Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Tài liệu luận văn Tính Ổn Định Của Bộ Ba Bất Khả Thi Tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 66 trang )

 

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------

LƯU THỊ THANH TUYỀN

TÍNH ỔN ĐỊNH CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI
TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 04 NĂM 2013

 


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------

LƯU THỊ THANH TUYỀN

TÍNH ỔN ĐỊNH CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 04 NĂM 2013


TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 04 NĂM 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Tp.HCM, ngày 25 tháng 04 năm 2013

NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. Họ và tên học viên: LƯU THỊ THANH TUYỀN

Cao học khóa 19

2. Mã ngành: 60340201
3. Đề tài nghiên cứu: Tính ổn định của bộ ba bất khả thi tại Việt Nam
4. Họ và tên người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO
5. Nhận xét: (Kết cấu luận văn, phương pháp nghiên cứu, những nội dung (đóng
góp) của đề tài nghiên cứu, thái độ làm việc của học viên).
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
6. Kết luận: ...................................................................................................................
7. Điểm đánh giá: (…..điểm/10 điểm).


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế: “Tính ổn định của bộ ba bất khả thi tại
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi với sự hướng dẫn của Tiến sĩ
Nguyễn Khắc Quốc Bảo. Số liệu thống kê được lấy từ nguồn gốc tin cậy, nội dung
và kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công bố trong bất cứ cơng
trình hay bài báo nào cho tới thời điểm hiện nay.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25 Tháng 04 Năm 2013
Học viên thực hiện

Lưu Thị Thanh Tuyền


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin gửi lời cám ơn chân thành đến Thầy
hướng dẫn khoa học, TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo về những ý
kiến đóng góp chân thành, những chỉ dẫn tận tình có giá trị
khoa học giúp tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cám ơn đến gia đình và bạn bè đã chia

sẻ kinh nghiệm, tài liệu, góp ý, hết lịng ủng hộ và động viên
tác giả trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25 Tháng 04 Năm 2013
Học viên

Lưu Thị Thanh Tuyền


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
− GDP:

Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

− IR:

Dự trữ ngoại hối

− KAOPEN:

Độ mở thị trường tài chính

− L-MF:

Lane và Milesi-Ferretti

− NHNN:

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

− NON-EMG DA: Các nước phát triển nhưng không phải là mới nổi ở Châu Á



DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1: Mức độ ổn định tỷ giá hối đoái của Việt Nam Si,t giai đoạn 2001-2011
Bảng 4.2: Mức độ hội nhập tài chính của Việt Nam Fi,t giai đoạn 2001-2011
Bảng 4.3: Mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam Mi,t giai đoạn 2001-2011
Bảng 4.4: Giá trị chuẩn vector điều chỉnh (ni,t) theo phương pháp đo lường mới tại
Việt Nam giai đoạn 2001-2011
Bảng 4.5: Giá trị chuẩn vector điều chỉnh (n’i,t) theo phương pháp Shambaugh
(2004) tại Việt Nam giai đoạn 2001-2011
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định: giá trị trung bình chuẩn vector của các hình mẫu
Bảng 4.7: Kết quả xác định hình mẫu chính sách vĩ mơ của Việt Nam
Bảng 4.8: Chỉ số bộ ba bất khả thi và tỷ lệ dự trữ ngoại hối so với GDP của Việt
Nam trong giai đoạn 2001-2011
Bảng 4.9: Kết quả hồi quy sự ổn định của chính sách kinh tế vĩ mô tại Việt Nam


DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tam giác bộ ba bất khả thi
Hình 4.1: Mức độ ổn định tỷ giá của Việt Nam và nhóm các nước đang phát triển
nhưng khơng phải là mới nổi ở Châu Á (NON-EMG DA).
Hình 4.2: Biên độ dao động (%) tỷ giá VND/USD
Hình 4.3: Mức độ hội nhập tài chính của Việt Nam và nhóm các nước đang phát
triển nhưng không phải là mới nổi ở Châu Á (NON-EMG DA).
Hình 4.4: Mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam và nhóm các nước đang phát triển
nhưng không phải là mới nổi ở Châu Á (NON-EMG DA).
Hình 4.5: Lãi suất của Mỹ và Việt Nam giai đoạn 2001-2011
Hình 4.6: Chỉ số bộ ba bất khả thi tại nhóm các quốc gia đang phát triển nhưng
khơng mới nổi ở châu Á (NON-EMG DA)
Hình 4.7: Bộ ba bất khả thi Việt Nam theo phương pháp đo lường của Chinn-Ito

Hình 4.8: Bộ ba bất khả thi Việt Nam theo phương pháp đo lường mới
Hình 4.9: Sự thay đổi của chính sách điều hành bộ ba bất khả thi tại Việt Nam trong
giai đoạn 2001-2011
Hình 4.10: Chuẩn vector tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2011
Hình 4.11: Chuẩn vector tại các quốc gia Đơng Á và Thái Bình Dương
Hình 4.12: Số lượng quốc gia thuộc các loại hình mẫu
Hình 4.13: Giá trị chuẩn vector của các loại hình mẫu


Hình 4.14: Kết quả phân loại hình mẫu chính sách vĩ mô của các quốc gia theo đánh
giá của H.Popper, A.Mandilaras và G.Bird (2011)
Hình 4.15: Dự trữ ngoại hối của các quốc gia đang phát triển nhưng không mới nổi
châu Á (NON-EMG DA) trong giai đoạn 2001-2011
Hình 4.16: Tỷ lệ dự trữ ngoại hối so với GDP của nhóm các quốc gia đang phát
triển nhưng không mới nổi châu Á (NON-EMG DA) trong giai đoạn 2001-2011
Hình 4.17: Mơ hình kim cương của các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á


MỤC LỤC
Tóm tắt ------------------------------------------------------------------------------------------------01
Lời giới thiệu -----------------------------------------------------------------------------------------02
1. Mục tiêu nghiên cứu ---------------------------------------------------------------------------------04
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây -------------------------------------------------------------06
2.1 Các nghiên cứu về sự phát triển lý thuyết bộ ba bất khả thi ------------------------------06
2.2 Các nghiên cứu về phương pháp đo lường chỉ số bộ ba bất khả thi ---------------------09
2.3 Các nghiên cứu về chính sách điều hành bộ ba bất khả thi -------------------------------12
2.4 Các nghiên cứu về dự trữ ngoại hối ----------------------------------------------------------14
3. Phương pháp nghiên cứu ----------------------------------------------------------------------------17
3.1 Độ ổn định của tỷ giá ---------------------------------------------------------------------------18
3.2 Độ mở thị trường tài chính --------------------------------------------------------------------20

3.3 Mức độc lập trong chính sách tiền tệ --------------------------------------------------------21
3.4 Đo lường tính ổn định của chính sách kinh tế vĩ mô ---------------------------------------22
4. Nội dung và kết quả nghiên cứu -------------------------------------------------------------------26
4.1 Đo lường các chỉ số trong bộ ba bất khả thi tại Việt Nam ---------------------------------26
4.1.1 Độ ổn định của tỷ giá hối đoái (Si,t) -----------------------------------------------26
4.1.2 Tự do hóa của thị trường tài chính (Fi,t) ------------------------------------------29
4.1.3 Mức độ độc lập trong chính sách tiền tệ (Mi,t) ----------------------------------30
4.1.4 Bộ ba bất khả thi tại Việt Nam giai đoạn 2001-2011 --------------------------33
4.2 Đo lường tính ổn định của chính sách kinh tế vĩ mơ tại Việt Nam -----------------------36
4.3 Xác định hình mẫu chính sách vĩ mơ của Việt Nam ---------------------------------------40
4.4 Tác động của dự trữ ngoại hối đến chính sách điều hành bộ ba bất khả thi tại Việt
Nam trong giai đoạn 2001-2011 --------------------------------------------------------------------47
5. Kết luận ------------------------------------------------------------------------------------------------52
Tài liệu tham khảo ----------------------------------------------------------------------------------------53


1

TĨM TẮT
Có nhiều phương pháp để đo lường các chỉ số bộ ba bất khả thi và cách đo lường của
Aizenman, Chinn và Ito (2008) là phổ biến nhất. Tuy nhiên phương pháp này cũng cịn
có sự hạn chế khi đo lường đối với một số quốc gia.
Đề tài này đã sử dụng phương pháp mới để đo lường lại các chỉ số trong bộ ba bất khả
thi, xem xét tính ổn định cũng như hình mẫu chính sách kinh tế vĩ mô tại Việt Nam
trong giai đoạn 2001-2011. Kết quả đo lường bằng phương pháp mới của các chỉ số
trong bộ ba bất khả thi tại Việt Nam cho giai đoạn này đã cho thấy có sự khác biệt rõ
nét so với phương pháp đo lường đã được Chinn-Ito công bố. Khi xem xét chuẩn vector
được điều chỉnh biểu trưng cho tính ổn định của chính sách bộ ba bất khả thi tại Việt
Nam trong giai đoạn này đã cho kết quả rất cao và hình mẫu của chính sách kinh tế vĩ
mô tại Việt Nam khi được đo lường lại cũng khác với sự phân loại của H.Popper,

A.Mandilaras và G.Bird (2011).

Từ khóa: bộ ba bất khả thi (trilemma), tính ổn định (stability), hình mẫu vĩ mơ
(macroeconomic archetypes)


2

LỜI GIỚI THIỆU
Việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của các quốc gia dựa vào nguyên lý của bộ
ba bất khả thi là ln phải có sự đánh đổi trong việc lựa chọn chính sách khi khơng thể
đồng thời cùng một lúc có được sự ổn định trong tỷ giá hối đối, độc lập trong tiền tệ
và hồn tồn tự do hóa tài chính. Vì vậy, lý thuyết bộ ba bất khả thi rất phổ biến trong
kinh tế học và được rất nhiều nhà khoa học xem xét, phát triển và sử dụng trong rất
nhiều nghiên cứu về chính sách kinh tế vĩ mơ trên thế giới.
Trong giai đoạn 2001-2011 đã xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và đã tác
động rất mạnh đến các nền kinh tế trên thế giới, các quốc gia đã có những sự lựa chọn
khác nhau trong việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. Trong giai đoạn này, Việt
Nam đã hành xử với bộ ba bất khả thi như thế nào? Chính sách kinh tế vĩ mơ của Việt
Nam có ổn định với hình mẫu đã lựa chọn hay không?
Phần 2 của đề tài này là các tổng quan nghiên cứu về lý thuyết bộ ba bất khả thi, các
phương pháp đo lường các chỉ số cũng như chính sách điều hành của bộ ba bất khả thi
trên thế giới. Bên cạnh đó cũng xem xét các nghiên cứu về dự trữ ngoại hối, đặc biệt
cho các quốc gia đang phát triển.
Để đo lường các chỉ số bộ ba bất khả thi cho Việt Nam, phần 3 của đề tài này giới thiệu
về phương pháp đo lường mới của Hiro Ito và Masahiro Kawai (2012) cho mức độ ổn
định tỷ giá và hội nhập tài chính, cịn đối với chỉ số độc lập tiền tệ sẽ sử dụng theo
phương pháp mới của H.Popper, A.Mandilaras và G.Bird (2011) để có sự so sánh với
bộ chỉ số đã được công bố bởi Chinn và Ito cho Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001
đến năm 2011. Bên cạnh đó, cũng sử dụng mơ hình ước lượng của H.Popper,

A.Mandilaras và G.Bird (2011) để xem xét tính ổn định của chính sách điều hành bộ ba
bất khả thi qua thời gian, xác định hình mẫu của chính sách vĩ mơ cũng như sự tác


3

động của dự trữ ngoại hối lên tính ổn định của chính sách vĩ mơ tại Việt Nam trong
giai đoạn khảo sát.
Phần 4 của đề tài này là các kết quả nghiên cứu do tác giả tính tốn để có thể xem xét
rõ hơn về tính ổn định của chính sách kinh tế vĩ mô tại Việt Nam trong giai đoạn 20012011 dựa vào các chỉ số bộ ba bất khả thi đã được đo lường theo phương pháp mới.
Việc xem xét phân loại hình mẫu chính sách cũng phản ánh được tính ổn định của
chính sách điều hành bộ ba bất khả mà Việt Nam đang áp dụng. Từ đó có thể thấy
được mục tiêu mà Việt Nam cần theo đuổi để có được sự hiệu quả và ổn định lâu dài
cho chính sách kinh tế vĩ mơ.


4

1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Điều hành chính sách kinh tế vĩ mơ ln là thách thức đối với chính phủ của mỗi quốc
gia. Việc theo đuổi mục tiêu nào cho phù hợp với từng thời kỳ ở mỗi quốc gia là hoàn
toàn khác nhau. Theo bộ ba bất khả thi trong kinh tế học cổ điển, một quốc gia không
thể đạt được đồng thời cả ba mục tiêu: tỷ giá hối đối ổn định, tự do hóa thị trường vốn
và chính sách tiền tệ độc lập. Mỗi quốc gia khi điều hành chính sách vĩ mơ ln phải
đánh đổi các mục tiêu này. Bộ ba bất khả thi cho chúng ta thấy rằng, các quốc gia cần
phải lựa chọn, tuy nhiên các bằng chứng lịch sử trong thời gian vừa qua cho thấy
khơng có sự lựa chọn nào là cuối cùng. Việc lựa chọn một chính sách điều hành bộ ba
bất khả thi phù hợp cho một quốc gia luôn là sự quan tâm và thách thức đối với chính
phủ các nước.
Trong giai đoạn 2001 đến 2011 đã xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu vào năm

2008, các quốc gia trên thế giới đã phải tìm mọi cách để vượt qua cuộc khủng hoảng
này. Sau năm 2008 chính sách vĩ mơ của các quốc gia có sự thay đổi trong bộ ba bất
khả thi sao cho phù hợp hơn với nền kinh tế đang trong giai đoạn khó khăn này. Cấu
trúc của bộ ba bất khả thi của các quốc gia trên thế giới dường như bị phá vỡ sau cuộc
khủng hoảng. Tính chất ổn định của việc điều hành chính sách vĩ mơ mà các nước lựa
chọn cũng có sự thay đổi rõ nét qua thời gian. Sự kết hợp của các chỉ số trong bộ ba bất
khả thi đã tạo nên các kiểu hình mẫu cho chính sách vĩ mơ quốc tế. Mỗi quốc gia có thể
lựa chọn cho mình một loại hình mẫu chính sách khác nhau tùy theo tình hình kinh tế
vĩ mơ của mỗi nước.
Từ những nghiên cứu trước đây kết hợp với đo lường thực tiễn, mục tiêu nghiên cứu
của đề tài này nhằm đo lường các chỉ số của bộ ba bất khả thi tại Việt Nam trong giai
đoạn từ năm 2001 đến 2011 theo cách tiếp cận mới của H.Popper, A.Mandilaras và
G.Bird (2011) và Hiro Ito và Masahiro Kawai (2012). Dựa trên phương pháp đo lường


5

mới của bộ ba bất khả thi để xem xét tính ổn định của hình mẫu vĩ mơ (macroeconomic
archetypes) tại Việt Nam. Bên cạnh đó cũng xác định hình mẫu lựa chọn trong điều
hành chính sách bộ ba bất khả thi tại Việt Nam trong giai đoạn trên.


6

2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Nền kinh tế tài chính thế giới trong giai đoạn kể từ khi chế độ Bretton Woods sụp đổ
vào năm 1973 đã trải qua nhiều biến động mạnh như cuộc khủng hoảng nợ ở Mexico
năm 1982, mở đầu cho hàng loạt các cuộc khủng hoảng nợ tại các nước đang phát triển
vào những năm 1980. Sau đó là đến cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 19971998 và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008. Đã có rất nhiều nhà
kinh tế học nghiên cứu, phát triển và hồn thiện các học thuyết kinh tếđể có thể vận

dụng hiệu quả hơn cho việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của các nước trên thế
giới. Một trong những lý thuyết phổ biến là bộ ba bất khả thi trong kinh tế học và đã có
rất nhiều các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này để có thể tìm hiểu, phân tích và đánh
giá rõ hơn tình hình kinh tế tài chính của các quốc gia trên thế giới.
2.1. Các nghiên cứu về sự phát triển lý thuyết bộ ba bất khả thi
Đầu tiên là Robert Mundell và Marcus Fleming (1963) đã xây dựng nên mơ hình
Mundell-Fleming, đó là sự mở rộng của nền tảng lý thuyết IS-LM khi có tính đến tác
động của cán cân thanh tốn. Mơ hình Mundell-Fleming đã đặt nền tảng cho lý thuyết
bộ ba bất khả khi cho rằng với việc giả định nguồn vốn được chu chuyển hồn hảo,
chính sách tài khóa phát huy hiệu quả cao trong cơ chế tỷ giá cố định và chính sách
tiền tệ có tác dụng mạnh dưới chế độ tỷ giá thả nổi. Điều này có thể hiểu rằng nếu chu
chuyển vốn là hồn hảo thì chính sách tiền tệ hồn tồn khơng có hiệu lực nếu chính
phủ theo đuổi mục tiêu ổn định tỷ giá nhưng sẽ có hiệu lực cao nếu chính phủ thả nổi
tỷ giá.
Trong khi nghiên cứu tác động của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đối với
việc gia tăng sản lượng quốc gia trong mơ hình IS-LM, Jame Meade (1951) và Jan
Tinbergen (1952) đã cố gắng để đưa các yếu tố nước ngồi vào mơ hình này nhưng vẫn


7

chưa thể trở thành một mô lý thuyết vững chắc. Dựa vào lý thuyết này, các nhà kinh tế
học như Krugman (1979) và Frankel (1999) đã phát triển lên thành lý thuyết bộ ba bất
khả thi. Lý thuyết bộ ba bất khả thi được phát biểu như một định đề: một quốc gia
không thể đồng thời đạt được cùng lúc ổn định tỷ giá, hội nhập tài chính và độc lập tiền
tệ. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được bằng một chế độ tỷ giá tương ứng
nhưng phải từ bỏ mục tiêu chính sách cịn lại. Từ đó, bộ ba bất khả thi đã trở thành lý
thuyết rất phổ biến trong kinh tế học, và minh họa như sau:

Nguồn: Sách Tài Chính Quốc Tế (2011)

Hình 2.1: Tam giác bộ ba bất khả thi
Mỗi cạnh của tam giác lần lượt thể hiện độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá và hội nhập tài
chính. Đỉnh trên cùng của tam giác được gọi là “thị trường vốn đóng” đó là sự kết hợp
của độc lập tiền tệ hồn tồn và tỷ giá hối đối cố định nhưng đổi lại phải đóng cửa thị
trường tài chính, đó là lựa chọn ưa thích của các quốc gia đang phát triển trong nữa
cuối những năm 1980.


8

Tồn cầu hóa đang trở thành xu hướng chung của thế giới, vì thế trong suốt hơn 20
năm qua, hầu hết các nước đang phát triển ngày càng gia tăng mức độ hội nhập tài
chính. Điều này có nghĩa là một quốc gia hoặc phải từ bỏ sự ổn định tỷ giá nếu muốn
duy trì mức độ độc lập tiền tệ, hoặc phải từ bỏ độc lập tiền tệ nếu muốn duy trì ổn định
tỷ giá. Tuy nhiên, Frankel (1999) cũng cho rằng một quốc gia vẫn có thể lựa chọn cơ
chế tỷ giá bán ổn định và chính sách tiền tệ bán độc lập. Và lý thuyết bộ ba bất khả thi
không thể ngăn cản một quốc gia theo đuổi cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý, tỷ giá cố
định có thể điều chỉnh hay bất cứ tỷ giá trung gian nào. Bên cạnh đó, khơng có bất kỳ
một chế độ tiền tệ nào là tốt nhất cho tất cả các quốc gia và ngay cả trong chính quốc
gia đó cũng khơng có một chính sách tiền tệ duy nhất nào phù hợp cho mọi thời kỳ.
Một quốc gia có thể có những phối hợp các mục tiêu chính sách khác nhau mà khơng
phải bắt buộc chấp nhận sự đánh đổi hoàn toàn như trong tam giác của bộ ba bất khả
thi kinh điển mà có thể lựa chọn để thực hiện một cơ chế trung gian của ba mục tiêu
chính sách.
Yigang và Tangxian (2001) tiếp tục phát triển lý thuyết bộ ba bất khả thi của MundellFleming và đưa lên thành thuyết tam giác mở rộng. Nền tảng của thuyết này là những
quan niệm mới về độc lập trong chính sách và ổn định tỷ giá. Bộ ba bất khả thi của
Mundell-Fleming cho rằng một quốc gia khơng thể có một chính sách tỷ giá bán ổn
định và chính sách tiền tệ bán độc lập. Tam giác bất khả thi này chỉ tập trung đến các
cơ chế tỷ giá nằm ở các đỉnh của tam giác mà chưa đề cập đến một cơ chế trung gian
nằm đâu đó trong tam giác bất khả thi. Yigang và Tangxian (2001) đã mở rộng mơ

hình này và đưa ra kết luận rằng một quốc gia có thể có những phối hợp mục tiêu khác
nhau và không bắt buộc phải chấp nhận sự đánh đổi hoàn toàn như tam giác bất khả thi
của Mundell-Fleming.


9

2.2. Các nghiên cứu về phương pháp đo lường chỉ số bộ ba bất khả thi
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm về đo lường các chỉ số của bộ ba bất khả
thi. Việc đo lường tính ổn định của tỷ giá hối đoái và độ mở tài chính khá dễ dàng. Tuy
nhiên, việc đo lường tính độc lập của chính sách tiền tệ gặp nhiều khó khăn hơn.
Nhiều nghiên cứu đo lường tính ổn định của tỷ giá hối đoái bằng cách sử dụng độ lệch
tiêu chuẩn của biến động tỷ giá hối đoái của quốc gia chủ nhà và quốc gia cơ sở. Giống
nhiều nghiên cứu khác, Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã đo lường tính ổn định của tỷ
giá hối đoái hàng năm bằng cách sử dụng độ lệch chuẩn hàng tháng của tỷ giá hối đoái
dựa trên quốc gia cơ sở. Aizenman và các cộng sự cũng đã áp dụng phương pháp độ
lệch tiêu chuẩn để đo sự ổn định của các đồng tiền của các quốc gia nằm trong dải băng
hẹp. Các quốc gia cơ sở bao gồm Úc, Bỉ, Pháp, Đức, Ấn Độ, Malaysia, Nam Phi, Anh
và Mỹ.
Đo lường độ mở tài chính KAOPEN đầu tiên là dựa trên các biến nhị phân trong Báo
cáo thường niên về Cơ chế tỷ giá và các hạn chế tỷ giá ngoại hối (AREAER) của IMF.
Quinn (1997, 2003) đã biên soạn một thước đo tổng hợp của các quy định tài chính,
chúng có giá trị từ 0 đến 14, đại diện cho các chế độ mở cửa từ ít nhất đến nhiều nhất.
Phần lớn các chỉ số này dựa trên những thơng tin định tính được mã hóa trong
AREAER liên quan đến hạn chế về giao dịch tài khoản vốn và tài khoản vãng lai, cộng
thêm thơng tin về việc liệu các nước đó đã ký thỏa thuận quốc tế với các tổ chức quốc
tế như OECD hay Liên minh châu Âu. Mặc dù vậy dữ liệu về giá trị của chỉ số Quinn
không được công bố công khai. Johnston và Tamirisa (1998) tạo ra các chuỗi thời gian
của sự kiểm soát vốn dựa trên các thành phần tách biệt trong AREAER. Tuy nhiên,
chuỗi dữ liệu của họ khơng đủ dài, nó chỉ bao gồm các năm sau năm 1996.



10

Gần đây nhất, Miniane (2004) xây dựng một tập hợp các chỉ số để đo cường độ của
kiểm soát vốn, dựa trên cách tiếp cận tương tự như Johnston và các cộng sự nhưng
ngoại suy dữ liệu trở lại tới năm 1983 cho 34 quốc gia. Phương pháp này cũng từng
được Aizenman và đồng sự (2004) sử dụng và đã cung cấp một chỉ số đo độ mở tài
chính tốt hơn so với dữ liệu của IMF, tuy nhiên dữ liệu của Miniane chỉ có 30 quốc gia.
Nhiều nghiên cứu đã sử dụng phương pháp đo lường của Chinn và Ito (2006, 2008) để
tính tốn cho các chỉ số của bộ ba bất khả thi. Chinn và Ito còn đo lường độ mở tài
chính theo các chỉ số của IMF về các giới hạn tiền tệ, giao dịch tài khoản vốn, tỷ giá
hối đoái đa phương, chứng từ cần thiết cho tiến trình xuất khẩu. Độ mở tài chính là
trung bình có trọng số của các chỉ số hạn chế trao đổi của IMF.
“A New Measure of Financial Openness” năm 2008 của Menzie D. Chinn và Hiro Ito
đã tạo ra chỉ số mới để đo lường sự hội nhập tài chính có khả năng dễ cập nhật, được
thiết lập cơng khai, có phạm vi thu thập được ở nhiều quốc qua với chuỗi thời gian dài.
Hai ơng cịn muốn tính toán cho thật nhiều quốc gia và nhiều năm miễn là chúng có
sẵn trong AREAER, các dữ liệu có sẵn cho 182 quốc gia trong giai đoạn 1970 - 2010.
Nhiều nghiên cứu sau đó cũng đã phát triển chỉ số này. Một cách thay thế khác là sử
dụng tài khoản vốn làm cơng cụ đo lường độ mở tài chính. Tuy nhiên, tài khoản vốn
thường biến động qua thời gian và được cho là quá biến động để đại diện cho sự thay
đổi trong chính sách.
Đối với phương pháp đo lường tính độc lập của chính sách tiền tệ, Rose (1996) đề xuất
đo lường độc lập tiền tệ bằng cách xem phản ứng của tỷ giá đối với sự thay đổi của sản
lượng, lãi suất và cung tiền. Tuy nhiên đối với phương pháp này khó có thể phân biệt
được trong thực tế đâu là cú sốc cung, đâu là cú sốc cầu của tiền tệ, đó là chưa kể đến
việc phải giả định tốc độ lưu thong tiền tệ là không đổi. Obstfeld, M., J.C.Shambaugh,
và A.M.Taylor (2005) đề xuất cách tiếp cận khác để đo lường độc lập tiền tệ bằng cách
không dựa trên số lượng mà dựa trên lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Phương pháp này



11

gây nhiều tranh luận về việc chủ yếu vào trực giác khi cho rằng việc điều hành chính
tiền tệ dựa mức lãi suất mục tiêu hơn là dựa trên số lượng tiền tệ.
Tương tự, Aizenman, Chinn và Ito (2008) cũng đo lường tính độc lập của chính sách
tiền tệ của một quốc gia bằng cách sử dụng mối tương quan giữa lãi suất của quốc gia
đó và quốc gia cơ sở. Một sự tương quan dương giữa lãi suất trong nước và nước cơ sở
cho thấy chính sách tiền tệ phụ thuộc. Ngược lại, một sự tương quan âm có nghĩa là
chính sách tiền tệ quốc gia đó tương đối độc lập. Tuy nhiên, điểm hạn chế của phương
pháp này là sự tương quan dương giữa lãi suất 2 quốc gia khơng chỉ phản ánh một
chính sách tiền tệ phụ thuộc, mà cịn có thể là do sự tương đồng trong tình hình tài
chính của hai quốc gia, dù chính sách tiền tệ của hai quốc gia này là độc lập. Canada là
một ví dụ cho hạn chế này, có thể chứng minh được rằng chính sách tiền tệ của Canada
là độc lập, mặc dù lãi suất của Canada có sự tương quan dương với lãi suất của Mỹ. Sẽ
không chính xác khi nói sự tương quan dương giữa lãi suất Canada và Mỹ là do chính
sách tiền tệ của Canada bị ảnh hưởng của chính sách tiền tệ Mỹ.
Hầu hết các nghiên cứu hiện nay đều đo lường tính độc lập của chính sách tiền tệ dựa
trên sự tương quan giữa lãi suất một quốc gia với lãi suất của quốc gia cơ sở. Trước
đây, Shambaugh (2004) đã sử dụng mối tương quan giữa lại suất ngắn hạn trong nước
của một quốc gia với lãi suất tại quốc gia cơ sở (thường là Mỹ) để đo lường tính độc
lập của chính sách tiền tệ. Nghiên cứu này đã dùng lãi suất ngắn hạn như một thước đo
chính sách tiền tệ và giả định sự độc lập của chính sách có thể được đo lường bằng
biến động của những lãi suất này.
Các nhà nghiên cứu khác như Frankel, Schmukler và Serven (2007, cùng với
Shambaugh), Reade và Volz (2008) cũng đưa ra cách đo lường tính độc lập của chính
sách tiền tệ, các nhà nghiên cứu này chú ý nhiều hơn các mối quan hệ giữa lãi suất của
hai quốc gia. Bluedorn và Bowdler (2010) xem xét riêng biệt những yếu tố kỳ vọng và



12

bất ngờ trong những thay đổi lãi suất của các quốc gia sử dụng Mỹ là quốc gia cơ sở.
Herwartz và Roestel (2010) kiểm định sự phụ thuộc lãi suất dài hạn (có kiểm sốt các
biến nội địa) cho một nhóm nhỏ 20 quốc gia thu nhập cao. Tuy nhiên, những đo lường
này cuối cùng cũng dựa trên sự tương quan giữa các lãi suất, vì vậy chúng cũng mắc
phải những hạn chế đã kể trên.
Trong những nghiên cứu gần đây, ba nghiên cứu khác đã có những bước tiến quan
trọng trong việc giảm bớt những hạn chế này. Dubecq và Girardin (2010) xem xét điều
kiện tiền tệ trong nước trong nghiên cứu tại 8 quốc gia châu Mỹ La Tinh hơn 11 năm.
Bluedorn và Bowdler (2010) xem xét riêng biệt những yếu tố kỳ vọng và bất ngờ trong
những thay đổi lãi suất của các quốc gia sử dụng Mỹ là quốc gia cơ sở. Herwartz và
Roestel (2010) kiểm định sự phụ thuộc lãi suất dài hạn (có kiểm sốt các biến nội địa)
cho một nhóm nhỏ 20 quốc gia thu nhập cao.
2.3. Các nghiên cứu về chính sách điều hành bộ ba bất khả thi
Bên cạnh những nghiên cứu về phương pháp đo lường bộ ba bất khả thi, chính sách
điều hành bộ ba bất khả thi cũng đã được nghiên cứu và xem xét cụ thể. Aizenman,
Chinn và Ito (2008) đã dựa vào việc tính tốn và đánh giá cấu trúc tài chính của các
nhóm quốc gia theo thời gian qua xem xét tác động của việc lựa chọn chính sách điều
hành bộ ba bất khả thi đến nền kinh tế vĩ mơ. Nhóm tác giả đã nhận định rằng xu
hướng gần đây cho thấy các quốc gia đang phát triển theo đuổi cấu trúc tài chính với
các chỉ số hội tụ về mẫu hình trung gian của bộ ba bất khả thi: duy trì tỷ giá hối đối
linh hoạt có kiểm sốt, trung bình trong chính sách tiền tệ độc lập và hội nhập tài
chính. Cịn các nước cơng nghiệp hóa lại ngày càng ổn định tỷ giá và tự do hóa tài
chính tuy nhiên tính độc lập về tiền tệ ngày càng giảm đi. Ngoài ra trong nghiên cứu
này tác giả cũng cho thấy được rằng sau các cuộc khủng hoảng xảy ra trong bốn thập
kỷ qua đã phá vỡ cấu trúc của bộ ba bất khả thi của các quốc gia.



13

“Surfing The Waves of Globalization: Asia and Financial Globalization in The Context
Of The Trilemma” năm 2011của Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn và Hiro Ito được
nghiên cứu sau hơn một năm của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 cho thấy rằng
đã có sự thay đổi cấu trúc tài chính trong bộ ba bất khả thi ở các nước châu Á so với
thời kỳ trước khủng hoảng. Kết quả nghiên cứu cho thấy nền kinh tế độc lập tiền tệ
càng nhiều thì lạm phát càng cao, nền kinh tế ổn định tỷ giá hối đối càng nhiều thì lạm
phát càng thấp. Các quốc gia châu Á đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi đã thay đổi cấu
trúc tài chính trong việc điều hành nền kinh tế vĩ mô để làm giảm sự biến động của tỷ
giá hối đoái thực.“Trilemma and Financial Stability Configurations in Asia”năm 2011
của Joshua Aizenman cho thấymột cái nhìn tổng quan về các mơ hình của sự ổn định
tài chính ở các quốc gia mới nổi ở châu Á trong những năm 2000. Các quốc gia này đã
mở rộng lý thuyết bộ ba bất khả thi khi lựa chọn một mức độ hợp lý trong chính sách
về tự do hóa tài chính, ổn định tỷ giá, tiền tệ độc lập, kết hợp với việc dự trữ ngoại hối
đồi dào để tạo thành mẫu hình trung bình trong cấu trúc bộ ba bất khả thi. Với mẫu
hình này, các nước mới nổi châu Á đã giảm đuợc sự tác động của cuộc khủng hoảng
toàn cầu 2008 và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng trở lại của các nước châu Á
trong năm 2010.
Khi nghiên cứu về mức độ thay đổi trong bộ ba chính sách vĩ mô quốc tế của các quốc
gia, Girton và Roper năm 1977 đã sử dụng theo cách đo lường “áp lực thị trường ngoại
hối” là đo lường sự thay đổi của nhiều biến chính sách bằng một biến duy nhất. Tuy
nhiên, cách đo lường của hai nhà nghiên cứu này thiếu sự rõ ràng về chuẩn của vector
và giải thích hình học mà chỉ đưa ra phương pháp đơn biến cho hỗn hợp các chính sách
tỷ giá hối đối. Vì vậy, “Trilemma Stability and International Macroeconomic
Archetypes In Developing Economies” của H.Popper, A.Mandilaras và G.Bird (2011)
đã sử dụng vector kết nối giữa các điểm liên tiếp nhau trong vùng không gian chính
sách để xem xét sự thay đổi chính sách của một quốc gia từ thời kỳ này qua thời kỳ kế



14

tiếp. Bên cạnh đó, bằng cách sử dụng nguyên lý của bộ ba bất khả thi, nhóm tác giả
trên đã kết hợp các chỉ số ở điểm cực để tạo thành ba hình mẫu chính sách và một hình
mẫu có các chỉ số ở vị trí trung lập để xem xét đánh giá tính ổn định của hình mẫu vĩ
mơ (macroeconomic archetypes) qua thời gian.
2.4. Các nghiên cứu về dự trữ ngoại hối
Lý thuyết bộ ba bất khả thi không đề cập đến vai trò của dự trữ ngoại hối, tuy nhiên do
xu thế hội nhập tài chính diễn ra ngày càng sâu rộng ở các nước đang phát triển nên
ngày càng có nhiều nghiên cứu cho thấy dự trữ ngoại hối đóng vai trị quan trọng trong
mẫu hình bộ ba bất khả thi. Lượng dự trữ ngoại hối của các nước đang phát triển gia
tăng khá mạnh sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á một phần do chính phủ các
nước này phải đối phó với xu hướng dịng vốn mang tính đầu cơ. Dịng tiền nóng từ
đầu cơ rất dễ dừng lại đột ngột và đảo chiều, vì vậy tích lũy dự trữ ngoại hối là phương
thức mà chính phủ các quốc gia đang phát triển hướng đến như một tấm điệm can thiệp
vào thị trường ngoại hối để phòng ngừa rủi ro dòng vốn đảo chiều. Tỷ lệ dự trữ ngoại
hối là nhân tố làm giảm khả năng và chi phí nội tệ bị mất giá, tấn cơng tiền tệ (Sachs,
Tornell và Velasco (1996)) và dịng vốn ngưng đột ngột (Jeanne, Olivier và Ranciere
(2011)). Garcia và Soto (2004) cũng tìm ra bằng chứng thực nghiệm cho rằng tỷ lệ dự
trữ trên nợ ngắn hạn là một nhân tố làm giảm ảnh hưởng của việc dòng vốn ngưng đột
ngột tại các quốc gia Đông Á và khuynh hướng tăng tỷ lệ dự trữ của một vài nền kinh
tế Đông Á. Tương tự, Dominguez, Hashimito và Ito (2011) cũng tìm thấy rằng các nền
kinh tế mới nổi đã sử dụng cạn kiệt dự trữ ngoại hối trong suốt cuộc khủng hoảng tài
chính tồn cầu năm 2008.
“Assessing The Emerging Global Financial Architecture:Measuring The Trilemma's
Configurations Over Time” năm 2008 của Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn và Hiro
Ito cho rằng các quốc gia đang nắm giữ một lượng lớn dự trữ ngoại hối có thể nới lỏng


15


bộ ba bất khả thi để đạt được cả ba mục tiêu cùng một lúc tức là vừa có thể quyết định
theo đuổi chính sách tiền tệ độc lập hơn, hội nhập tài chính sâu hơn trong khi đó vẫn
duy trì được sự ổn định tỷ giá.“Financial Stability, the Trilemma, and International
Reserves” của Maurice Obstfeld, Jay C. Shambaugh và Alan M. Taylor (2008) nhận
định rằng sự tăng trưởng nhanh chóng dự trữ ngoại hối của các thị trường mới nổi vẫn
còn là một câu đố. Nghiên cứu này cũng đưa ra một mơ hình dựa trên sự ổn định tài
chính và cơng khai tài chính nhằm giải thích việc nắm giữ dự trữ ngoại hối của các thị
trường vốn trên thế giới trong xu hướng tồn cầu hóa.
“Trilemma Configurations in Asia in an Era of Financial Globalization” năm 2009
của Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn và Hiro Ito đã xem xét tác động của sự lựa
chọn trong bộ ba bất khả thi đã ảnh hưởng đến hiệu quả nền kinh tế vĩ mô của các nước
châu Á. Độc lập tiền tệ càng nhiều thì biến động sản lượng càng thấp trong khi đó tỷ
giá hối đối càng ổn định thì biến động sản lượng càng cao, sự biến động này có thể
được giảm đi nếu một quốc gia nắm giữ dự trữ ngoại hối (IR) ở trên ngưỡng khoảng
20% GDP. Hội nhập tài chính càng nhiều càng làm giảm biến động tỷ giá hối đối
thực. Các quốc gia có nền kinh tế mới nổi ở Châu Á đã có sự lựa chọn cấu tài chính và
dự trữ ngoại hối khá lớn để làm giảm các biến động trong cả đầu tư và tỷ giá hối đoái
thực.“The Financial Crisis, Rethinking of the Global Financial Architecture, and the
Trilemma” năm 2010 của Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn và Hiro Ito nhận thấy
nếu một quốc gia trước khi gặp khủng hoảng có tỷ giá hối đối ổn định hơn và duy trì
mức độ dự trữ ngoại hối cao sẽ ít bị tổn thất hơn.
“The Impossible Trinity – from the Policy Trilemma to the Policy Quadrilemma” năm
2011 của Joshua Aizenman nhận định rằng cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm
2008 đã đánh dấu sự chuyển đổi trong cấu trúc của bộ ba bất khả thi ở các nước trên
thế giới. Để đối phó với những khó khăn gặp phải, các quốc gia có nền kinh tế mới nổi
đã mở rộng cấu trúc của bộ ba bất khả thi trong việc điều hành kinh tế vĩ mô bằng cách



×