháp tự phòng vệ, phòng
ngừa bất trắc...
CEPT, khi hoàn tất vào năm 2003, về cơ bản sẽ bao gồm 98% dòng thuế
của ASEAN vào năm 2003; chỉ còn lại khoảng 1% thuộc diện loại trừ và một số
sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm đợc gia hạn đến 2010.
3. Cơ chế trao đổi nhợng bộ của kế hoạch CEPT
Một sản phẩm khi xuất khẩu sang các nớc trong nội bộ ASEAN, muốn đ-
ợc hởng chế độ u đãi thuế quan trong nội bộ ASEAN theo chơng trình CEPT, thì
phải đồng thời thoả mãn các điều kiện sau:
a) Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm thuế của các nớc
xuất khẩu và nhập khẩu;
b) Sản phẩm đó phải có chơng trình giảm thuế đợc hội đồng AFTA thông
qua;
c) Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN tức là phải thoả
mãn yêu cầu hàm lợng xuất xứ từ các nớc thành viên ASEAN (hàm lợng
nội địa) ít nhất là 40%.
Công thức 40% hàm lợng ASEAN đợc xác định nh sau:
19
Giá trị nguyên vật liệu,
bộ phận, các sản phẩm là
đầu vào nhập khẩu từ nớc
không phải là ASEAN
+
Giá trị nguyên vật
liệu, bộ phận, các sản
phẩm là đầu vào
không xác định đợc
xuất xứ
x100% <60%
Giá FOB
Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ
các nớc không phải là thành viên ASEAN là giá CIF tại thời điểm nhập khẩu.
Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào không xác định đợc
xuất xứ là giá xác định ban đầu trớc khi đa vào chế biến trên lãnh thổ của nớc
xuất khẩu là thành viên của ASEAN.
Để xây dựng thành công khu mậu dịch tự do, Chơng trình CEPT còn đề
cập đến việc loại bỏ hạn chế về số lợng nhập khẩu và các hàng rào phi thuế
quan khác. Về vấn đề này, Hiệp định CEPT đã quy định:
- Các nớc thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lợng đối với các
sản phẩm trong CEPT ngay khi sản phẩm đó đợc hởng thuế suất u đãi ở
mức 0-5%;
- Các hàng rào phi thuế quan khác sẽ đợc xoá bỏ dần dần trong vòng 5
năm sau khi sản phẩm đợc hởng u đãi;
- Trong trờng hợp khẩn cấp (số lợng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột
hay phơng hại đến sản xuất trong nớc hoặc đe doạ cán cân thanh toán),
các nớc có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng
việc nhập khẩu.
4.Hợp tác trong lĩnh vực hải quan
Việc phối hợp các hoạt trong lĩnh vực hải quan là khâu khá quan trọng
trong tiến trình thực hiện CEPT/AFTA. Nội dung của hợp tác này bao gồm:
20
(1) Thực hiện thống nhất phơng pháp định giá tính thuế hải quan
giữa các nớc ASEAN;
(2) Thực hiện thống nhất các thủ tục hải quan,
(3) Xây dựng hệ thống hành lang xanh,
(4) Thực hiện áp dụng thống nhất danh mục biểu thuế quan.
5. Tiến trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nớc ASEAN từ ngày 28/7/1995 và bắt
đầu thực hiện chơng trình u đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) từ
1/1/1996, chơng trình này kết thúc vào 1/1/2006. Do trình độ phát triển kinh tế
của Việt Nam còn thấp so với một số nớc trong khu vực, năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp, của nhiều ngành sản xuất và dịch vụ còn yếu... và thuế
nhập khẩu vẫn còn là một trong những nguồn thu cho ngân sách, nên chơng
trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam đựơc xây dựng dựa trên những nguyên
tắc chính sau:
1. Không gây ảnh hởng lớn đến nguồn thu ngân sách;
2. Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nớc;
3. Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công
nghệ cho nền sản xuất trong nớc;
4. Hợp tác với các nớc ASEAN trên cơ sở các quy định của Hiệp định
CEPT để tranh thủ u đãi, mở rộng thị trờng cho xuất khẩu và thu hút
đầu t nớc ngoài.
Có thể kể ra đây một số việc mà Việt Nam đã thực hiện:
(1)Xây dựng chơng trình cắt giảm thuế quan
Dựa theo 4 nguyên tắc nêu trên, tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ
trình 4 danh mục hàng hoá theo quy định của Hiệp định CEPT nh sau:
21
(a)Danh mục loại trừ hoàn toàn: bao gồm những mặt hàng có ảnh hởng
đến an ninh quốc gia sức khoẻ con ngời, giá trị đạo đức, lịch sử nghệ thuật khảo
cổ...nh theo quy định của Hội đồng AFTA. Ngoài ra Việt Nam còn đa vào danh
mục loại trừ hoàn toàn một số mặt hàng mà hiện Việt Nam đang phải nhập từ
các nớc ASEAN song lại không có khả năng xuất khẩu, hoặc một số mặt hàng
hiện đang có thuế suất cao trong biểu thuế nhập khẩu nh ôtô dới 16 chỗ ngồi,
ôtô tay lái nghịch, chất phế thải, các loại xăng dầu (trừ dầu thô Việt Nam đang
xuất khẩu), đồ dùng đã qua sử dụng...
(b)Danh mục loại trừ tạm thời: Danh mục này đựơc xây dựng theo quy
định của CEPT và quy hoạch phát triển đến năm 2010 của các ngành kinh tế
trong nớc, nhằm bảo hộ một số ngành đang có tiềm năng phát triển, đồng thời
không gây ảnh hởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Danh mục này chủ yếu gồm
các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng có thuế suất thấp hơn
20% song cần đợc bảo hộ nh các loại xe máy, ôtô (trừ loại 16 chỗ ngồi đã nằm
trong doanh nghiệpah mục loại trừ hoàn toàn), các loại sắt thép, sản phẩm cơ khí
thông dụng, các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu...
Theo quy định của Hội đồng AFTA thì những mặt hàng nào đa vào chơng
trình cắt giảm thuế và đợc hởng thuế suất u đãi từ các thành viên khác thì đồng
thời phải loại bỏ hàng rào phi thuế quan trong vòng 5 năm sau đó. Do vậy mặt
hàng nào đợc đa vào danh mục tạm thời thì sẽ có thêm thời gian để bảo hộ thông
qua việc kéo dài thời gian thực hiện các biện pháp phi thuế quan.
Cũng theo quy định của CEPT thì các mặt hàng thuộc danh mục TEL này
cần phải đợc chuyển sang danh mục cắt giảm thuế (IL) trong vòng 5 năm, sao
cho đến thời hạn năm 2006 chúng cũng phải đạt mức thuế quan u đãi chung từ
0-5%
(c) Danh mục cắt giảm thuế: Danh mục này chủ yếu bao gồm các mặt
hàng hiện đang có thuế suất dới 20%, tức là các mặt hàng thuộc diện
có thể áp dụng u đãi ngay theo Hiệp định CEPT. Ngoài ra tròn danh
22
mục này còn bao gồm một số mặt hàng hiện có thuế suất cao nhng
Việt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu, do vậy việc đa các mặt hàng
này vào danh mục giảm thuế sẽ không gây ảnh hởng nhiều đến nguồn
thu ngân sách, ngợc lại nó sẽ kích thích đẩy mạnh xuất khẩu thông
qua việc đợc hởng thuế u đãi theo CEPT, khi hàng Việt Nam xuất qua
các nớc thành viên.
(d)Danh mục nông sản cha chế biến nhạy cảm: bao gồm các mặt hàng
nông sản cha chế biến có yêu cầu bảo hộ cao nh: các loại thịt, trứng, gia cầm,
động vật sống, thóc gạo lức, đờng, mía...các mặt hàng này hiện đang áp dụng
các biện pháp phi thuế quan nh quản lý theo hạn ngạch, quản lý Bộ chuyên
ngành...
(2) Thực hiện giảm thuế
Dựa theo sự phân loại danh mục hàng hoá nh trên, tiến trình cắt giảm thuế
của Việt Nam đã đợc tiến hành nh sau: Trong hai năm đầu 1996, 1997 Việt Nam
cha thực hiện việc cắt giảm thuế mà chỉ đa 875 danh mục các mặt hàng có thuế
nhập khẩu từ 0-5% vào danh sách giảm thuế, đáp ứng một cách tự nhiên yêu cầu
giảm thuế nhanh của CEPT, còn chơng trình giảm thuế bình thờng chỉ đợc bắt
đầu thực hiện kể từ 1/1/1998. Các bớc đi thận trọng này giúp cho Việt Nam có
thêm thời gian cải tiến hệ thống thuế nội địa nhằm đảm bảo nguồn thu ngân
sách và góp phần bảo hộ các nện kinh tế còn non trẻ của chúng ta.
Nh vậy, từ đầu năm 1998 Việt Nam mới thực hiện những bớc cắt giảm
thuế đầu tiên theo Nghị định 15/1998/NĐ-CP ngày 12/3/1998. Theo Nghị định
này trong năm 1998 chúng ta đã đa thêm 1161 mặt hàng vào danh mục giảm
thuế. Sang năm 1999 theo Nghị định 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 Việt Nam
đã nâng danh mục các mặt hàng giảm thuế lên đến 3590 mặt hàng. Và trong
năm 2000, với nghị định 09/2000/NĐ-CP, trong năm 2000 có thêm 640 dòng
thuế từ danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời sang danh mục giảm thuế, nh
23
vậy có 4230/6200 dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu đợc đa vào danh mục cắt
giảm thuế.
Tính đến tháng 6/2002, Việt Nam đã đa vào diện cắt giảm 5500 mặt
hàng, nghĩa là gần 90% tổng số các mặt hàng mà Việt nam cam kết cắt giảm
thuế nhập khẩu đã đợc cắt giảm với thuế suất 0-20%, trong đó khoảng 2/3 có
mức thuế suất 0-5%. Đến năm 2003, Việt Nam đa gần 80 mặt hàng còn lại (chủ
yếu là các mặt hàng thuộc nhóm có mức bảo hộ cao) vào diện cắt giảm, với mức
thuế suất chỉ bằng hoặc thập hơn 20%.
6. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập
Hội nhập kinh tế nói chung và gia nhập khu vực thơng mại tự do ASEAN
đa đến cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển đồng thời cũng đặt ra cho Việt
Nam không ít thách thức phải giải quyết, có thể kể ra sau đây một số điểm
chính:
(1) Cơ hội của Việt Nam
- Tham gia AFTA/ASEAN Việt Nam sẽ đợc hởng thuế suất xuất nhập
khẩu u đãi CEPT thấp của các nớc ASEAN, giúp các doanh nghiệp Việt Nam
giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng cờng khả năng cạnh tranh về giá hàng
hoá, dịch vụ, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và phát triển sản xuất
nói chung.
- Tham gia AFTA/ASEAN Việt Nam sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu t nớc
ngoài không chỉ từ nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đặc biệt, với sự phối hợp
các chơng trình hợp tác khác trong ASEAN nh hợp tác công nghiệp ASEAN-
AICO, hợp tác dịch vụ ASEAN...,các doanh nghiệp trong nớc của Việt Nam có
cơ hội tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ sản xuất mới tiên tiến, góp phần
tăng cờng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trờng trong nớc
và thế giới.
24
- Việt Nam tham gia AFTA là bớc tập dợt để chuẩn bị cho việc hội nhập
sâu, rộng hơn vào thị trờng quốc tế, đó là gia nhập tổ chức thơng mại thế giới
WTO.
- Trong khi hầu hết các thành viên ban đầu trừ Indonesia, đã mất lợi thế
so sánh trong các ngành công nghiệp tập trung lao động thì VIệt Nam lại đang
có lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực rẻ và thị trờng nội
địa khá lớn. Đơng nhiên khi khuynh hớng phát triển kinh tế của nhân loại, kể cả
các nớc thành viên ban đầu của ASEAN là hớng tới xây dựng phát triển nền
kinh tế triển nền kinh tế tri thức. Việc phát triển một nền công nghiệp dựa trên
tài nguyên và sức lao động không phải là mục tiêu mà Việt Nam cần hớng tới,
nhng sẽ là sai lầm khi bỏ qua những lợi thế so sánh của nớc mình để chỉ nghĩ tới
việc xây dựng kinh tế tri thức khi cha có đủ điều kiện cần thiết.
(2) Thách thức đặt ra
- Khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nớc còn yếu (về giá
cả, chất lợng, mẫu mã) do quy mô sản xuất còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, năng
suất lao động thấp, công tác quản lý kém hiệu quả.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nông sản cha qua chế
biến, mà đây là những mặt hàng giảm thuế chậm, trong khi đó hàng công
nghiệp, xuất nguyên liệu là những mặt hàng giảm thuế nhanh lại là sản phẩm
xuất khẩu của các nớc AFTA khác và là sản phẩm nhập khẩu của Việt Nam, vì
vậy nếu Việt Nam không có biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm
của mình thì sẽ không đủ sức để cạnh tranh với hàng hoá ASEAN thì việc hội
nhập này sẽ khiến cho Việt Nam trở thành thị trờng tiêu thụ cho các nớc
ASEAN.
- Khả năng tự lập của các doanh nghiệp Việt Nam còn bị ảnh hởng của sự
bao cấp, nhiều doanh nghiệp cha có chiến lợc kinh doanh cũng nh tìm kiếm thị
trờng cho đầu ra của sản phẩm còn bị hạn chế, đó là còn cha kể đến sự hiểu biết
về hội nhập của doanh nghiệp còn rất hạn chế.
25