LUẬN VĂN
ĐỀ TÀI “ Một số giải pháp
đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở
Việt Nam”
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
1
LỜI NÓI ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam đã và đang đạt được những thắng
lợi rất khả quan, trước hết phải kể đến thắng lợi của mặt trận nông nghiệp.
Trong nông nghiệp, thắng lợi lớn nhất là bước ngoặt phát triển về sản xuất và
xuất khẩu lúa gạo.
Từ một nước nông nghiệp thiếu đói kéo dài, Việt Nam không chỉ tự túc
được lương thực ổn định, mà còn vươn lên đẩy mạnh xuất khẩu và trở thành
nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Đó là một kỳ tích mà cả thế giới biết
đến.
Thành tựu đó chứng minh đường lối đổi mới nông nghiệp của Đảng nói
chung, định hướng chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo nói riêng là đúng đắn.
Tuy nhiên, chuyển sang kinh tế thị trường, trong điều kiện tình hình kinh
tế, chính trị thế giới và khu vực có nhiều biến đổi, cuộc chạy đua và cạnh tranh
kinh tế toàn cầu diễn ra hết sức gay gắt, thì vấn đề sản xuất và xuất khẩu một
sản phẩm nào đó, đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển khôn ngoan, có sự
tính toán kỹ càng, cẩn trọng trong một tổng thể chiến lựơc phát triển chung mới
dành được thắng lợi và đạt được hiệu quả tối ưu.
Đối với nước ta xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, ngoại tệ thu được từ xuất khẩu là nguồn vốn cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng thu nhập đặc biệt đối với người nông
dân.
Cùng với Việt Nam, trên thị trường gạo thế giới còn có nhiều nước khác
tham gia như:Thái Lan, Mỹ, Trung Quốc, Pakistan…đó là những đối thủ cạnh
tranh lớn của nước ta.
Mười bốn năm qua xuất khẩu gạo cuả Việt Nam đã thu được những thành
tựu nhất định nhưng bên cạnh đó còn nhiều bất cập cần giải quyết như vấn đề
thị trường, giá cả, chất lượng gạo, vấn đề đầu ra… Nếu những vấn đề trên được
giải quyết một cách hợp lý thì xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có bước phát triển
cao hơn trong thời gian tới.
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
2
Với đề tài “ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam”
em xin được đưa ra một vài đánh giá về thực trạng xuất khẩu gạo và cách giải
quyết để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta.
Nội dung của đề án gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về xuất khẩu gạo.
Chương II: Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu gạo.
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề án em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy, cô đặc biệt là thầy Hoàng Văn Định, em xin chân thành cảm ơn
các thầy, cô.
Do trình độ có hạn nên đề án của em không tránh khỏi những sai sót, em
rất mong được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hân
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
3
NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU GẠO
I.THỰC CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU GẠO
1. Thực chất xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài và với
các khu chế xuất làm giảm nguồn vật chất trong nước. Bao gồm xuất khẩu mậu
dịch và phi mậu dịch
Cơ sở của xuât khẩu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá. Mục đích
của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng vùng, từng quốc gia trong
phân phối lao động quốc tế.
Hoạt động khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi nền kinh tế từ xuất
khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất máy móc thiết bị công nghệ
cao. Tất cả hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các
quốc gia tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Các loại hìng xuất khẩu chính:
-Xuất khẩu trực tiếp: Các nhà sản xuất giao hàng trực tiếp cho người tiêu
dùng nước ngoài. Phần lớn hàng hoá ở thị trường thế giới qua xuất khẩu trực
tiếp (trên 2/3 kim nghạch)
-Xuất khẩu gián tiếp là xuất khẩu qua khâu trung gian.
-Tạm xuất, tái nhập như hàng đưa đi triển lãm, đưa đi sửa chữa( máy bay,
tàu thuỷ ) rồi lại mang về.
-Tạm nhập, tái xuất như hàng đưa đi triển lãm, hội chợ, quảng cáo sau
đưa về.
Hình thức kinh doanh “tạm nhập, tái xuất” được hiểu là việc mua hàng
của một nước để bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hoá
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
4
ngoại thương có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam rồi lại làm thủ
tục xuất khẩu mà không qua gia công chế biến.
- Chuyển khẩu: Mua hàng của nước này bán cho nước khác, không
làm thủ tục xuất nhập khẩu
- Dịch vụ xuất khẩu
2. Vai trò của xuất nhập khẩu gạo
Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế
đối ngoại là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Việc mở rộng xuất
khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng
như tạo cơ sở cho phát triển hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính
sách thương mại.Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các
ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu , khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng
xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập, ngoại tệ cho đất nước.
2.1. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá
đất nước.
Quá trình công nghiệp hoá cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy
móc, thiết bị kĩ thuật công nghệ cao để có thể theo kịp nền công nghiệp hiện đại
của các nước đã phát triển.Nguồn vốn cho nhập khẩu được hình thành từ rất
nhiều nguồn vốn khác nhau:
- Đầu tư nước ngoài
- Vay nợ, viện trợ
- Thu từ hoạt động du lịch
- Xuất khẩu…
Các nguồn vốn khác quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này
hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất vẫn là xuất khẩu , xuất
khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Hiện nay các nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn chủ yếu là các nước
đang phát triển: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan…Chính vì thế
nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối các nước này là rất quan trọng.
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
5
2.2. Xuất khẩu đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Ngày nay với xu thế hội nhập, cơ hội và thách thức rất nhiều, các nước
đều phải phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu những sản phẩm mà mình có
lợi thế và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế hoặc lợi thế so với các
sản phẩm khác nhỏ hơn. Khi gạo đã trở thành một lợi thế trong xuất khẩu của
một nước thì các nước đó sẽ tập chung vào sản xuất lúa gạo với quy mô lớn,
trình độ thâm canh cao, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm tăng năng xuất, sản
lượng và chất lượng gạo. Từ sự tập chung sản xuất đó sẽ kéo theo sự phát triển
của các ngành có liên quan và dẫn tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát
triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp yếu tố đầu vào cho
sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong
nước.
- Thông qua xuất khẩu nước ta có thể tham gia vào công cuộc cạnh tranh
trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng từ đó hình thành cơ cấu sản xuất
luôn thích ghi với thị trường.
- Đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới hoàn thiện công việc sản
xuất kinh doanh.
2.3. Xuất khẩu có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân
Xuất khẩu gạo trước hết làm tăng thu nhập của người nông dân đặc biệt ở
các vùng chuyên canh lúa nước, đời sống người dân phụ thuộc chủ yếu vào cây
lúa. Sau nữa, xuất khẩu giúp giải quyết một lượng lớn lao động dư thừa trong
nước. Khi thực hiện tăng cường xuất khẩu thì kéo theo nó là vấn đề xay xát, chế
biến phát triển, vấn đề vận chuyển hàng hoá …những công tác trên thu hút khá
nhiều lao động từ không có trình độ kỹ thuật, quản lý đến có trình độ cao. Việc
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
6
tạo việc làm ổn định cũng chính là một biện pháp hữu hiệu để tăng thu nhập, ổn
định xã hội.
Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì xuất khẩu gạo
là một lợi thế lớn. Bởi sản xuất và xuất khẩu gạo có những lợi thế căn bản như:
đất đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn nhân lực … Và đặc biệt yêu cầu về vốn kỹ
thuật trung bình, với các lợi thế như vậy tăng cường xuất khẩu gạo là hướng đi
đúng đắn nhất.
Xuất khẩu gạo hay xuất khẩu hàng hoá nông sản nói chung có tác động to
lớn đến nền kinh tế nước ta, giúp khai thác được tất cả các lợi thế tương đối
cũng như tuyệt đối của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Trong quá trình sản
xuất lúa gạo, Việt Nam đã thu đước những kết quả to lớn từ một nước nhập
khẩu trở thành một nước xuất khẩu thứ hai thế giới. Tuy nhiên xuất khẩu gạo
Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Cần có giải pháp cụ thể
cho vấn đề này.
II. ĐẶC ĐIỂM XUẤT KHẨU GẠO
1. Đặc điểm về sản xuất
Về mặt sinh thái, sức đề kháng sâu bệnh và khả năng chịu đựng của lúa
kém do vậy sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Điều này có
ảnh hưởng nhất định đến xu hướng phát triển chung cũng như mùa màng thu
hoạch trong từng thời điểm cụ thể.
Do sản xuất lúa gạo phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên do đó lúa chỉ
được trồng phổ biến ở các nước có đồng bằng châu thổ, khí hậu nhiệt đới ẩm,
nắng lắm, mưa nhiều, những nước này chủ yếu là các nước đang phát triển như
: Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ , Pakistan…Hiện nay do trình độ đô thị hoá, việc
tăng dân số quá nhanh cũng như việc xây dựng các khu công nghiệp ồ ạt nên
diện tích nông nghiệp hay diện tích trồng lúa ngày càng bị hu hẹp. Do đó việc
tăng sản lượng lúa phụ thuộc vào khả năng tăng năng suất, vì thế mà yêu cầu
cần có trình độ thâm canh cao, khoa học tiến bộ trong sản xuất lúa.
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
7
Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm với hai đồng bằng
châu thổ rộng lớn, với lượng dân số tập trung ở nông thôn khá cao (80% dân số)
do đó rất thuận lợi cho phát triển lúa nước. Nhưng đồng thời với những thuận
lợi là các khó khăn như: bão , lũ lụt, hạn hán, hay các biến động bất thường của
thời tiết luôn đe doạ tới hoạt động sản xuất.
Hiện nay lúa gạo đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam do
đó sản xuất lúa gạo rất được chú trọng cả về tăng năng suất và diện tích bằng
các biện pháp như thâm canh, xen canh, gối vụ hay áp dụng các biện pháp khoa
học trong khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và tạo giống chất lượng tốt…
2. Đặc điểm xuất khẩu lúa gạo
- Tính thời vụ trong trao đổi:
Sản xuất lúa gạo mang đặc điểm cố hữu của sản xuất nông nghiệp tính
thời vụ do vậy mà hình thành tính thời vụ trong trao đổi sản phẩm trên thị
trường. Tức là số lượng lúa gạo cung cấp trên thị trường là không đều vào mỗi
thời điểm trong năm , điều này phụ thuộc vào thời gian gieo trồng. Để khắc
phục đặc điểm này yêu cầu các nước xuất khẩu phải luôn có kế hoạch bảo quản,
dự trữ hợp lý tránh tình trạng lúc thừa lúc thiếu sẽ dẫn tới bị ép giá.
- Phần lớn gạo được tiêu thụ tại chỗ:
Tình hình đó là do một mặt, năng lực sản xuất của các nước này bị hạn
chế mặt khác do quy mô dân số và tốc độ tăng dân số nhanh. Vì vậy phần lớn
lúa gạo còn lại đem trao đổi trên thị trường gạo thế giới chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Các nước đang phát triển sản xuất 53-55% sản lượng gạo thế giới, các nước
Châu Á, Châu Phi sản xuất nhiều nhất chiếm 85% sản lượng gạo tiêu thụ trên
thế giới. Trong khi đó các nước này chỉ cung cấp 4-5% lượng gạo được trao đổi
trên thế giới, Châu Á là khu vực sản xuất nhiều nhất và cũng tiêu thụ lượng gạo
lớn nhất. Năm 1995 trừ số lượng đã xuất khẩu đi các lục địa khác, mức tiêu thụ
gạo còn lại của Châu Á vẫn gấp 21,4 lần Châu Mỹ, 23,2 lần Châu Phi và 80,5
lần Châu Âu.
- Buôn bán giữa các chính phủ là phương thức chủ yếu vì thế xuất khẩu
sản phẩm lúa gạo ổn định hơn so với hàng công nghiệp.
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
8
Nguyên nhân , thứ nhất, là do yếu tố chính trị quốc gia. Mỗi nước đều
phải đảm bảo an ninh lương thực, nếu lương thực không được đảm bảo sẽ có
ảnh hưởng rất lớn tới chính trị quốc gia đó. Vì thế buốn bán chủ yếu được ký
kết giữa các chính phủvới nhau thông qua các hiệp định, các hợp đồng có tính
nguyên tắc, dài hạn và định lượng cụ thể hàng năm vào đầu các niên vụ. Thứ
hai, một số nước dùng xuất khẩu gạo để thực hiện các ý đồ chính trị thông qua
viện trợ, cho không, bán chịu dài hạn…điều này được thực hiện giữa các chính
phủ là chủ yếu.
- Các nước lớn đóng vai trò chi phối thị trường gạo thế giới:
Trên thế giới chỉ một vài nước là xuất khẩu với một lượng gạo lớn và có
uy tín: Thái Lan, Mỹ, Ttung Quốc, Việt Nam…. Nếu lượng gạo xuất khẩu của
các nước này có sự biến động có thể ảnh hưởng đến giá cả của gạo dẫn tới
những biến động trong cung – cầu gạo, hay có thể ảnh hưởng đến tình hình sản
xuất đến các loại hàng hoá khác.
- Trong mậu dịch gạo thế giới, có rất nhiều loại gạo khác nhau của các
nước xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Tương ứng với mỗi loại gạo , tuỳ
thuộc chất lượng, phẩm cấp khác nhau lại hình thành một mức giá cụ thể phù
thuộc vào các tiêu chuẩn cụ thể về chọn giá quốc tế mà trong nhiều thập kỷ qua,
người ta vẫn lấy giá gạo xuất khẩu của Thái Lan làm giá gạo quốc tế. Vì gạo có
rất nhiều loại nên khi nói giá gạo xuất khẩu thường nói rõ cấp loại nào (5% tấm,
10% tấm…) vào điều kiện giao hàng nào (FOB. CIF,C&F…)
Tuy có giá gạo quốc tế nhưng giá gạo của một cấp gạo cụ thể, giữa các
nước xuất khẩu là không đồng nhất: như giá gạo của việt nam thường thấp hơn
của Thái Lan hoặc của một số nước khác mặc dù cùng cấp. Điều này là do chất
lượng của từng loại, do uy tín sản phẩm , do điều kiện tự nhiên, nguồn giống
tạo nên loại gạo đó.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU GẠO.
1. Nhân tố thị trường.
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
9
Nhân tố thị trường có ảnh hưởng rất lớn chi phối toàn bộ hoạt động xuất
khẩu gạo của mỗi quốc gia tham gia xuất khẩu. Trong đó co thể xét trên các yếu
tố cơ bản sau:
- Nhu cầu của thị trường về sản phẩm gạo: Gạo là hàng hoá thiết yếu,
cũng giống như các loại hàng hoá khác nó cũng phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu
dân cư, thị hiếu… Khi thu nhập cao thì cầu về số lượng gạo giảm nhưng trong
đó cầu về gạo chất lượng cao có xu hươngs tăng lên (ở các nước phát triển:
Nhật, Châu âu, ..) ngược lại cầu đối với gạo chất lượng thấp giảm đi chính vì
thế tỷ trọng tiêu dùng cho gạo trong tổng thu nhập vẫn tăng.
- Cung gạo trên thị trường là một nhân tố quan trọng trong xuất khẩu.
Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần phải tìm hiểu kỹ về khả năng xuất
khẩu từng loại gạo của mình cũng như khả năng của các đối thủ cạnh tranh.
Trên thị trường thế giới sản phẩm gạo rất đa dạng, phong phú, nhu cầu về gạo
co giãn ít so với mức giá do đó nếu lượng cung tăng quá nhiều có thể dẫn tới dư
cung điều đó là bất lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
- Giá cả là một yếu tố quan trọng là thước đo sự cân bằng cung – cầu
trong nền kinh tế thị trường. Tuy cầu về gạo là ít biến động nhưng với những
sản phẩm đặc sản thì gái có quyết định khá lớn.
2. Nhân tố về cơ sở vất chất – kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm.
- Các nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật đó là hệ thống vận chuyển, kho
tàng, bến bãi, hệ thống thông tin liên lạc… Hệ thống này bảo đảm việc lưu
thông nhanh chóng kịp thời, đảm bảo cung cấp nguồn hàng một cách nhanh
nhất, tiết kiệm thời gian và chi phí lưu thông.
- Các nhân tố về kỹ thuật, công nghệ sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan
trọng trong việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo. Hệ
thống chế biến với công nghệ dây truyền hiện đại sẽ gạp phần tăng chất lượng
và giá trị của gạo.
3. Nhân tố về chính sách vĩ mô.
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
10
Nhóm nhân tố này thể hiện sự tác động của nhà nước tới hoạt động xuất
khẩu gạo. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia
thị trường xuất khẩu rất cần tới sự quan tâm hướng dẫn của nhà nước. Đặc biệt
hiện nay khả năng marketinh tiếp cận thị trường, sự am hiểu luất kinh doanh,
khả năng quản lý của doanh nghiệp còn hạn chế, vì thế việc đào tạo cán bộ
quản lý, cán bộ làm công tác tiêu thụ là rất quan trọng. Hơn nữa hiện nay xuất
khẩu gạo gọp phần rất lớn vào phát triển nền kinh tế nhưng đời sống của người
nông dân còn gặp nhiều khó khăn yêu cầu nhà nước cần có sự điều tiết lợi ích
giữa nhà nước – doanh nghiệp – người nông dân sao cho thoả đáng và hợp lý
nhất.
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GẠO CỦA
VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG VỀ SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN LÚA GẠO Ở VIỆT NAM
1.Sản xuất lúa gạo
Từ sau đổi mới sản xuất lúa gạo của nước ta không ngừng phát triển cả
về diện tích, năng suất, sản lưọng. Từ chỗ thiếu đói triền miên và phải nhập
khẩu lương thực bình quân hàng năm trên nửa triệu tấn gạo nhưng nhờ đường
lối đổi mới và quyết sách trong nông nghiệp từ năm 1989 trở đi Việt Nam
chẳng những đã sản xuất đủ lúa gạo cho nhu cầu tiêu dùng nội địa mà còn dành
một khối lượng lớn cho xuất khẩu.
Bảng: Sản xuất lúa nói chung của cả nước
từ năm 1990-2003
Năm Diện tích(1000ha) Năng suất(tạ/ha) Sản lượng(1000 tấn)
1990 6042.8 31.8 19225.1
1991 6302.8 31.1 19621.9
1992 6475.3 33.3 21590.4
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
11
1993 6559.4 34.8 22836.5
1994 6598.6 35.7 23528.2
1995 6765.6 36.9 24963.7
1996 7003.8 37.7 26396.7
1997 7009.7 38.8 27523.9
1998 7362.7 39.6 29145.5
1999 7653.6 41.0 31393.8
2000 7666.3 42.4 32529.5
2001 7492.7 42.9 32108.4
2002 7504.3 45.9 34447.2
2003 7449.3 46.3 34518.6
Tổng 97976.9 379829.4
Nguồn: Tổng cục thống kê 1-2001và Bộ NN & PTNT, Vụ Kế hoạch và
quy hoạch 2002
1.1. Về sản lượng
Từ năm 1990-2003 sản lượng lúa có xu hướng tăng và ổn định. Trung
bình mỗi năm tăng 1776.2 tấn tương ứng 5.03% so với năm trước. Đây là mức
tăng của năm 1992 là khá cao 10.2% so với năm 1991 về số tuyệt đối là 1986.5
nghìn tấn mức tăng này là khá cao đặc biệt trong thời gian này nước ta mới bắt
đầu thực hiện cơ chế mở cửa, nền kinh tế mới có sự chuyển biến tích cực. Từ
1990- 2003 sản lượng lúa luôn tăng tuy không đều qua các năm, có năm tăng
2338.8 nghìn tấn(2002) có năm tăng 71.4 nghìn tấn (2003) và đặc biệt năm
2001 đã bị giảm sút 421.1 nghìn tấn so với năm 2000. Tuy nhiên năm 2002 lại
tăng với lượng cao nên sản lượng 2002 so với 2000 vẫn tăng 1917.7 nghìn tấn.
Chênh lệch Năm
Sản lượng(1000tấn)
+/- %
1990 19,225.1 - -
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
12
1991 19,621.9 396.8 2.06
1992 21,590.4 1968.5 10.03
1993 22,836.5 1246.1 5.77
1994 23,528.2 691.7 3.03
1995 24,963.7 1435.5 6.10
1996 26,396.7 1433.0 5.74
1997 27,523.9 1127.2 4.27
1998 29,145.5 1621.6 5.89
1999 31,393.8 2248.3 7.71
2000 32,529.5 1135.7 3.62
2001 32,108.4 - 421.1 - 1.30
2002 34,447.2 2338.8 7.30
2003 34,518.6 71.4 0.21
Nguồn: Niên gián thống kê- 2003
Nguyên nhân chính của việc tăng liên tục như trên là:
- Do sự nỗ lực của hàng chục triệu nông dân trong điều kiện đổi mới,
người lao động làm chủ ruộng đất từ đó làm chủ tất cả các khâu trong quá trình
sản xuất tiêu thụ, được đảm bảo tiết kiệm và có hiệu quả nhất. Đặc biệt trong cơ
chế thị trường hiện nay, khi xuất khẩu gạo ngày càng tăng, gạo ngày càng được
giá sẽ khuyến khích trực tiếp những người nông dân tích cực sản xuất nhằm
tăng thu nhập cải thiện đời sống.
- Do những tiến bộ về khoa học công nghệ trong sinh học, thuỷ lợi, phân
bón …đặc biệt trong lĩnh vực sinh học chẳng hạn như áp dụng các giống lúa
mới vào sản xuất, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mùa vụ, đẩy mạnh thâm
canh, tăng nhanh sản lượng. Cùng với hàng chục triệu người nông dân trên
đồng ruộng còn phải kể đến sự đóng góp không nhỏ cuả các nhà khoa học đã
trực tiếp làm nên thành quả của mặt trận nông nghiệp những năm qua.
1.2. Diện tích
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
13
Từ 1990-2003 diện tích gieo trồng không ngừng tăng, nhưng được chia
làm hai giai đoạn rõ rệt. Từ 1990-2000 diện tích tăng và ổn định qua các năm,
năm 1991 diện tích tăng 260 nghìn ha- tương ứng tăng 4.3% so với năm 1990,
năm 1998 tăng 263 nghìn ha –3.7% so với năm 1997. Đây là hai năm diện tích
gieo trồng tăng với tốc độ cao. Nguyên nhân là do nhà nước thực hiện đổi mới
quản lý trong nông nghiệp từ đó khuyến khích được sản xuất với quy mô lớn và
số vụ trong năm cũng tăng để đáp ứng nhu cầu gạo hàng hoá. Từ năm 2001 –
2003 diện tích có sự biến động không ổn định , năm 2001 diện tích giảm 173.6
nghìn ha, đến năm 2002 diện tích có tăng 11,6 nghìn ha so với năm 2001 nhưng
vẫn thấp hơn năm 2000 là 162 nghìn ha. Đến năm 2003 diện tích lại giảm so
với năm 2002 là 55 nghìn ha. Nguyên nhân do trình độ đô thị hóa ngày càng
tăng các khu công nghiệp, dân cư chủ yếu đuợc xây dựng ở vùng đồng bằng
dẫn đến diện tích trồng lúa ngày càng bị thu hẹp . Do đó những năm sắp tới cần
tăng cường thâm canh thực hiện tăng sản lượng dựa vào tăng năng suất cây
trồng chính là chủ yếu.
1.3.Về năng suất
Xu hướng tăng của năng suất ổn dịnh hơn so với xu hướng tăng của diện
tích. Từ năm 1991-2003 năng suất luôn tăng trong đó năm 1992 mức tăng khá
cao 2.2 tạ / ha – 7.07%, năm 2002 mức tăng 3 tạ/ha – 7% so với năm trước. Có
được mức tăng liên tục như trên là do nông nghiệp nước ta đã có được những
đầu tư về vốn, khoa học, kỹ thuật cho sản xuất nhưng mức sản lượng này còn
thấp so với tiềm năng và so với nhiều nước trên thế giới. Do đó Viêt Nam cần
chú ý đầu tư vào sản xuất hơn.
Theo tạp chí con số và sự kiện –7-2004. Trong 6 tháng đầu năm 2004
diện tích lúa đông xuân cả nước ước tính đạt 2978,4 nghìn ha , giảm 44,2 nghìn
ha và bằng 98,5 % vụ đông xuân năm 2003. Các địa phương phía Bắc đạt 1146
nghìn ha bằng 98,6%. Do đầu vụ năm nay ở phía Bắc có rét đậm kéo dài và hạn
hán trên diện rộng làm ảnh hưởng đến tiến độ gieo cấy. Các tỉnh phía Nam đạt
1814,4 nghìn ha, bằng 98,5 % do một phần diện tích lúa năng suất thấp được
chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản. Thời tiết cuối vụ diễn biến thuận lợi hơn tạo
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
14
điều kiện cho trà lúa chính vụ phát triển tốt và năng suất khá. Đến trung tuần
tháng 6 các địa phương phía bắc thu hoạch 856 nghìn ha chiếm 74 % diện tích
gieo trồng, năng suất ước đạt 57,8 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha so với vụ đông xuân năm
2003, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng đạt 62,2 tạ/ha tăng 0,8 tạ/ha ,vùng
trung bộ đã thu hoạch xong với 56,6 tạ/ha tăng 2,2 tạ/ha, miền núi phía bắc 49,4
tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha. Sản lượng lúa phia bắc ước tính đạt 6,73 triệu tấn, tăng 3,4
vạn tấn so với vụ đông xuân trước. Các địa phưong phía nam đã thu hoạch
xong với năng suất đạt 56,6 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha ,sản lượng ước tính đạt 10,3
triêu tânông dân tăng 14 vạn tấn. Trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt
8,6 triệu tấn tăng 11,9 vạn tấn. Tính chung năng suất lúa đông xuân năm nay cả
nước đạt 57,1 tạ/ha tăng 1,4 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2003 và sản lượng
đạt 17 triệu tấn tăng 17,4 vạn tấn. Có thể nói triển vọng năng suất và sản lượng
sẽ đạt ở mức cao
2 . Thực trạng về chế biến lúa gạo
Những năm gần đây công nghệ sau thu hoạch của nước ta đã có những
tiến bộ đáng kể.
-Tổn thất sau thu hoạch giảm xuống: tổn thất sau thu hoạch ( còn gọi là “
mất mùa trong nhà”) là tổn thất xảy ra ở tất cả các khâu của hệ thống sau thu
hoạch từ khi thu hoạch, sơ chế , bảo quản, chế biến đưa nông sản ra thị trường
cho đến khi tiêu dùng.
Theo số liệu thống kê và số liệu điều tra những năm trước đây (1990-
1991) của viện công nghệ sau thu hoạch và tổng cục thống kê thì tổn thất sau
thu hoạch lúa ở Việt Nam từ 13%-16% trên tổng sản lượng lúa thu hoạch ,
tương đương 1-2% GDP hàng năm. Mức tổn thất được chi tiết cho các khâu
sau:
+Khâu thu hoạch: 1.3-1.7%
+Khâu vận chuyển:1.2-1.5%
+Khâu đập, tuốt lúa: 1.4-1.8%
+Khâu phơi sấy, làm sạch:1.9-2.1%
+Khâu bảo quản :3.2-3.9%
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
15
+Khâu xay xát:4-5%
Theo điều tra của viện công nghệ sau thu hoạch, trong gần 10 năm (1992-
2002), nhờ áp dụng công nghệ sau thu hoạch của lúa giảm xuống 10-12%. Như
vậy trung bình đã giảm được 3- 4% tương đương 1 triệu tấn lúa. Các nhà kinh
tế đã tính toán rằng cứ 1% tổn thất tương đương 7 triệu USD hay 100 tỷ đồng .
Việc giảm tỷ lệ tổn thất xuống còn 3- 4% tương ứng việc tăng thêm 1-28
triệu USD hay 300- 400 tỷ VND cho đất nước.
Giá trị sản lượng của lúa gạo tăng lrên: Nhờ áp dụng công nghệ sau thu
hoạch đặc biệt công nghệ bảo quản, chất lượng gạo xuất khẩu thay đổi theo
hướng tỷ trọng gạo có chất lượng cao tăng lên , tỷ trọng gạo có chất lượng thấp
giảm xuống. Năm 1990 tỷ lệ gạo 40% tấm chiếm 55% tổng khối lượng gạo xuất
khẩu, gạo phẩm chất cao 5% tấm chỉ chiếm 3.3%. Năm 1998 gạo phẩm chất
cao tăng lên 27% từ 1999 gạo phẩm chất cao xuất khẩu chiếm 35- 40%. Công
nghệ chế biến gạo tiên tiến đặc biệt công nghệ tách hạt và đánh bóng gạo đã
góp phần quan trọng đưa Việt Nam lên hàng thứ hai trong số các nước xuất
khẩu gạo.
Hệ thống máy xay xát lúa gạo ở Việt Nam
Số máy Tổng công suất (tấn/ha)
1.Khối cơ sở quốc doanh
Miền Bắc
Miền Nam
950
278
348
3600
2756
5844
2.Khối cơ sở tự nhiên 3890 17400
3.Các cơ sở khác 160 10000
Tổng số 5000 26000
Nguồn : Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn –2001
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
16
Hiện nay các cơ sở xay xát đã đủ sức xay xát hết số thóc cho tiêu dùng và
xuất khẩu, trung bình mỗi năm khoảng 13.5 triệu tấn tronmg đó Đồng bằng
sông Hồng là 4 triệu tấn, sông Cửu Long là 9 triệu tấn. Các cơ sở xay xát quốc
doanh thực hiện một quy trình xay xát khép kín từ khử trấu, xát trắng đánh
bóng, tạo màu, phân loại, đóng bao. Các cơ sở tư nhân chỉ tiến hành 1 hay 2
công đoạn của quá trình xay xát gạo nhưng chiếm 75% lượng gạo xay xát của
cả nước.
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
Năm 1989 Việt Nam đã có mức tăng trưởng đầy ấn tượng về lượng gạo
xuất khẩu . Năm đó chúng ta xuất khẩu được hơn 1.4 triệu tấn gạo, thu về 290
triệu USD với giá bình quân 204 USD/tấn trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3
thế giới sau Thái Lan và Mỹ. Những năm tiếp theo lượng gạo xuất khẩu có xu
hướng tăng ở mức ổn định và trở thành 1 trong 10 mặt hàng xuất khẩu thu về
lượng ngoại tệ lớn cho đất nước .
10 nhà xuất khẩu gạo năm 2003
STT Tên nước Sản lượng (tấn)
1 Thái Lan 7,500,000
2 Ấn Độ 4,000,000
3 Việt Nam 3,500,000
4 Mỹ 2,950,000
5 Trung Quốc 2,250,000
6 Burma 1,500,000
7 Pakistan 800,000
8 Urugoay 650,000
9 Ôtrâylia 500,000
10 Ai Cập 500,000
§Ò ¸n m«n häc NguyÔn ThÞ H©n
17
Nguồn : Báo cáo thực trạng và tổng quan thị trường gạo thế giới được bộ
nông nghiệp Mỹ công bố.
Tính chung trong 15 năm, nứơc ta tham gia thị trường gạo xuất khẩu,
chúng ta đã cung cấp hơn 40 triệu tấn, bình quân 2.7 triệu tấn/ năm, thu về cho
đất nước hơn 9 tỷ USD đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ
hai trên thế giới sau Thái Lan.
1.Số lượng và kim ngạch xuất khẩu
Do sản xuất tăng nhanh và ổn định, mức lương thực bình quân nói
chung và lúa gạo nói riêng liên tiếp được cải thiện, Việt Nam không những tự
túc được lương thực trong nước, mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu. Năm
1989 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với nền kinh tế và ngoại thương nước
ta. Việt Nam xuất hiện trên thị trường thế giới với vị trí là một nước xuất khẩu
thứ 3. Trên thực tế, số lượng và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam những năm
gần đây càng gia tăng hơn.
Bảng: Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam
Số lượng (nghìn tấn) Giá trị(triệu USD) Năm
Số lượng % thay đổi so
với năm
trước
Giá trị % thay đổi so
với năm
trước
1989 1450 - 290 -
1990 1624 12.00 374 28.96
1991 1033 -36.39 234 -37.43
1992 1946 88.38 418 78.63